Thứ Bảy, 29 tháng 2, 2020

Phân tích Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật



Đoàn giải phóng quân một lần ra đi.
Nào có sá chi đâu ngày trở về.
Ra đi ra đi bảo tồn sông núi.
Ra đi ra đi thà chết chớ lui.
Khúc hát quen thuộc từ xa chợt vọng lại gợi trong lòng chúng ta biết bao suy tưởng. Chúng ta như được sống lại một thời hào hùng của dân tộc theo tiếng hát sôi nổi trẻ trung và cũng bình dị như cuộc đời người lính. Không biết đã có bao nhiêu bài thơ nói về họ - những chàng Thạch Sanh của thế kỉ hai mươi. Tiêu biểu cho thời kì chống Mĩ cứu nước là Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật.
 Phạm Tiến Duật là một trong những gương mặt tiêu biểu của thế hệ các nhà thơ trẻ trưởng thành từ cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Thơ Phạm Tiến Duật tập trung thể hiện hình ảnh thế hệ trẻ trong cuộc kháng chiến chống Mĩ qua các hình tượng người lính và cô thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn. Thơ Phạm Tiến Duật có một giọng điệu sôi nổi, trẻ trung, hồn nhiên, hóm hỉnh, tinh nghịch mà sâu sắc.
 Bài thơ về tiểu đội xe không kính  được sáng tác trong thời kì cuộc kháng chiến chống Mĩ đang diễn ra rất gay go, ác liệt. Từ khắp các giảng đường đại học, hàng ngàn sinh viên đã gác bút nghiên để lên đường đánh giặc, và điểm nóng lúc đó là tuyến đường Trường Sơn – con đường huyết mạch nối liền hậu phương với tiền tuyến. Ra đời trong hoàn cảnh ấy, bài thơ với âm điệu hào hùng, khỏe khoắn đã thực sự trở thành hồi kèn xung trận, trở thành tiếng hát quyết thắng của tuổi trẻ Việt Nam thời kì chống Mĩ. Cảm hứng từ những chiếc xe không kính đã làm nền để nhà thơ chiến sĩ khắc họa thành công chân dung người chiến sĩ lái xe: ung dung tự tại, lạc quan sôi nổi, bất chấp mọi khó khăn gian khổ, tình đồng chí đồng đội gắn bó tình yêu đất nước thiết tha…
 Xưa nay, những hình ảnh xe cộ, tàu thuyền đưa vào thơ thì đều được “mĩ lệ hóa”, “lãng mạn hóa” và thường mang ý nghĩa tượng trưng hơn là tả thực. Người đọc đã bắt gặp chiếc xe tam mã trong thơ Pus-kin, con tàu trong “Tiếng hát con tàu” của Chế Lan Viên, đoàn thuyền đánh cá trong bài thơ cùng tên của Huy Cận. Ở bài thơ này, hình ảnh những chiếc xe không kính được miêu tả cụ thể, chi tiết rất thực. Lẽ thường, để đảm bảo an toàn cho tính mạng con người, cho hàng hoá nhất là trong địa hình hiểm trở Trường Sơn thì xe phải có kính mới đúng. Ấy thế mà chuyện “xe không kính” lại là môt thực tế, là hình ảnh thường gặp trên tuyến đường Trường Sơn.
Hai câu thơ mở đầu có thể coi là lời giải thích cho “sự cố” có phần không bình thường ấy: 
“Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung, kính vỡ đi rồi.”
Lời thơ tự nhiên đến mức buộc người ta phải tin ngay vào sự phân bua của các chàng trai lái xe dũng cảm. Chất thơ của câu thơ này hiện ra chính trong vẻ tự nhiên đến mức khó ngờ của ngôn từ.  Bằng những câu thơ rất thực, đậm chất văn xuôi, điệp ngữ “không”, cùng với động từ mạnh “giật”, “rung”. Tác giả đã lí giải nguyên nhân không có kính của những chiếc xe. Bom đạn chiến tranh đã làm cho những chiếc xe trở nên biến dạng “không có kính”, “không có đèn”, “không có mui xe”, “thùng xe có xước”. Từ đó, tác giả đã tạo ấn tượng cho người đọc một cách cụ thể và sâu sắc về hiện thực chiến tranh khốc liệt, dữ dội, về cuộc chiến đấu gian khổ mà người lính phải trải qua.
 Hình ảnh những chiếc xe không kính vốn chẳng hiếm trong chiến tranh, song phải có một hồn thơ nhạy cảm, có nét tinh nghịch, ngang tàn như Phạm Tiến Duật mới phát hiện ra được, đưa nó vào thơ và  trở thành biểu tượng độc đáo của thơ ca thời chống Mĩ.
Hình ảnh những chiếc xe không kính đã làm nổi rõ hình ảnh những chiến sĩ lái xe ở Trường Sơn. Thiếu đi những điều kiện, phương tiện vật chất tối thiểu lại là một cơ hội để người lính lái xe bộc lộ những phẩm chất cao đẹp, sức mạnh tinh thần lớn lao của họ, đặc biệt là lòng dũng cảm, tinh thần bất chấp gian khổ khó khăn.
Vẻ đẹp của người lính lái xe trước hết thể hiện ở tư thế hiên ngang, ung dung, đường hoàng, tự tin và tâm hồn lãng mạn, lạc quan, yêu đời:
“Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời,nhìn thẳng.”
Nghệ thuật đảo ngữ với từ láy “ung dung” được đảo lên đầu câu thứ nhất và nghệ thuật điệp ngữ với từ “nhìn” được nhắc đi nhắc lại trong câu thơ thứ hai đã nhấn mạnh tư thế ung dung, bình tĩnh, tự tin của người lính lái xe. Bất chấp mọi trở ngại, gian khổ, mặc kệ những hiểm nguy, người lính vẫn vững vàng ngồi vào buồng lái để làm nhiệm vụ. Từ chiếc xe không kính, người chiến sĩ đã quan sát cảnh vật bên ngoài. Cái nhìn của các anh là cái nhìn bao quát, rộng mở “nhìn đất”, “nhìn trời”, vừa trực diện, tập trung cao độ “nhìn thẳng”. Các anh nhìn vào khó khăn, gian khổ, hi sinh mà không hề run sợ, né tránh – một bản lĩnh vững vàng. Mặc cho bom đạn gào thét, anh vẫn cứ tiến lên. Anh chiến sĩ lái xe thật dũng cảm, hào hùng biết bao.
Trong tư thế ung dung ấy, người lính lái xe có những cảm nhận rất riêng khi được tiếp xúc trực tiếp với thiên nhiên bên ngoài:
“Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái.”
Sau tay lái của chiếc xe không có kính chắn gió nên các yếu tố về thiên nhiên, chướng ngại vật rơi rụng, quăng ném, va đạp vào trong buồng lái. Song, quan trọng hơn là các anh có được cảm giác như bay lên, hòa mình với thiên nhiên rồi được tự do giao cảm, chiêm ngưỡng thế giới bên ngoài. Điều này được thể hiện ở nhịp thơ đều đặn, trôi chảy như xe lăn với việc vận dụng linh hoạt điệp ngữ “thấy” và phép liệt kê. Có rất nhiều cảm giác thú vị đến với người lính trên những chiếc xe không có kính.  Các hình ảnh “con đường”, “sao trời”, “cánh chim”… diễn tả rất cụ thể cảm giác của những người lính khi được lái những chiếc xe không kính. Khi xe chạy trên đường bằng, tốc độ xe chạy đi nhanh, giữa các anh với con đường dường như không còn khoảng cách, chính vì thế, các anh mới có cảm giác con đường đang chạy thẳng vào tim. Và cái cảm giác thú vị khi xe chạy vào ban đêm, được “thấy sao trời” và khi đi qua những đoạn đường cua dốc thì những cánh chim như đột ngột “ùa vào buồng lái”. Thiên nhiên, vạn vật dường như cũng bay theo ra chiến trường. Nhịp thơ trở nên nhanh gấp, sôi nổi thể hiện tâm hồn yêu đời, yêu thiên nhiên, sự lạc quan của người chiến sĩ giải phóng quân thời chống Mĩ. Tất cả điều này đã giúp người đọc cảm nhận được ở các anh nét hào hoa, kiêu bạc, lãng mạn và yêu đời của những người trẻ tuổi. Tất cả là hiện thực nhưng qua cảm nhận của nhà thơ đã trở thành những hình ảnh lãng mạn.
Một vẻ đẹp nữa làm nên bức chân dung tinh thần của người lính trong bài thơ chính là tinh thần lạc quan, sôi nổi, bất chấp khó khăn, nguy hiểm:
“Không có kính, ừ thì có bụi,

Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.
Không có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tuôn, mưa xối như ngòai trời
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.”
Những câu thơ giản dị như lời nói thường, với giọng điệu thản nhiên, ngang tàn hóm hỉnh. Cấu trúc: “không có…”; “ừ thì…”, “chưa cần” được lặp đi lặp lại, các từ ngữ “phì phèo”, “cười ha ha”, “mau khô thôi”… làm nổi bật niềm vui, tiếng cười của người lính cất lên một cách tự nhiên giữa gian khổ, hiểm nguy của cuộc chiến đấu. Cài tài của Phạm Tiến Duật trong đoạn thơ này là cứ hai câu đầu nói về hiện thực nghiệt ngã phải chấp nhận thì hai câu sau nói lên tinh thần vượt lên để chiến thắng hoàn cảnh của người lính lái xe trong chiến tranh ác liệt. Xe không kính nên “bụi phun tóc trắng như người già” là lẽ đương nhiên, xe không có kính nên “ướt áo”, “mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời” là lẽ tất nhiên. Trước mọi khó khăn, nguy hiểm, các anh vẫn “cười” rồi chẳng cần bận tâm, lo lắng, các anh sẵn sàng chấp nhận thử thách, gian lao như thể đó là điều tất yếu. Các anh lấy cái bất biến của lòng dũng cảm, của thái độ hiên ngang để thắng lại cái vạn biến của chiến trường sinh tử gian khổ, ác liệt. Đọc những câu thơ này giúp ta hiểu được phần nào cuộc sống của người lính ngoài chiến trường những năm tháng đánh Mỹ. Đó là cuộc sống gian khổ trong bom đạn ác liệt nhưng tràn đầy tinh thần lạc quan, niêm vui sôi nổi, yêu đời. Thật đáng yêu và đáng tự hào biết bao!
Sâu sắc hơn,bằng ống kính điện ảnh của người nghệ sĩ, nhà thơ đã ghi lại những khoảnh khắc đẹp đẽ thể hiện tình đồng chí đồng đội của những người lính lái xe không kính:
“Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.”
Chính sự khốc liệt của chiến tranh đã tạo nên tiểu đội xe không kính. Những chiếc xe từ khắp mọi miền Tổ quốc về đây họp thành tiểu đội. Hình ảnh những chiếc xe không kính , xấu xí, tràn trụi xếp hàng tập trung thành tiểu đội. Một hình ảnh mang vẻ đẹp lãng mạn nhưng gai góc. Những chiếc xe “họp” mặt chính là hình ảnh của những anh lính lái xe cùng quây quần bên nhau để trò chuyện, chia sẻ những chuyện vui buồn của đời lính. Chỉ cần nhìn thấy “bạn bè dọc đường đi tới” là niềm vui, hạnh phúc dâng trào trong tâm hồn họ. Xe không kính lại trở thành điều kiện thuận lợi để các anh thể hiện tình cảm. Cái “bắt tay” thật đặc biệt “Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi”. Đây là cái bắt tay thân tình của những con người cùng chung chí hướng, cái bắt tay truyền lửa – ngọn lửa soi sáng những chặng đường khốc liệt được thắp lên từ triệu trái tim chiến sĩ tràn đầy nhiệt tình cách mạng. Những con người vốn “xa lạ”, gặp nhau nơi chiến trường, đồng điệu nhau ở tình yêu Tổ quốc và trở thành đồng đội, “đồng chí‘. Họ kề vai, sát cánh bên nhau không chỉ trong những giờ phút khốc liệt băng qua mưa bom bão đạn, đối mặt với kẻ thù, cận kề cái chết mà cả trong những phút giây ấm áp, thân tình. Có sự gặp gỡ với ý thơ của Chính Hữu trong bài thơ “Đồng chí”: “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay” nhưng hồn nhiên hơn, trẻ trung hơn. Đó là quá trình trưởng thành của thơ ca, của quân đội Việt Nam trong hai cuộc kháng chiến trường kì của dân tộc.
Tình đồng chí, đồng đội còn được thể hiện một cách ấm áp, giản dị qua những giờ phút sinh hoạt của họ:
“Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi lại đi trời xanh thêm.”
Gắn bó trong chiến đấu, họ càng gắn bó trong đời thường. Sau những phút nghỉ ngơi thoáng chốc và bữa cơm hội ngộ, những người lính lái xe đã xích lại thành gia đình: “Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”. Cách định nghĩa về gia đình thật lính, thật tếu hóm mà thật chân tình sâu sắc. Đó là gia đình của những người lính cùng chung nhiệm vụ, lí tưởng chiến đấu. Hình ảnh “bếp Hoàng Cầm”, “võng mắc chông chênh” là hiện thực của cuộc sống chiến trường được đưa vào thơ tự nhiên như hơi thở núi rừng. Hồn thơ cứ tự nó được khởi nguồn từ chính những hiện thực bình dị ấy. Nhưng nhịp điệu thơ lại được tạo nên bởi nhịp võng đưa, bởi nhịp bánh xe quay đểu. Từ láy “chông chênh” không chỉ mang lại vần điệu cho câu thơ mà còn có ý nghĩa gợi hình sâu sắc. Đó là hình ảnh thực của con đường xe chạy hay là những khó khăn trở ngại, những hiểm nguy mà người lính phải đối mặt trong chiến tranh? Nhưng khí phách, ý chí chiến đấu của những người lính ấy vẫn luôn vững vàng, kiên định. Ngọn lửa trái tim và tình đồng chí – tình cảm của những con người trong cùng “gia đình” đã nâng những bước chân lạc quan, phơi phới, ngân lên thành câu hát, băng qua “bom giật bom rung” để “Lại đi, lại đi trời xanh thêm”. Điệp từ “lại đi” lặp lại hai lần vừa thể hiện nhịp sống, chiến đấu của tiểu đội xe không kính vừa khẳng định tinh thần, ý chí cách mạng kiên định vững vàng không sức mạnh bạo tàn nào có thể ngăn nổi của những người lính. Dường như chính những bước chân ấy đã nhuộm lên màu xanh của bầu trời – màu xanh chứa chan hi vọng gợi lên tâm hồn lạc quan, sức trẻ, khát vọng và niềm tin chiến thắng của người lính Trường Sơn. Chính tình đồng chí, đồng đội đã biến thành động lực giúp các anh vượt qua khó khăn, nguy hiểm, chiến đấu bảo vệ Tổ quốc thân yêu.Sức mạnh của người lính thời đại Hồ Chí Minh là vẻ đẹp kết hợp truyền thống và hiện đại. Họ là hiện thân của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, là hình tượng đẹp nhất của thế kỷ “Như Thạch Sanh của thế kỷ hai mươi” (Tố Hữu).
Khổ thơ cuối đã hoàn thiện vẻ đẹp của người lính, đó là lòng yêu nước, ý chí chiến đấu giải phòng miền Nam:
“Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:
Chủ cần trong xe có một trái tim.”
Giờ đây những chiếc xe không chỉ mất kính mà lại không đèn, không mui, thùng xe có xước. Điệp ngữ “ không có” đi cùng với phép liệt kê “ kính , đèn , mui xe, thùng xe”  càng khắc họa tô đậm rõ nét, chân thực sự tàn phá, hủy hoại khủng khiếp của chiến tranh. Chiếc xe đã biến dạng hoàn toàn. Người lính gặp chất chồng khó khăn. Sự gian khổ nơi chiến trường ngày càng nâng lên gấp bội lần nhưng không thể làm chùn bước những đoàn xe nối đuôi nhau ngày đêm tiến về phía trước.
Nhưng nguyên nhân nào mà những chiếc xe tàn dạng ấy vẫn băng băng chạy như vũ bào? Nhà thơ đã lí giải: “Chỉ cần trong xe có một trái tim”. Câu thơ dồn dập cứng cáp hẳn lên như nhịp chạy của những chiếc xe không kính. Từ gợi tả “vẫn” cho thấy ý chí, quyết tâm của người lính, không hề lung lay trước sự hiên ngang ấy. Từ hàng loạt những cái “không có” ở trên, nhà thơ khẳng định một cái có, đó là “một trái tim”. “Trái tim” là một hoán dụ nghệ thuật tu từ chỉ người chiến sĩ lái xe Trường Sơn năm xưa. Trái tim của họ đau xót trước cảnh nhân dân miền Nam sống trong khói bom thuốc súng, đất nước bị chia cắt thành hai miền.  Trái tim ấy dào dạt tình yêu Tổ quốc như máu thịt, như mẹcha, như vợ như chồng… Trái tim ấy luôn luôn sục sôi căm thù giặc Mỹ bạo tàn.  Yêu thương, căm thù chính là động lực thôi thúc những người chiến sĩ lái xe khát khao giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Để ước mơ này trở thành hiện thực,chỉ có một cách duy nhất: vững vàng tay lái, cầm chắc vô lăng. Vì thế thử thách ngày càng tăng nhưng tốc độ và hướng đi không hề thay đổi. Đằng sau những ý nghĩa ấy, câu thơ còn muốn hướng con người về chân lý thời đại của chúng ta: sức mạnh quyết định chiến thắng không phải là vũ khí mà là con người giàu ý chí, anh hùng, lạc quan, quyết thắng. Có thể coi câu thơ cuối là câu thơ hay nhất của bài thơ. Nó là nhãn tự, là con mắt thơ, bật sáng chủ đề, tỏa sáng vẻ đẹp hình tượng người lính lái xe thời chống Mỹ.
 Giọng thơ ngang tàng, có cả chất nghịch ngợm, rất phù hợp với những đối tượng miêu tả (những chàng trai lái xe trên những chiếc xe không kính). Giọng điệu ấy làm cho lời thơ gần với lời văn xuôi, lời đối thoại, lời nói thường ngày nhưng vẫn thú vị và giàu chất thơ. Việc kết hợp linh hoạt thể thơ 7 chữ và 8 chữ, tạo cho bài thơ có điệu thơ gần với lời nói tự nhiên, sinh động. Những yếu tố về ngôn ngữ và giọng điệu bài thơ đã góp phần trong việc khắc họa hình ảnh người chiến sĩ lái xe trên tuyến đường Trường Sơn một cách chân thực và sinh động. Bài thơ không chỉ nói về tiểu đội xe không kính, nó còn phản ánh cả khí thế quyết tâm giải phóng miền Nam của toàn quân và toàn dân ta, khẳng định rằng ý chí của con người mạnh hơn cả sắt thép.
Qua bài thơ, tác giả đã xây dựng hình tượng người lính lái xe trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ là những con người anh hùng, dũng cảm, lạc quan, yêu đời, coi thương gian khổ để hoàn thành nhiệm vụ, biết hi sinh bản thân mình vì nghĩa lớn, vì nhân dân, vì đất nước:
Cái vết thương xoàng mà đưa viện
Hàng còn chờ đó tiếng xe reo
Nằm ngửa nhớ trăng, nằm nghiêng nhớ bến
Nôn nao ngồi dậy nhơ lưng đèo.”
Người lính thời đại Hồ Chí Minh là vẻ đẹp kết hợp truyền thống và hiện đại. Họ là hiện thân của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, là hình ảnh tiêu biểu của thế hệ trẻ Việt Nam trên tuyến đường Trường Sơn gian khổ, hào hùng.


Nguồn: St &

CẢM NHẬN VỀ BÀI THƠ VỀ TIỂU ĐỘI XE KHÔNG KÍNH



“Xe ta quý ta yêu
Ôi chiếc xe đồng chí
Cùng ta lăn sớm chiều
Cùng ta đi đánh Mĩ.”   (Bài ca lái xe đêm – Tố Hữu)
Trong cuộc trường chinh chống Mĩ, để giải phóng quê hương, để giành lấy độc lập, để dành lại tự do cho dân tộc, người chiến sĩ giải phóng quân đã trở thành nhân vật tiêu biểu, hội tụ những gì cao đẹp nhất. Những chàng trai đó đã được nhân dân và thế giới khâm phục, ngưỡng mộ. Hình ảnh anh chiến sĩ hào hùng, sôi nổi, trẻ trung đã trở thành nguồn cảm hứng dạt dào, là đề tài bất tận, bất tận cho các nhà thơ, nhà văn sáng tác. Là một nhà thơ phục vụ trong quân đội, phục vụ trong binh đòan lái xe vận tải, trên con đường máu lửa Trường Sơn, Phạm Tiến Duật đã cảm nhận sâu sắc cuộc sống người chiến sĩ lái xe trên con đường lịch sử này. Ông đã sáng tác một bài thơ hay, một bài thơ độc đáo. Đó là “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”. Phân tích bài thơ, ta mới cảm nhận, hiểu biết đầy đủ hơn về người lính, đồng thời đó ta cũng sẽ thấy được nét đặc sắc về ngôn ngữ và giọng điệu bài thơ.
Trên con đường rừng Trường Sơn huyết mạch và nổi tiếng với tên gọi “đường mòn Hồ Chí Minh”, những chiếc xe thuộc đơn vị vận tải vẫn lao nhanh ra chiến trường tiếp viện. Những chiếc xe và chiến sĩ lái xe trở thành quen thuộc, đáng yêu. Nhà thơ viết về họ với phong cách tự nhiên thật độc đáo.
Nguồn cảm hứng của nhà thơ bắt nguồn từ hiện thực “chiếc xe không có kính” và càng bất ngờ hơn, gây ấn tượng mạnh mẽ hơn là là không chỉ có một chiếc xe thôi đâu mà là cả một “tiểu đội xe không kính”. Hình ảnh những chiếc xe đó được nhấn mạnh trong câu thơ đầu tiên, một lời giới thiệu khá độc đáo, thân thương:
“Không có kính không phải vì xe không có kính”
Câu thơ thoạt nghe như lời kể lể, giải bày. Với ngôn ngữ giản dị, mộc mạc, giống như lời nói của người chiến sĩ giới thiệu chiếc xe yêu quý mà mình đang sử dụng. Xe vốn thường có kính và chiếc xe có kính là điều bình thường, không có gì đáng nói. Chi tiết tả thực không có kính mới gây sự chú ý, bất ngờ và là một thực tế có sức khơi gợi mạch thơ, có sức khơi gợi lòng người. Nếu vế đầu của câu thơ đó có tính chất phủ định thì ở vế sau của câu thơ lại nhằm khẳng định, nhấn mạnh”không phải vì xe không có kính”. À! Thì ra trước kia vẫn nguyên vẹn, lành lặn với các bộ phận đó chứ đâu phải xe mới ra đời là đã không có kính. Vậy tại sao lại có sự không bình thường ấy chứ? Vì sao cả một”tiểu đội xe không kính”? Nhà thơ bước vào tư thế, vị trí kiên cường của người chiến sĩ lái xe để trả lời:
“Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi.”
Thì ra cái lí do, cái nguyên nhân là vì chiến tranh mà ra cả. Chiến tranh phá hoại chiếc xe, làm cho chiếc xe tàn tạ, trở thành chiếc xe không mui, không đèn, không thể không xước đi, yếu dần. Điệp từ “bom” kết hợp với các động từ “giật”, “rung”đã tái hiện lại không khí, tính chất khốc liệt, gay go của cuộc chiến đấu giữa ta và giặc, phơi bày và tố cáo bản chất hung bạo, ngông cuồng của quân giặc. “Mưa bom bão đạn” của chúng dội xuống Trường Sơn thật là dữ dội, ác liệt. Bọn chúng định dùng sức mạnh với các vũ khí hiện đại để chặn đường tiếp tế, tiến công của ta, làm lung lay ý chí, tinh thần chiến đấu của người chiến sĩ. Sức ép của bom đạn khi nổ, những mảnh bom trúng vào chiến sĩ, trúng vào chiếc xe khiến cho chiếc xe bị trầy, khiến cho chiếc xe “kính vỡ đi rồi”.Lời thơ vẫn nhẹ nhàng thể hiện sự bình thản của người cầm lái. Đối lập với thực tế khó khăn, khắc nghiệt về điều kiện bởi những chiếc xe bị hư hại là thái độ của người chiến sĩ lái xe:
“Ung dung buồng lái ta ngồi”
Từ “ung dung” đặt trong phép đảo ngữ như đang diễn tả thái độ tự tin, bình tĩnh, không một chút nao núng, run sợ của người chiến sĩ. Bất chấp mọi trở ngại, gian khổ, mặc kệ những hiểm nguy, người lính vẫn vững vàng ngồi vào buồng lái để làm nhiệm vụ. Thái độ ấy xuất phát từ phẩm chất gan dạ, anh hùng và từ chiếc xe không kính, người chiến sĩ đã quan sát cảnh vật bên ngoài
“Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.”
Câu thơ viết theo nhip hai-hai-hai thật cân đối. Nó thể hiện sự nhịp nhàng, thăng bằng của chiếc xe đang lăn bánh và nhất là thái độ tự tin, bình tĩnh của người cầm lái. Điệp ngữ “nhìn” đã nhấn mạnh, khắc sâu vẻ đẹp từ cach quan sát của người chiến sĩ. Một vẻ đẹp xuất phát từ tâm hồn, tấm lòng của anh. Cách nhìn chăm chú đó biểu lộ niềm yêu thương của anh với thiên nhiên và cuộc sống, sự quyết tâm vững vàng trong nhiệm vụ. Anh “nhìn đất”để thêm gắn bó, yêu thương con đường Trường Sơn hào hùng, thân thuộc để dẫn đưa chiếc xe đến chổ, nơi an tòan, mau mau đến đích. Anh “nhìn trời”để tâm hồn thêm lạc quan, bay bỗng, thêm tin tưởng vào tương lai. Anh “nhìn thẳng” là nhìn về phía trước, nhìn vào con đường trước mặt cần vượt qua, nhìn vào nhiệm vụ đầy gian khổ, khó khăn thử thách của mình để thêm cương quyết, tích cực mà sẵn sàng đối phó, đương đầu với bao hiểm nguy, gian khổ, khó khăn. Bởi thế, mặc cho bom đạn gào thét, anh vẫn cứ tiến lên. Anh chiến sĩ lái xe thật dũng cảm, hào hùng biết bao.
Chiếc xe của anh không còn bộ phận nào để che chắn nên giờ nay người chiến sĩ đã tiếp xúc trực tiếp với thế gới bên ngoài khi chiếc xe lao đi, lao đi mà không ngỏanh lại:
“Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim”
Cảm giác của người chiến sĩ về cơn gió là cảm giác trực diện. Anh không chỉ cảm thấy cơn gió vào “xoa mắt đắng” mà đã nhìn thấy cơn gió vô hình. Để làm giảm bớt vị đắng, sự khó chịu nơi con mắt bỡi những ngày đêm thức trắng để lái xe không nghỉ ngơi, anh đã cho chị gió xoa mắt đắng, xoa nó đi để rồi ngày mai anh đi tiếp, đi tiếp về tương lai. Cảm giác ấy càng phát triển mạnh mẽ khi anh “nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim”. Sự liên tưởng ấy thật đẹp và thật độc đáo khi chiếc xe lao tới, con đường lúc ấy như chạy ngược về phía trước. Sự tin tưởng phù hợp với tấm lòng của người lái, đó là tấm lòng nhiệt tình, hăng say trong nhiệm vụ. Trái tim người chiến sĩ luôn luôn dạt dào tình yêu Tổ Quốc, quê hương mà đặc biệt là con đường thân thuộc, gần gũi, con đường hứng chịu bao bom đạn máu lửa. Chiếc xe vẫn cứ lao nhanh, lao xa đi mãi, tiến lên phía trước vì người lính biết rõ mục đích, lí tưởng công việc cao cả của mình là cống hiến, hoạt độn vì ai, để làm gì?
“Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa như ùa vào buồng lái.”
Cuộc chiến ấy thật hiểm nguy, thử thách nhưng tâm hồn người chiến sĩ luôn lng mạn, bay bỗng khi anh quan st từ chiếc xe khơng kính để thấy “sao trời, cánh chim”. Có lẽ, tâm hồn anh phải hân hoan, phơi phới yêu đời nên mới có được cảm nhận “…mhư sa, như ùa vào buồng lái.”. Nếu điệp ngữ “nhìn thấy” diễn tả thi độ quan sát chủ động của người chiến sĩ đối với cảnh vật thì động từ “thấy” lại nhấn mạnh đến sự xuất hiện bất ngờ, mau lẹ, “đột ngột” của cánh chim đêm. Cách nhìn ấy thật tinh tế! Một ngôi sao, một cánh chim lạc đàn cũng làm anh chú ý, quan tâm xao xuyến. Nhịp thơ trở nên nhanh gấp, sôi nổi thể hiện tâm hồn yêu đời, yêu thiên nhiên, sự lạc quan của người chiến sĩ giải phóng quân thời chống Mĩ. Như một bài ca đã từng được viết:
“Cuộc đời vẫn đẹp sao
Tình yêu vẫn đẹp sao
Dù đạn bom man rợ thét gào
Dù thân thể thiên nhiên mang đầy thương tích.”
Đối với người chiến sĩ lái xe, chiếc xe “không kính” đem lại những cảm giác khi lao đi trên đời vắng. Nhưng đó cũng là nguyên nhân gây ra hậu quả:
“Không có kính, ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già.”
Khổ thơ bắt đầu bằng cấu trúc lặp lại “không có kính” như muốn nhấn mạnh phác họa ra vẻ lạ lùng, độc đáo của chiếc xe và là lí do khiến xe “có bụi”. Mất đi bộ phận chắn che, người lái và chiếc xe như đi giữa bụi đất. Điệp từ “bụi” và động từ “phun” diễn tả, nhấn mạnh mức độ ghê gớm đến đáng sợ của bụi: bụi bay, bụi cuốn mù mịt cả không gian, cả đất trời trong mỗi lần xe chạy và kéo dài suốt cả chặng đường dài. Trong bài thơ Lá Đỏ, nhà thơ Nguyễn Đình Thi cũng đã cảm nhận về cơn bụi nơi đây, nó vội vã như người lính, người chiến binh hào hùng:
“Đoàn quân vẫn đi vội vã
Bụi Trường Sơn nhòa trong trời lửa.”
Những cơn bụi đó qua khung kính vỡ đã vô buồng lái, phủ đầy tóc tai, đầy khuôn người lính biến thành hình tượng ngộ nghĩnh, đáng yêu qua cách so sánh của nhà thơ “tóc trắng như người già”. Phải chăng đây chính là “những con quỷ mắt đen” như Lê Minh Khuê đã diễn tả về các cô thanh niên xung phong trên cao điểm Trường Sơn? Anh chiến sĩ đôi mươi kia, trẻ trung, sôi động giờ đây đã được “hóa trang” thành một con người khác, già đi gấp bội bởi lớp bụi dày bám lên tóc. Cái gian khổ của anh chiến sĩ lái xe được diễn tả lại sao mà nhẹ nhàng đến thế. Họ không kêu ca, than vãn mà lại lấy chính cái gian khổ của mình để tự động viên mình bằng cách khôi hài nữa ấy chứ.
“Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.”
Nếu từ ngữ “ừ thì” thể hiện sự chấp nhận, chịu đựng những cơn “mưa bụi nhiệm màu” thì thi độ “chưa cần rửa” lại là sự thách thức, bất chấp, xem thường mọi gian khổ. Gian khổ này dường như không tác động đến ý chí, quyết tâm của anh. Người chiến sĩ xem đó là dịp để rèn luyện ý chí, sức mạnh của mình.
Và thêm một chặng đường là thêm hàng triệu khó khăn chồng chất. Đòan xe phải gặp những trận mưa rừng, gặp gió bụi Trường Sơn. Thật là khủng khiếp bởi lẽ:
“Trường Sơn đông nắng tây mưa
Ai chưa đến đó như rõ mình.”
Khi xe không có mui xe che chắn thì thực tế sẽ ra sao? Những hạt mưa rừng như những nhát chổi quất vào mặt người lính, khó khăn biết bao cho cuộc lái xe! Thế là người lính nếm đủ mùi gian khổ mà thái độ thì vẫn ngang tàng, phơi phới, lạc quan:
“Không có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.”
Với cấu trúc được lặp lại “không có kính”, “ừ thì” và ngôn ngữ bình dị, giọng điệu ngang tàng lại một lần nữa thể hiện thái độ bất chấp của người lính. Chiếc xe không kính ấy đi vào mùa nào, thời tiết nào cũng đều gian khổ cả. Điệp ngữ “mưa” kết hợp với những từ gợi tả thật đẹp “tuôn, xối” gợi lên những cơn mưa thật dữ dội, khiến người lính lái xe bị “ướt áo”. Thái độ của người lính của người lính được thể hiện dứt khoát “chưa cần thay”. Họ mặc kệ cái ướt át, lạnh giá để tiếp tục nhiệm vụ “lái trăm cây số nữa”. Lời nói thật giản dị, đơn sơ nhưng thể hiện quyết tâm lớn của người chiến sĩ: xe phải đến tới đích, ý thức trách nhiệm, đóng góp cho cuộc chiến của họ thật đẹp, thật đáng quý biết bao! Họ lái xe cho đến khi “mưa ngừng” và trong suy nghĩ của họ cũng thật, bình dị:
“Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.”
Rõ ràng người lính đã quên mình vì nhiệm vụ với ý thức tự nguyện đây. Tâm hồn của người chiến sĩ sôi nổi, yêu đời da diết.
Bản chất của người lính lái xe là đi, nhưng phải có lúc họ phải dừng lại trú quân:
“Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội.”
Câu thơ miêu tả cuộc gặp gỡ vui vầy trong không khí đòan kết, gắn bó, chia sẻ ngọt bùi sau những trân chiến ác liệt, căng thẳng:
“Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.”
Chiếc xe không kính kia phải có lúc ngừng chạy. Đó là khi chúng hòan thành xong nhiệm vụ. Ta bắt gặp được một nét đẹp khác nơi họ. Đó chính là tình đồng đội, đồng chí của những anh lính lái xe. Khác hẳn so với hình ảnh của những anh vệ quốc quân với một nụ cười “buốt giá”, không biết bao giờ mình mới trở lại được quê hương. Còn các anh giải phóng quân giữa chiến trường ác liệt, họ cũng không cảm thấy buồn chán, vì quanh họ còn có biết bao đồng đội gần gũi, yêu thương. Trong cuộc hành trình vất vả đó họ đã “gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới”, đem đến cho họ sự vui tươi, thân ái. Từ “họp, gặp” diển tả những cuộc hội ngộ của những người lính trẻ trung, cùng chí hướng thì hình ảnh “bắt tay nhau” thật đẹp đẽ, biểu hiện sự đồng cảm, thân ái, yêu thương của những người chiến sĩ.
Tình đồng chí, đồng đội của anh lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn càng thắm thiết, cảm động hơn khi họ cùng chia sẻ với nhau một bữa cơm dã chiến:
“Bếp Hòang Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm.”
Họ đã chiến đấu, công tác trên con đường Trường Sơn khi cần nghỉ ngơi họ lại lấy con đường thân yêu ấy làm nhà. Họ trò chuyện, cười đùa với nhau thật thoải mái, thân mật. Họ dựng bếp Hòang Cầm giữa trời, “võng mắc chông chênh”sau những giờ phút căng thăng giữa chiến trường. Hai hình ảnh “Bếp Hòang Cầm”“võng mắc chông chênh” là hai nét vẽ hiện thực làm sống lại hiện thực chiến trường. Các anh vừa nấu cơm vừa chợp mắt trên cái “võng mắc chông chênh”. Bữa cơm chiến trường đơn sơ, giản dị thế mà vẫn rộn lên niềm vui tình đồng đội:
“Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm xẻ nửa, chăn xui đắp cùng.” (Tố Hữu)
Để rồi từ đây, cái định nghĩa về gia đình của các anh chiến sĩ mới ngộ nghĩnh làm sao!
“Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”
Một gia đình vui tươi, trẻ trung gồm những người lính trẻ đã hình thành khi “chung bát đũa”. Nhưng chỉ trong một thóang chốc để rồi sau đó người chiến sĩ lại tiếp tục hành quân:
“Lại đi, lại đi trời xanh thêm.”
Điệp ngữ “lại đi” đã diễn tả một công việc quen thuộc của người lính nhưng đồng thời cũng biểu lộ nhiệt tình, khí thế khẩn trương sôi nổi của họ. Trước mắt họ, “trời xanh thêm” như báo hiệu một ngày công tác, chiến đấu, nhưng lại phù hợp với tâm hồn trẻ trung, yêu đời của người lính cũng như niềm lạc quan, tin tưởng của họ vào tương lai, vào cuộc sống.
Vẫn một giọng thơ mộc mạc, gần với lời nói thường ngày như văn xuôi, nhưng nhạc điệu, hình ảnh trong khổ thơ cuối rất đẹp, rất thơ góp phần hòan thiện bức chân dung tuyệt vời của người lính lái xe quân sự trên tuyến đường Trường Sơn trong những năm đánh Mĩ. Bốn dòng thơ dựng lại hai hình ảnh rất thú vị, bất ngờ:
“Không có kính, rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:
Chỉ cần trong xe có một trái tim.”
Khổ thơ cuối vốn là ngôn ngữ giản dị, đơn sơ. Điệp ngữ “không có” như nhấn mạnh, làm rõ những khó khăn, trở ngại dồn dập, liên tiếp. Khi những bộ phận cần thiết của của chiếc xe đã bị bom đạn làm hư hại. Cái “không có” là kính, la đèn, là mui xe, là “thùng xe có xước”. Thế mà người chiến sĩ vẫn tiếp tục điều khiển cho xe chạy. “Xe vẫn chạy” chứ không chịu ngừng nghỉ, nằm yên. Điều gì đã thôi thúc người chiến sĩ tận tụy, quên mình nhiệm vụ, coi thường những gian khổ, khó khăn? Tất cả là bởi một mục đích, một lí tưởng cao cả “vì miền Nam phía trước”. Lòng yêu nước nồng nàn, ý thức căm thù giặc cao độ đã giúp cho người chiến sĩ sẵn sàng quên mình vì nhiệm vụ. Ước mong cao đẹp nhất là mong muốn giành được độc lập, tự do cho “Tổ Quốc”, mang lại hòa bình độc lập cho quê hương. Cội nguồn sức mạnh của người chiến sĩ lái xe, sự dũng cảm kiên cường của người chiến sĩ được diễn tả thật bất ngờ, sâu sắc:
“Chỉ cần trong xe có một trái tim.”
Thì ra “trái tim” cháy bỏng tình yêu thương Tổ Quốc đồng bào miền Nam ruột thịt đã khích lệ, động viên người chiến sĩ vượt qua bao gian khó, luôn bình tĩnh, tự tin để cầm chắc tay lái đưa xe đi tới đích. Hình ảnh bất ngờ ở câu cuối đã lí giải được tất cả mọi vấn đề. Câu thơ bình dị như lời nói hằng ngày nhưng lại ẩn chứa một ý tưởng sâu sắc về một chân lí thời đại. Sức mạnh để chiến thắng không phải vũ khí hiện đại, phương tiện tối tân, đầy đủ tiện nghi mà chính là con người với trái tim nồng nàn yêu thương đất nước nhân dân, sôi sục lòng căm thù quân giặc. Ý chí bất khuất kiên cường ấy giúp cho con người lướt thẳng mọi trở ngại, khó khăn.
“Bài thơ về tiểu đội xe không kính” là một bài thơ hay, đặc sắc của Phạm Tiến Duật. Chẳng ngẫu nhiên mà nhà thơ đã đặt tên cho tác phẩm là “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”. Chất thơ tỏa ra từ thực tế của cuộc chiến đấu, từ niềm vui của người chiến sĩ trong thời đại chống Mĩ. Chất thơ tóat ra từ sự giản dị, đơn sơ của ngôn từ, sự sáng tạo bất ngờ của các chi tiết, hình ảnh anh lính Cụ Hồ.
Ra đời hơn bốn mươi năm, bài thơ vẫn có sức truyền cảm mạnh mẽ đối người chúng ta ngày hôm nay. Cám ơn nhà thơ đã giúp tất cả chúng ta cảm nhận sâu sắc về hình ảnh người lính lái xe một thời gian khổ mà hào hùng, đã quên mình vì quê hương, đất nước. Chúng ta là thế hệ mai sau sẽ sống tiếp nối với truyền thống hào hùng của ông cha xưa kia và để hòan thành nhiệm vụ hôm nay. Chúng ta hãy tự hào về họ,những người chiến sĩ Trường Sơn:
“Ôi đất anh hùng dễ mấy mươi
Chìm trong khói lửa vẫn xanh tươi
Mưa bom, bão đạn lòng thanh thản
Nhạt muối, vơi cơm miệng vẫn cười." (Tố Hữu)

Nguồn : Sưu tầm

Thứ Tư, 26 tháng 2, 2020

Cảm nhận bài thơ Đồng chí của Chính Hữu.



 “Rất đẹp hình anh lúc nắng chiều
    Bóng dài trên đỉnh dốc cheo leo
Núi không đè nổi vai vươn tới
Lá ngụy trang reo với gió đèo.” (Lên Tây Bắc)
Thật đẹp làm sao hình ảnh người chiến sĩ quân đội nhân dân Việt Nam trong thơ Tố Hữu! Chẳng biết tự bao giờ, hình ảnh người lính trên đường ra trận trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp đã để lại trong lòng bạn đọc một dấu ấn khó phai mờ. Cũng viết về người lính thời kháng chiến chống Pháp, bài thơ Đồng chí của Chính Hữu lại thể hiện vẻ đẹp ở khía cạnh khác. Đó là mối tình đồng chí đồng đội được hình thành và phát triển trong điều kiện chiến đấu vô cùng thiếu thốn gian khổ để tạo nên phẩm chất đẹp đẽ, một trong những nguồn sức mạnh của quân đội ta.
Chính Hữu làm thơ từ năm 1947 và hầu như viết về người lính và chiến tranh. Thơ ông không nhiều những có những bài đặc sắc, cảm xúc, ngôn ngữ và hình ảnh chọc lọc, hàm súc. Bài thơ Đồng Chí được sáng tác vào năm 1948, sau khi tác giả đã cùng đồng đội tham gia chiến đấu trong chiến dịch Việt Bắc (thu đông 1947) đánh bại cuộc tiến công quy mô lớn của giặc Pháp lên chiến khu Việt Bắc. Bài thơ Đồng Chí là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất viết về người lính cách mạng của văn học thời kháng chiến chống Pháp (1946 – 1954).
Đồng Chí có thể không phải là bài thơ hay nhất viết về người lính nhưng nó lại là bài thơ được nhiều người biết đến nhất, thậm chí nhắc đến Chính Hữu người ta nghĩ ngay đến Đồng chí. Tác phẩm đã được phổ nhạc nhưng dù là thơ hay nhạc mãi mãi tình đồng chí keo sơn gắn bó vẫn sống mãi trong lòng mọi người. Có thể thấy, nhà thơ Chính Hữu như đã thổi hồn vào bài thơ để giúp tạc lên một tình đồng đội tri kỉ, gắn bó và keo sơn, trở thành một âm vang sống mãi trong tâm hồn những người lính cũng như bạn đọc bao thế hệ.
Đồng chí là cách gọi khái quát của những người có cùng chí hướng, lí tưởng, cùng làm trong một đoàn thể chính trị hay một tổ chức cách mạng. Đồng chí, là cách xưng hô thể hiện tình đồng đội gắn bó keo sơn, thiêng liêng và nghĩa tình. Trong những năm tháng kháng chiến chống thực dân Pháp gian lao, lẽ đương nhiên, hình ảnh những người lính, những anh bộ đội sẽ trở thành linh hồn của cuộc kháng chiến, trở thành niềm tin yêu và hi vọng của cả dân tộc. Chính Hữu đã nhìn nhận, đã đi sâu vào cả xuất thân của những người lính.
Mở đầu bài thơ tác giả viết:
“Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá.”
Thành ngữ “nước mặn đồng chua” và hình ảnh gợi tả “đất cày lên sỏi đá” đã mang đến sức khái quát cao. Tác giả giới thiệu với chúng ta hoàn cảnh xuất thân của những người chiến sĩ trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Họ là những người sinh ra và lớn lên từ những làng quê nghèo đói miệt miền Tây “nước mặn đồng chua”, của miền Trung “đất cày lên sỏi đá”. Họ là những người nông dân “Mới hôm qua còn tì tay lên cán cuốc”, đang chống chọi lại với những điều kiện khắc nghiệt của thiên nhiên nhưng hôm nay đã để lại tất cả sau lưng, khoác lên mình màu áo xanh chiến sĩ bảo vệ quê hương đất nước thân yêu. Mỗi người lính đều có một vùng quê. Những người tứ xứ này trước ngày vào bộ đội họ chưa hề quen biết nhau:
“Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau.”
Những người từ mọi phương trời tập hợp lại trong hàng ngủ quân đội cách mạng và chính nhờ cơ sở của sự đồng cảm giai cấp, cùng chung cảnh ngộ cho nên họ đã dễ dàng thân quen với nhau. Nhà thơ Hồng Nguyên trong bài thơ Nhớ của mình cũng thể hiện tình cảm này:
“Lũ chúng tôi bọn người tứ xứ
Gặp nhau hồi chưa biết chữ
Quen nhau từ buổi một hai
Súng bắn chưa quen quân sự mươi bài
Lòng vẫn cười vui kháng chiến”
Những người xa lạ gặp nhau thân quen nhau tạo nên tình đồng chí. Trước hết phải nói, tình đồng chí được nảy sinh từ sự cùng chung nhiệm vụ sát cánh bên nhau trong chiến đấu.
“Súng bên súng đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ.”
“Súng bên súng” là cách nói hàm súc, hình tượng để diễn đạt ý nghĩa cùng chung lí tưởng chiến đấu của những người chiến sĩ. Anh với tôi cùng ra trận đánh giặc để bảo vệ đất nước quê hương, vì độc lập tự do và sống còn của dân tộc. “Đầu sát bên đầu” là hình ảnh diễn tả ý hợp tâm đầu của đôi bạn tâm giao.Có thể thấy hai hình ảnh thơ đã cụ thể hóa sự hòa nhập của những người chiến sĩ cùng chung lí tưởng chiến đấu bảo vệ tổ quốc. “Súng” và “đầu”, ý chí và tình cảm là sự gắn bó keo sơn thắm thiết của những con người cùng chung lí tưởng với nhau. Câu thơ “Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ” là câu thơ cảm động, mang đầy ắp kỉ niệm, diễn tả lại một thời đầy khó khăn, gian khổ. Nhưng cũng nhờ vào đó mà họ quý trọng nhau hơn, thương yêu, giúp đỡ nhau trên mọi mặt trận chiến trường ác liệt và dần dần “thành đôi tri kỷ”. Đã là “tri kỷ” nên các anh hiểu nhau, thông cảm cho nhau, chia sẻ ngọt bùi cho nhau. Là những người bạn chí cốt bên nhau. Để có được mối tình tri kỉ sâu nặng ấy hẳn nhiên họ phải cùng chung hoàn cảnh xuất thân, cùng chung lí tưởng chiến đấu thì mới có thể thấu cảm cho nhau được.
Để khái quát những tình nghĩa sâu nặng ấy, Chính Hữu đã cho hai tiếng “Đồng chí!” vang lên giữa lòng bài thơ. Câu thơ ngắn gọn nhưng nó đã biểu hiện nên một hình ảnh cụ thể, giản dị mà hết sức gợi tình, gợi cảm. Chỉ với hai tiếng nhưng nó đóng vai trò ghép lại tình ý sáu câu thơ đầu của bài thơ, đồng thời tạo ra một tiếng vang ngân như một nốt nhấn nổi bật trong bản đàn, là sự kết tinh mọi cảm xúc, mọi tình cảm. Tình đồng chí được xem như là sự cao độ của tình bạn tình người.
Trải qua những khó khăn nơi chiến trường, tình đồng chí đã giúp các anh có được sự cảm thông, thấu hiểu nỗi lòng, tình cảm của nhau. Những lúc ngồi cận kề bên nhau, các anh đã kể cho nhau nghe chuyện quê nhà đầy bâng khuâng, thương nhớ:
“Ruộng nương anh gởi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.”
Ba câu thơ đưa ta trở lại hoàn cảnh riêng, từng cảnh ngộ riêng của những người lính vốn là những người nông dân áo vải “việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy tay vốn quen làm”. Ra đi vì lý tưởng chung của dân tộc đành gửi nhờ bạn quê nhà cày giúp mảnh ruộng của mình. Ra đi vì lý tưởng chung của dân tộc để rồi có những đêm sương rừng buốt thấu ngồi nhớ tới gian nhà trống không “gió lung lay”. Họ sẵn sàng gửi nhờ, để lại những gì quý giá thân thiết của cuộc sống người nông dân nơi làng quê để ra đi vì nghĩa lớn. Phải chăng đó là một sự hy sinh? Hay là một nghĩa cử cao đẹp? Hai chữ “mặc kệ” đã được nói một cách dứt khoát, mạnh mẽ từ những người lính ra trận. Họ dứt khoát nhưng không có nghĩa là vô tình, họ mạnh mẽ nhưng không đồng nghĩa là sỏi đá vô tri, trong lòng các anh vẫn canh cánh nỗi nhớ quê hương, vẫn nặng tình với nơi chôn dao cắt rốn của mình. Nhà thơ Nguyễn Đình Thi có viết:
“Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy.”
Bên cạnh đó, hình ảnh “giếng nước gốc đa” – hình ảnh quê hương thân thiết được tác giả diễn tả một cách kín đáo gián tiếp qua mô típ quen thuộc về làng quê của ca dao “Cây đa giếng nước sân đình”. Bằng nghệ thuật hoán dụ và nhân hóa, tác giả đã bộc lộ lên nỗi niềm nhớ nhung của kẻ hậu phương đối người ra trận. Bút pháp nhân hóa “nỗi nhớ” đã gây thêm ấn tượng mạnh mẽ trong lòng độc giả.
Đồng chí không chỉ cảm thông những tâm tư nỗi lòng của nhau mà đó còn là sự cùng nhau chia sẻ những gian lao thiếu thốn cuộc đời người lính:
“Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày.”
Bằng những hình ảnh chân thực và xúc động, gợi hình, gợi cảnh. Tác giả đã làm sống dậy cuộc sống gian khổ thiếu thốn trong cuộc chiến đấu của người lính thời chống Pháp. Đó là những gian khổ tột cùng của người lính, những cơn sốt run người vừng trán ướt mồ hôi đẫm mồ hôi, những trang phục phong phanh giữa mùa đông giá rét. Hay là những cơn sốt rét rừng nguy hiểm có thể cướp đi tính mạng của người chiến sĩ bất cứ lúc nào.
“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người, vừng trán ướt mồ hôi.”
Chính những gian lao, thiếu thốn ấy càng làm nổi bật sự cao đẹp của anh bộ đội cụ Hồ. Trong gian khổ vẫn nổi bật lên nụ cười của người lính “Miệng cười buốt giá” thật đáng yêu nhưng cũng đáng kính phục làm sao. Vậy, sức mạnh nào để giúp cho người lính vượt qua được mọi gian khổ thiếu thốn ấy? Có phải chăng đó là tình đồng chí đồng đội:
“Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”
Thật giản dị và xúc động của sự biểu hiện tình đồng chí, đồng đội thiêng liêng ở những người lính. Đó là nguồn sức mạnh cho họ chiến thắng. Tình đồng chí còn được thử thách cao nhất là trong chiến đấu, trong sự sống chết nơi chiến hào.
Bài thơ kết lại bằng ba câu thơ mang ý nghĩa hình tượng lớn, là biểu tượng đẹp nhất của tình đồng đội:
“Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.”
Có thể nói đoạn cuối của bài thơ là một bức tranh đẹp về tình đồng chí, là một biểu tượng đẹp về cuộc đời người chiến sĩ. Trong cảnh “Rừng hoang sương muối” những người chiến sĩ vẫn luôn không xao lãng nhiệm vụ phục kích chờ giặc của mình. Họ đứng canh gác cùng nhau, luôn sát cánh bên nhau mặc chiến trường ác liệt. Sức mạnh của tình đồng đội đã giúp họ vượt lên tất cả những khắc nghiệt của thời tiết và mọi gian khổ thiếu thốn về y tế, quần áo, ăn uống khi lên đường làm nhiệm vụ thiêng liêng của Tổ Quốc. Tình đồng chí đã sưởi ấm lòng họ giữa cảnh rừng hoang giá rét. Trong cái đêm phục kích ấy, vầng trăng như treo trên đầu ngọn súng. Một hình ảnh thơ rất đặc sắc đã gây cho người đọc một sự bất ngờ, thú vị. Hình ảnh ấy mang ý nghĩa biểu tượng. “Súng” và “trăng” là biểu tượng cho khoảng cách gần và xa, cho thực tại và mơ mộng, cho chất chiến đấu và chất trữ tình và cho chiến sĩ và thi sĩ. “Súng” còn là biểu tượng của cuộc chiến đấu vì độc lập tự do. “Trăng” còn là biểu tượng của non nước thanh bình. Tất cả cùng đặt trên một bình diện “Đầu súng trăng treo”. Ý thơ đã đem đến cho chúng ta một liên tưởng về cái đẹp của tâm hồn người lính. Dù trước mặt là muôn vàn khó khăn, thử thách, bom đạn không ngừng rơi gây cảnh khói lửa điêu linh nhưng ở những người lính ấy vẫn sáng lên những hình ảnh trữ tình, lãng mạn. Hơn nữa, ánh trăng được xem như là người bạn của lính bởi “Chiến tranh ở rừng – Trăng thành tri kỷ” (Nguyễn Duy). Trong cái ác liệt chiến tranh, họ vẫn yêu đời và luôn luôn hướng về một ngày mai hòa bình yên vui. Có thể nói đó là các mặt bổ sung cho nhau, hài hòa với nhau của cuộc đời người lính cách mạng. Câu thơ mang một ý nghĩa cao đẹp trong cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ Quốc của anh bộ đội cụ Hồ.
Tác phẩm được sáng tác theo thể thơ tự do, chỉ có 20 dòng nhưng đã tập trung thể hiện vẻ đẹp và sức mạnh của tình đồng chí, đồng đội thật sâu sắc. Với cảm hứng có đôi phần lãng mạn và ngòi bút tài hoa, Chính Hữu đã khắc họa thành công hình tượng người lính cụ Hồ mang vẻ đẹp trữ tình, đậm chất bi tráng trên cái nền cảnh thiên nhiên dữ dội và mĩ lệ.
Bài thơ Đồng chí của Chính Hữu thể hiện hình tượng người lính cách mạng và sự gắn bó keo sơn của họ một cách hàm súc, mộc mạc, chân thực khắc họa được những phẩm chất đẹp của anh bộ đội cụ Hồ qua hình ảnh và ngôn ngữ giản dị, cô đọng, giàu sức biểu cảm. Bài thơ có thực có hư hòa quyện vào nhau đã tạo nên vẻ đẹp hài hòa, mang lại cho người đọc những suy tư sâu sắc, những xúc động sâu lắng. Có thể nói, Đồng chí là một tượng đài chiến sĩ tráng lệ tuy mộc mạc, bình dị nhưng cao cả và thiêng liêng.

Nguồn: Sưu tầm

Phân tích vẻ đẹp của Vũ Nương.



“Chuyện người con gái Nam Xương” là câu chuyện về số phận oan nghiệt của một người phụ nữ có nhan sắc, có đức hạnh dưới chế độ phong kiến, chỉ vì một lời nói ngây thơ của con trẻ mà bị nghi ngờ và bị đẩy đến bước đường cùng, phải kết liễu cuộc đời mình để chứng minh tấm lòng trong sạch. Đó là số phận, hình ảnh của Vũ Nương – một nhân vật chịu nhiều oan nghiệt.
Nhà văn Nguyễn Dữ qua việc xây dựng truyện hết sức độc đáo, với sự kết hợp của các yếu tố tự sự, trữ tình và kì ảo. Qua đó, vẻ đẹp của nàng Vũ Nương cũng toát lên rõ nét. Nàng là hiện thân tiêu biểu cho số phận những người phụ nữ xưa… Một người phụ nữ thủy chung son sắt, thùy mị dịu hiền, hết lòng vì gia đình nhà chồng – đó có lẽ là những đức tính đáng trân trọng của Vũ Nương. Nhưng Vũ Nương càng đẹp chúng ta càng xót thương cho nàng cũng như thân phận những người phụ nữ xưa…
Nguyễn Dữ đã thật tài tình khi xây dựng hình ảnh người phụ nữ mà cụ thể ở đây là Vũ Nương. Ông đã đặt nhân vật vào tình huống khác nhau để thể hiện rõ được phẩm chất của người phụ nữ thương chồng, yêu con, hiếu thảo với cha mẹ chồng đồng thời cũng hết mực thủy chung son sắc. Trong cuộc sống vợ chồng bình thường, nàng đã giữ gìn khuôn phép, không khi nào để vợ chồng phải đến thất hòa mặc dù Trương Sinh là người chồng có tính hay ghen tuông.
Khi Vũ Nương tiễn chồng đi lính thật là một cảnh làm cho mọi người phải xúc động. Thông thường thì khi chồng đi lính nhiều người mong chồng có được công danh vẻ vang mang về để vinh hiển với mọi người. Nhưng còn đối với Vũ Nương thì lại không như vậy. Nàng chẳng mong Trương Sinh vinh hiển với tước trọng quyền cao mà chỉ cầu chồng được binh yên trở về. Nàng còn cảm thông với những vất vả, gian lao mà chồng mình sẽ phải chịu đựng. Nàng nói đến nỗi nhớ nhung khắc khoải của mình, bằng những lời rất ân cần, đằm thắm tình cảm.
Khi xa chồng. Vũ Nương lại là một người vợ thủy chung, yêu chồng tha thiết, nỗi buồn nhớ cứ dài theo năm tháng, lúc thì tựa “bướm lượn đầy vườn”, có khi lại như “mây che kín núi”. Tác giả đã dùng hình ảnh ước lệ tượng trưng, mượn cảnh vật thiên nhiên để diễn tả sự trôi chảy của thời gian. Nàng vừa là người con dâu hiếu thảo lại vừa là người mẹ hiền. Nàng một mình vừa nuôi con nhỏ, vừa tận tụy chăm sóc mẹ chồng lúc đau ốm. Nàng lo thuốc thang, cầu khấn phật trời…. Không chỉ vậy, Vũ Nương lúc nào cũng ân cần, dịu dàng, lấy lời ngon ý ngọt khéo léo khuyên mẹ gắng dưỡng sức để chờ Trương Sinh quay trở về. Vì thế cho nên trước khi mẹ chồng nhắm mắt, bà đã nói với Vũ Nương rằng Vũ Nương là người con dâu tốt và khi Trương Sinh trở về ắt sẽ không phụ lòng tốt của nàng. Rồi nàng cũng hết sức thương xót mẹ và lo ma chay tế lễ như lo cho cha mẹ ruột của mình. Tình cảnh ấy dường như không phải chỉ riêng của Vũ Nương mà còn là số phận chung của biết bao nhiêu người chinh phụ xa chồng. Trong “Chinh phụ ngâm”, khi người chồng ra đi, người vợ ở nhà cũng lo toan mọi chuyện “Dạy con đèn sách, thiếp làm hiếu nam”. Từ đó, ta càng thấy cảm thông, thấu hiểu và yêu thương hơn những người phụ nữ phải chịu số phận làm chinh phụ, ngày ngày đều chỉ biết ngóng trông và mong cầu bình yên cho người chồng của mình.
Tưởng rằng khi Trương Sinh trở về thì Vũ Nương sẽ được đền đáp, được sống ngập tràn trong niềm vui và hạnh phúc, tưởng như nàng có thể chia sẻ bớt gánh nặng cuộc sống cho chồng. Nhưng không, ai có thể ngờ nàng lại phải chịu một nỗi oan khuất không tài nào thanh minh nổi, mặc dù nàng đã hết lời phân trần tấm lòng son sắt thủy chung của mình cho chồng hiểu. Nàng nói đến thân phận mình nghèo được nương nhờ nơi giàu có, nàng trân trọng tình nghĩa vợ chồng bao năm và khẳng định tấm lòng thủy chung trong trắng, cầu xin chồng đừng nghi oan. Như vậy đã chứng tỏ nàng đã tìm mọi cách nhằm hết sức cứu vãn, mong hàn gắn cái hạnh phúc gia đình đang có nguy cơ tan vỡ. Sau nữa nàng nói lên nỗi đau đớn, thất vọng khi không hiểu vì sao bị đối xử bất công, không có quyền được tự bảo vệ, ngay cả khi có họ hàng, anh em đến nói giúp. Hạnh phúc gia đình – niềm khát khao của cả cuộc đời nàng đã tan vỡ, mong manh biết dường nào. Tất cả những nỗi đau khổ chờ chồng trước đây không còn có thể làm lại được nữa. Số phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến sao mà đau thương, đoạn trường đến thế!
Thất vọng đến tột cùng, cuộc hôn nhân đã đến độ không thể nào cứu vãn được, Vũ Nương đành phải mượn dòng nước quê hương để giải nỗi oan cho mình. Những lời than trước khi vĩnh viễn cuộc đời đầy đau khổ của mình nhưng cũng đầy luyến tiếc, như một lời nguyền xin thần sông chứng giám nỗi oan khuất và tiết sạch giá trong của nàng. Người đọc nhận thấy tình tiết được sắp xếp đầy kịch tính: Vũ Nương bị đẩy đến bước đường cùng, nàng đã mất tất cả, đành phải chấp nhận số phận sau mọi cố gắng không thành. Hành động tự trầm mình của nàng là một hành động quyết liệt cuối cùng để bảo toàn danh dự, có nỗi tuyệt vọng đắng cay, nhưng cũng có sự chỉ đạo của lí trí. Đây không phải là hành động bột phát trong cơn nóng giận. Bởi Vũ Nương vốn là một người phụ nữ xinh đẹp nết na thùy mị, hiền thục,lại đảm đang tháo phát, thờ kính mẹ chồng rất mực hiếu thảo, một lòng một dạ chung thủy với chồng, hết lòng vun đắp cho hạnh phúc gia đình. Một con người như thế đáng ra phải được hạnh phúc trọn vẹn, vậy mà lại phải chết một cách oan uổng, đau đớn. Vậy nguyên nhân nào dẫn tới kết quả đáng buồn ấy?
Có phải chăng vì cuộc hôn nhân giữa Trương Sinh và Vũ Nương không bình đẳng? Chính sự cách bức về thân phận nghèo khó của Vũ Nương đã cộng thêm cái thế cho Trương Sinh bên cạnh cái thế của một người chồng, người đàn ông gia trưởng trong chế độ phong kiến. Hay đó là những lời nói ngây thơ của đứa trẻ, chứa đầy những dữ kiện nghi ngờ làm cho Trương Sinh một người chồng hay có tinh đa nghi ghen tuông, hồ đồ và độc đoán kia trở thành kẻ thô bạo, vũ phu và bức tử vợ mình trong sự mù quáng. Hay kẻ giết người lại hoàn toàn vô can trong vụ án?
Bi kịch của nàng chính là lời tố cáo cái xã hội phong kiến xem trọng quyền uy của kẻ giàu và của đàn ông trong gia đình. Đồng thời, qua đó Nguyễn Dữ cũng bày tỏ niềm thương cảm của mình đối với số phận oan nghiệt của người phụ nữ. Người phụ nữ bất hạnh ở đây không những không được bênh vực, che chở mà còn bị đối xử một cách bất công, vô lí, chỉ vì lời nói ngây thơ của đứa trẻ miệng còn hơi sữa và vì sự hồ đồ, vũ phu của người chồng ghen tuông mà phải kết thúc cuộc đời mình.
Phần cuối truyện đầy những chi tiết mang đậm tính chất hoang đường. Nào là Phan Lang nằm mộng thấy người con gái áo xanh đến kêu xin tha mạng, rồi Phan Lang được biếu một con rùa mai xanh nhưng không giết thịt mà đem thả con rùa xuống sông. Nào là Phan Lang bị chết đuối, xác giạt vào động rùa ở hải đảo. Linh Phi vợ vua biển Nam Hải lấy khăn dấu mà lau, lấy thuốc thần mà đổ. Phan Lang sống lại. Linh Phi mở tiệc ở gác Triêu Dương để thết đãi Phan Lang, ân nhân cứu sống mình ngày xưa.  Tình tiết Phan Lang gặp Vũ Nương tại bữa tiệc của Linh Phi. Vũ Nương khóc khi nghe Phan Lang nhắc lại nhà cửa, phần mộ của tiền nhân. Tình tiết Vũ Nương gửi Phan Lang chiếc hoa tai vàng và dặn chồng lập đàn tràng ở bến Hoàng Giang. Hình ảnh Vũ Nương ngồi kiệu hoa, phía sau có năm mươi chiếc xe cờ tán võng lọng rực rỡ đầy sông, lúc ẩn, lúc hiện… là những chi tiết hoang đường, nhưng đã tô đậm nỗi đau của người phụ nữ bạc mệnh và có giá trị tố cáo lễ giáo phong kiến vô nhân đạo đương thời.
Khi gặp lại Phan Lang dưới thủy cung, Vũ Nương vẫn rất tự trọng và mong muốn được giải oan mà nhờ Phan Lang gửi lời đến Trương Sinh. Để rồi đến khi hiện về bên dòng Hoàng Giang, nửa câu trách móc Trương Sinh, nàng cũng không hề thốt ra mà lại còn cảm tạ vì đã giúp nàng lập đàn giải oan. Câu nói của hồn Vũ Nương giữa dòng sông vọng vào: “Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng thể trở về nhân gian được nữa” nghe sao đầy xót xa, thương cảm mà cũng thật vị tha, bao dung. Và rồi, hình bóng nàng dần dần biến mất. Nhưng Vũ Nương vẫn mãi là người phụ nữ yêu chồng, thương con, người phụ nữ hiếu thảo, thủy chung và cũng là người phụ nữ phải chịu số phận bất hạnh, oan khiên. Chính chi tiết này đã làm cho giá trị nhân đạo của truyện thêm phần bi thiết. Nỗi ân tình của Vũ Nương đã được minh oan và giải tỏa nhưng âm dương đã đôi đường cách trở, nàng chẳng thể trở lại dương gian, chẳng bao giờ còn được làm vợ, làm mẹ nữa… Bé Đản mãi mãi là đứa con mồ côi mẹ!
Đến đây, người đọc như nghe thấy vọng lại những lời thơ của Nguyễn Du về thân phận của kiếp hồng nhan bạc mệnh:
“Trăm năm trong cõi người ta
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau
Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.”
Ta cũng có thể thấy bi kịch của Vũ Nương không phải là hiện tượng cá biệt mà là bi kịch chung của người phụ nữ thời phong kiến. Vì người phụ nữ luôn phải chịu số phận lận đận, long đong:
“Thân em vừa trắng lại vừa tròn
Bảy nổi ba chìm với nước non
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son.” (“Bánh trôi nước” – Hồ Xuân Hương)
Vì những cuộc chiến tranh phi nghĩa cứ diễn ra liên miên, mặc nhân dân thống khổ, lầm than, mặc bao bi kịch vẫn cứ tiếp diễn và đè nặng lên thân phận người phụ nữ:
“Chàng thì đi cõi xa mưa gió
Thiếp thì về buồng cũ chiếu chăn
Đoái trông theo đã cách ngăn
Tuôn màu mây biếc trải ngàn núi xanh
Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu
Ngàn dâu xanh ngắt một màu
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai.” ( “Chinh phụ ngâm”)
Và có lẽ đau đớn nhất là tiếng khóc nhân đạo cho số kiếp bạc mệnh của những phận hồng nhan được Nguyễn Du thống thiết cất lên:
“Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.”
Nguyễn Dữ đã rất thành công trong việc xây dựng hình tượng nhân vật Vũ Nương để khắc họa vẻ đẹp và cuộc đời của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Tác giả đã tô điểm rất nhiều vẻ đẹp từ ngoại hình đến nhân cách cho nhân vật. Lời văn có sự kết hợp giữa văn phong cổ điển và tình cảm nhân đạo chân thành của Nguyễn Dữ. Không chỉ vậy, tác giả còn khéo léo đan xen những chi tiết hiện thực và kỳ ảo nhằm làm tăng giá trị nhân đạo cho tác phẩm. Nhờ đó mà cuộc đời Vũ Nương trở thành minh chứng cho bao kiếp tài hoa bạc mệnh trong xã hội cũ và rồi trở thành hình ảnh tổng quát cho người phụ nữ Việt Nam đương thời. Chẳng vì vậy mà nhà nghiên cứu Vũ Khâm Lân đã đánh giá “Truyền kỳ mạn lục” của Nguyễn Dữ là một áng “thiên cổ kỳ bút”.
Tóm lại, Vũ Nương là một người con gái công dung ngôn hạnh mà bạc mệnh. Nguyễn Dữ đã kể lại cuộc đời oan khổ của nàng với bao tình xót thương sâu sắc. Tuy mang yếu tố hoang đường, nhưng áng văn “Chuyện người con gái Nam Xương” vẫn giàu giá trị nhân đạo. Nhân vật Vũ Nương là một điển hình cho bi kịch của người phụ nữ trong gia đình và xã hội phong kiến. Người đọc càng thêm xúc động khi nhớ lại vần thơ của vua Lê Thánh Tông trong bài “Lại bài viếng Vũ Thị”:
“Chứng quả đã đôi vầng nhật nguyệt,
Giải oan chẳng lọ mấy đàn tràng.”

Nguồn: Sưu tầm