Đề.
Hãy chọn phân tích một đoạn
thơ hay một nhân vật truyện giúp em cảm nhận được sức mạnh của kỷ niệm
trong cuộc sống mỗi con người.. Trình bày những tác động của đoạn thơ hay nhân vật
truyện đó đối với bản thân em.
Bài
làm
Ai cũng có một khoảng trời tuổi thơ.
Có tuổi thơ với rất nhiều những trò chơi của con trẻ miền quê, có tuổi thơ đong
đầy những lời ru câu hát của mẹ, có tuổi thơ gắn liền cùng những hình ảnh ấn tượng
nào đó mà kí ức mãi khắc sâu. Với Bằng Việt, qua bài thơ “Bếp lửa”, niềm nhớ về
một tuổi thơ đã xa lại được gợi hết qua hình ảnh bếp lửa. Đây cũng chính là
hình ảnh gợi nhắc nhà thơ biết bao nhiêu những kỉ niệm đẹp tươi bên người bà
thân thương của mình. Bài thơ chính là lời tâm tình thủ thỉ nhẹ nhàng của đứa
cháu ở nơi xa hướng về bà cũng nỗi nhớ quê hương, gia đình khắc khoải:
Một bếp lửa chờn vờn
sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng
mưa.
…
Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn
khói trăm tàu
Có lửa trăm nhà, niềm vui
trăm ngả
Nhưng vẫn chẳng lúc nào
quên nhắc nhớ:
– Sớm mai này bà nhóm lửa
lên chưa?
Bài thơ “Bếp lửa” được ra đời
vào năm 1963 và lúc này nhà thơ đang là sinh viên đang du học tại Liên Xô và bắt
đầu có những tiếp xúc đầu tiên với thơ ca. Thông qua những dòng hồi tưởng kết hợp
với miêu tả, sự sự và bình luận, bài thơ là những dòng viết về tình cảm, cảm
xúc chân thành của nhân vật trữ tình – người cháu và hình ảnh người bà giàu
tình thương và đức hi sinh.
Bếp lửa là ngọn nguồn xúc cảm, là những
kỉ niệm tuổi thơ bên bà, là nỗi mong nhớ về người bà nơi xa…Ngay từ những dòng
mở đầu của bài thơ, người đọc đã thấy sự hiện diện của hình ảnh bếp lửa đầy ấm
áp và thân thương:
Một bếp lửa chờn vờn
sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng
mưa.
Ba tiếng “một bếp lửa” được nhắc
lại hai lần, trở thành điệp khúc mở đầu bài thơ với giọng điệu sâu lắng, khẳng
định hình ảnh “bếp lửa” như một dấu ấn không bao giờ phai mờ trong tâm tưởng của
nhà thơ. Đoạn thơ làm hiện hình lên trong tâm trí người đọc hình ảnh bếp lửa
quen thuộc, gần gũi của chốn đồng quê Việt Nam bình dị hiền hòa. Một bếp lửa nhỏ
lẩn khuất trong sương trong gió nhưng luôn nồng đượm và ấm áp. Trong mái lá nhà
tranh, e ấp trong lũy tre làng từng đêm từng ngày bếp lửa tắt rồi lại được nhóm
lên.Mấy ai là người Việt Nam mà không nhớ đến hình ảnh ấy. Bằng Việt đã lọc bỏ
hết mọi yếu tố xung quanh để cho bếp lửa trở thành hình ảnh trung tâm, gây chú
ý sâu sắc đối với người đọc. Ánh sáng và hơi ấm dường như tỏa khắp không gian, ấm
vào cả lòng người. Bếp lửa ấy không yên lặng mà nó luôn vận động. Từ láy “chờn
vờn” rất thực như gợi nhớ, gợi thương đến dáng hình bập bùng, chập chờn của
ngọn lửa trong kí ức. Ngọn lửa hắt hiu, chờn vờn theo gió, ấp iu biết bao nồng
đượm, biết bao tình cảm mến yêu của con người. Từ láy “ấp iu” cũng là một sáng
tạo mới mẻ của nhà thơ. Đó không phải là một từ láy đơn thuần là sự kết hợp và
biển thể của hai từ “ấp ủ” và “nâng niu”. Từ láy “ấp iu” gợi nhớ đến bàn
tay kiên nhẫn, khéo léo và tấm lòng chăm chút của người nhóm lửa, lại rất chính
xác với công việc nhóm bếp hằng ngày. Từ hình ảnh “bếp lửa”, ta liên tưởng đến
hình ảnh người nhóm bếp: người mẹ, người chị và đặc biệt trong bài thơ này là
người bà – người phụ nữ cả một đời vất vả lo toan cho cháu, chăm lo, vun vén
cho cuộc sống của cháu trong những năm kháng chiến chống Pháp đầy khó khăn và
gian khổ. Bếp lửa là biểu hiện cụ thể, đầy gợi cảm về sự tần tảo, sự chăm sóc,
yêu thương của bà dành cho cháu và những người thân. Bếp lửa là tình bà ấm
nóng. Bếp lửa ban ngày bà chăm chút.
Từ đôi bàn tay cằn cỗi bà, ngọn lửa
đã cháy lên. Rất tự nhiên, hình ảnh bếp lửa đã làm trỗi dậy tình yêu thương vốn
đã rất nồng ấm trong tim người cháu:
Cháu thương bà biết mấy nắng
mưa.
Chữ “thương” diễn đạt rất chân thật,
giản dị, không một chút hoa mĩ như chính tấm lòng của đứa cháu đối với bà. Tình
thương tràn đầy của cháu đã được bộc lộ một cách trực tiếp và giản dị. Đằng sau
sự giản dị ấy là cả một tấm lòng, một sự thấu hiểu đến tận cùng những vất vả,
nhọc nhằn, lam lũ của đời bà. Nghệ thuật ẩn dụ “biết mấy nắng mưa” nhán
mạnh cả cuộc đời bà chịu thương chịu khó có cả những đắng cay, nhọc nhằn. Qua bao năm tháng, nắng mưa, bà vẫn nhóm bếp
lửa mỗi sáng, mỗi chiều và suốt cả cuộc đời, trong mọi cảnh ngộ. Ngọn lửa ấy đã
trải qua bao nắng mưa gió rét để bùng cháy lên mỗi sớm, mỗi chiều. Ngọn lửa ấy
cháy lên cùng với niềm vui, ánh sáng và niềm tin vững chắc vào cuộc sống dù
đang còn biết bao gian khổ, nguy nan. Ba câu thơ mở đầu đã diễn tả cảm xúc đang
dâng lên cùng với những kí ức, hồi tưởng của tác giả về bếp lửa, về bà, là sự
khái quát tình cảm của người cháu với cuộc đời lam lũ của người bà.
Chỉ với ba câu thơ nhưng lại có đến
hai lần điệp ngữ “một bếp lửa”. Phải! Chỉ một bếp lửa nhỏ bé ấy cũng đủ
soi sáng cả quãng đường cháu đi, đủ để gợi về cả một quá khứ, một tình yêu
thương mãnh liệt. Hình ảnh ấy được lặp đi như tô, như khắc đậm thêm tình yêu
thương của cháu đối với bà.
Từ hình ảnh bếp lửa trong tâm tưởng,
nhà thơ tìm về với kí ức tuổi thơ những ngày sống cùng bà. Nhà thơ nhớ rất rõ từng
giai đoạn thời gian bởi nó gắn với những kỉ niệm không thể nào quên. Hình ảnh bếp
lửa gợi về những năm tháng tuổi thơ sống bên bà tám năm ròng, làm hiện lên hình
ảnh người bà với bao nỗi vất vả và tình yêu thương, trìu mến dành cho cháu. Từ
kỉ niệm, người cháu đã trưởng thành suy ngẫm và thấu hiểu cuộc đời bà, lẽ sống
giản dị mà cao quý của bà và mong muốn gửi niềm nhớ thương sâu sắc về với bà.
Bà là người phụ nữ tần tảo, giàu đức hi sinh. Bếp lửa bà nhen mỗi sớm mai không
chỉ bằng rơm rạ mà còn được nhen lên bằng chính ngọn lửa trong lòng bà, ngọn lửa
của sự sống, lòng yêu thương và niềm tin tưởng. Từ bếp lửa bình dị, quen thuộc,
người cháu nhận ra bao điều “kì diệu” và “thiêng liêng”. Bà là người đã thắp
lên sự sống, xua đi khổ cực của cuộc đời. Đồng thời, bà cũng là người đã nhen
nhóm thắp lên trong cháu nhiều mơ ước, thắp lên ngọn lửa của niềm tin.
Bà và bếp lửa đã trở thành một mảnh
tâm hồn, một phần không thể thiếu trong đời sống tinh thần của tác giả dù cho
lúc này, hai bà cháu đang chia xa. Chỉ khi nào con người ta phải sống xa gia
đình, xa người thân thì những ký ức mới hay trở về. Dù trường thành, cháu vẫn
luôn nhớ khôn nguôi:
Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn
khói trăm tàu,
Có lửa trăm nhà, niềm vui
trăm ngả,
Nhưng vẫn chẳng lúc nào
quên nhắc nhở:
Sớm mai này, bà nhóm bếp lên chưa?
Thật vậy, giờ đây, tuy không được ở gần
bên bà, ở gần quê hương nhưng tâm hồn của người cháu vẫn luôn hướng về mảnh đất
chôn nhau cắt rốn, nơi có người bà lặng lẽ, cô đơn. Ta thấy nhà thơ đang đúc
rút gói gọn lại trong nỗi thương nhớ ấy là tất cả sự biết ơn và kính trọng đối
với người bà của mình. Khổ thơ được mở đầu bằng những câu thơ miêu tả sự đổi
khác của cuộc sống thực tại. Ở dòng thơ đầu tiên, với dấu phẩy được ngăn cách ở
giữa, chia tách câu thơ làm đôi: "Giờ cháu đã đi xa, có ngọn khói trăm
tàu" đã gợi sự đổi thay về thời gian cũng như không gian. Điệp từ “trăm”
mở ra một thế giới rộng lớn với bao điều mới mẻ. Tuổi thơ đã lùi xa, đứa cháu
nhỏ năm xưa giờ đã lớn khôn, đã được chắp cánh bay cao, bay xa đến những chân
trời cao rộng có “ khói trăm tàu”,”lửa trăm nhà”,”niềm vui trăm ngả”. Điệp
từ "trăm", "có" kết hợp với thủ pháp liệt kê đã nhấn
mạnh hơn nữa những thay đổi đó. Nhưng khoảng cách về không gian, thời gian và
khói trăm tàu, lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả không thể làm cháu lãng quên ánh
sáng và hơi ấm từ bếp lửa của bà, của quê hương, không quên được những lận đận
đời bà, tấm lòng ấm áp của bà, những tận tụy hy sinh vì tình nghĩa của bà… Có
biết bao niềm vui ở một nơi hạnh phúc, nhưng nào bằng được nỗi nhớ thương của
cháu về bà với nỗi nhớ nhà nhớ quê hương.
Đã bao năm trôi qua rồi, cháu giờ đang sống nơi xa, ở một khung trời mới mà chưa một lần quên đi hình dáng của bà bên bếp lửa thân thương. Nhưng trong tâm hồn người cháu vẫn luôn khắc khoải, thường trực nỗi nhớ về người bà: "Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?". Câu hỏi tu từ ấy gợi cho người đọc cảm nhận như có một nỗi nhớ khắc khoải, thường trực, một nỗi nhớ đau đáu khôn nguôi, luôn nhớ về bà. Nhớ về bà cũng chính là nhớ về quê hương, nhớ về cội nguồn. Câu hỏi tu từ đã tạo nên kết cấu đầu cuối tương ứng bởi ở khổ thơ đầu của bài thơ, tác giả cũng nhắc đến hình ảnh người bà và bếp lửa với ý nghĩa là nơi bắt đầu nỗi nhớ. Nơi bắt đầu nỗi nhớ chính là hình ảnh quen thuộc, ấm áp của tình bà cháu, và kết thúc bài thơ, hình ảnh đó tiếp tục xuất hiện và được nhấn mạnh hơn nữa thông qua câu hỏi tu từ, cho thấy nỗi nhớ về người bà tần tảo sớm hôm luôn khắc khoải và thường trực trong tâm hồn của tác giả dẫu cho thời gian không ngừng chảy trôi và nhịp sống đã đổi khác. Câu thơ cuối cùng đọng lại đầy ám ảnh trong lòng bạn đọc. “Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?”- cả một miền xúc cảm nghẹn ngào từ một khung hình kỉ niệm, từ một miền trời thương nhớ. Nơi miền kí ức ấy có dáng hình lam lũ tảo tần của bà, có tiếng tu hú, có những cánh đồng, có những túp lều và cả những gian khổ mà hai bà cháu đã cùng nhau vượt qua. Dẫu cuộc sống đổi thay theo hướng hiện đại nhưng người cháu vẫn luôn "chẳng lúc nào quên nhắc nhở" bản thân trân trọng những giá trị, những kỉ niệm thuộc về quá khứ, không ngừng tự nhắc nhở bản thân nhớ về những gì đã qua. Dù cuộc sống đổi khác nhưng quá khứ vẫn luôn sống động trong tâm hồn tác giả.
Như vậy, thông qua nỗi nhớ thường trực,
khắc khoải của người cháu, chúng ta có thể thấy được tình cảm sâu nặng đối với
cội nguồn. Đồng thời, nỗi nhớ đó đã góp phần tô đậm hơn nữa tình cảm bà cháu
thiêng liêng, cao quý. Tất cả đã được làm nổi bật thông qua những lời thơ dạt
dào và chứa chan cảm xúc. Ngôn ngữ mộc mạc dung dị cùng kết hợp hệ thống hình ảnh
thơ hết sức bình dị, gần gũi nhưng vẫn giàu sức gợi. Dòng cảm xúc chân thành,
tha thiết khiến cho người đọc cảm thấy thật thấm thía, xúc động trước nỗi nhớ
nhung da diết về những kỉ niệm ấu thơ của người cháu và cả tấm chân tình của
nhà thơ đối với người bà kính yêu. Qua đó, chúng ta càng cảm thấy yêu, càng cảm
thấy trần trọng hơn tình cảm đối với gia đình, với quê hương, đất nước.
Kỷ niệm của cháu về kỉ niệm của tuổi thơ về bà – một người truyền
lửa, truyền sự sống, tình yêu thương và niềm tin “dai dẳng” bất diệt cho thế hệ
tiếp nối giúp em nhận ra rằng kỷ niệm là món quà của quá khứ và là một phần của
cuộc sống mỗi người. Dù nhỏ dù lớn, dù ít dù nhiều, mỗi kỷ niệm đều chứa đựng
trong đó những giá trị, sức mạnh lớn lao. Nó luôn tồn tại, luôn hiện hữu và tác
động lên chính cuộc sống của mỗi người. Kỷ niệm trong quá khứ luôn ẩn chứa những
bài học, kinh nghiệm quý báu cho mỗi chúng ta trong cả hiện tại và tương lai.
“Quá khứ là thầy dạy của tương lai”. Khi nhớ về những lần vụng dại hay vấp ngã,
em biết nhận ra những khiếm khuyết của mình để sửa đổi và trở nên tốt hơn. Kỷ
niệm còn là nguồn động lực giúp ta vượt qua những khoảnh khắc đen tối trong cuộc
đời. Từng khoảnh khắc hạnh phúc bên gia đình trong ký ức sẽ trở thành nguồn
nâng đỡ cho hi vọng tỏa sáng, nâng đỡ em suốt hành trình của cuộc đời. Những
hoài niệm, kí ức hay kỉ niệm sẽ là nguồn động viên, nâng đỡ em, khích lệ tinh
thần em vượt qua những thách thức, khó khăn, để biết trân trọng những điều đang
có. Em biết rằng rất nhiều người đã trở thành nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ, họa sĩ,…
chính nhờ vào những kỉ niệm họ có được trong đời. Chiếc cầu tre, dòng sông, cuộc
hành quân, sự tảo tần, khó nhọc của người cha, người mẹ, những câu chuyện trong
cuốn nhật kí đã viết,…; một nỗi buồn, một niềm vui đã qua,… tất cả giúp nhắc nhớ,
chiêm nghiệm về giá trị của cuộc sống, khơi nguồn cho không ngừng sáng tạo nghệ
thuật.
Một quá khứ không có tương lai sẽ lụi
tàn, và một tương lai không quá khứ sẽ lạc lối. Em sẽ sống thật ý nghĩa với nhiều
trải nghiệp để có được những kỷ niệm đẹp, đáng nhớ trong cuộc đời ngay khi còn
đang ngồi trên ghế nhà trường. Em sẽ giữ lấy những kỷ niệm tốt đẹp ở trong tim,
tha thứ và chấp nhận quên đi những kí ức tồi tệ đã là quá khứ. Em sẽ luôn nỗ lực
hết mình, sống trọn vẹn cho hiện tại và biết trân trọng quá khứ, biết nương vào
những kỷ niệm như là chốn bình yên, là động lực để vươn lên trong cuộc sống
luôn là điều cần thiết, ý nghĩa. Em luôn trân trọng những cái người mà ở bên cạnh
mình, lúc nào cũng đồng hành và đứng ở sau ủng hộ để em có được những cái động
lực và thành công được như ngày hôm nay đó chính là gia đình, bạn bè và những
người thân ở bên cạnh của mình.
Với “Bếp lửa”, Bằng Việt đã chắt lọc từ cuộc đời những kỉ niệm, những hình ảnh đẹp nhất về người bà thân yêu để dệt nên hình tượng “bếp lửa”, thể hiện lòng kính yêu trân trọng và biết ơn đối với bà và cũng là đối với gia đình, quê hương, đất nước. Ta chợt nhận ra rằng, trong sâu thẳm mỗi con người, luôn có những điều thật bình dị và thân thương. Hãy trân trọng những kí ức trong trẻo, mượt mà một thời ấy, vì đó là chốn bình yên để ta tìm về khi đã mỏi cánh bay, là hành trang quý báu để ta mang theo suốt cuộc hành trình dài và rộng của cuộc đời. Để một ngày nào đó dừng lại giữa dòng đời bất tận, ta mỉm cười vì luôn có một “bếp lửa” soi sáng trong tim…