Thứ Tư, 20 tháng 3, 2024
Thứ Tư, 27 tháng 4, 2022
Khổ 1,2 Sang thu: Vẻ đẹp và sự biến đổi kỳ diệu của thiên nhiên trong buổi giao mùa_ Liên hệ vẻ đẹp thiên nhiên Đoàn thuyền đánh cá
Mỗi
khoảnh khắc giao thoa giữa hai mùa Hạ và Thu luôn là thời điểm khiến cho lòng
người cảm thấy xốn xang nhất. Khi mà cảnh vật hòa cùng với đất trời tạo nên một
bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp. Chẳng thế mà với một tâm hồn đậm chất thơ của
mình Hữu Thỉnh đã vẽ nên một bức tranh thiên nhiên đất trời khi chuyển mùa sang
Thu bằng chất liệu ngôn từ đẹp đẽ nhất và cũng lãng mạn nhất qua bài “Sang
thu”. Đoạn thơ sau là những cảm nhận, những rung động man mác, bâng khuâng của
tác giả trước vẻ đẹp và sự biến đổi kỳ diệu của thiên nhiên trong buổi giao
mùa:
Bỗng
nhận ra hương ổi
Phả
vào trong gió se
Sương
chùng chình qua ngõ
Hình
như thu đã về
Sông
được lúc dềnh dàng
Chim
bắt đầu vội vã
Có
đám mây mùa hạ
Vắt
nửa mình sang thu
Mùa
thu quê hương là đề tài gợi cảm xúc đối với thi nhân song mỗi người cảm xúc về
mùa thu theo cảm nhận riêng của mình. Với nhà thơ Hữu Thỉnh, khoảnh khắc giao
mùa từ hạ sang thu đã rung động hồn thơ để thi sĩ vẽ nên một bức tranh thơ:
“Sang thu” thật hay. Bài thơ được viết theo thể thơ năm chữ: nhịp nhàng, khoan
thai, êm ái, trầm lắng và thoáng chút suy tư… thể hiện một bức tranh thu trong
sáng, đáng yêu ở vùng nông thôn đồng bằng Bắc Bộ.
“Sang
thu” ở đây là chớm thu. Mùa hè vẫn chưa hết mà mùa thu đã bắt đầu tới với những
tín hiệu đầu tiên. Trong khoảnh khắc giao mùa tuyệt vời, đất
trời có những biến chuyển nhẹ nhàng mà rõ rệt. Nét đẹp chuyển thu thật tinh tế,
dịu dàng. Trước những sự thay đổi tinh vi ấy, phải nhạy cảm lắm mới có thể cảm
nhận được. Hữu Thỉnh đón nhận mùa thu từ những dấu hiệu đời thường,
gần gũi.Và trong biết bao hương vị thân thuộc của làng quê, Hữu Thỉnh giật mình
thảng thốt, nhận ra cái làn hương ngây ngất, ngọt ngào của trái ổi đầu mùa:
Bỗng
nhận ra hương ổi
Phả
vào trong gió se
Sương
chùng chình qua ngõ
Hình
như thu đã về
“Hương
ổi” thân thương sực thẳng vào miền kí ức, đánh thức hương vị của làng quê Bắc
Bộ yêu thương. Đó là thứ hương vị thật dễ dàng để nhận ra ở chốn làng quê thôn
dã. Nhưng có phải bởi quen thuộc quá nên đôi khi ta lãng quên? Để đến khi nhận
ra hết thảy chúng ta đều không khỏi bất ngờ: “Bỗng nhận ra hương ổi”. Từ
“bỗng” như được gieo lên trong niềm ngỡ ngàng ngạc nhiên. Từ bao giờ nhỉ,
thu về? Tất cả đến với tác giả nhẹ nhàng mà cũng đột ngột quá, thu về với đất
trời quê hương, với lòng người mà không hề báo trước. Để rồi trong phút giây ngỡ
ngàng, nhà thơ chợt nhận ra hương thơm nồng nàn “phả” vào trong “gió
se”. Mùi hương ấy không hòa vào quyện
vào mà “phả” vào trong gió. “Phả” nghĩa là bốc mạnh và tỏa ra từng
luồng. Hữu Thỉnh đã không tả mà chỉ gợi, đem đến cho người đọc một sự liên tưởng
thú vị: tại vườn tược quê nhà,những quả ổi chín vàng trên các cành cây kẽ lá tỏa
ra hương thơm nức, thoang thoảng trong gió. Chỉ một chữ “phả” thôi cũng
đủ gợi hương thơm như sánh lại. Sánh lại bởi hương đậm một phần, sánh bởi tại
gió se. Nhận ra trong gió có hương ổi là cảm nhận tinh tế của một người sống giữa
đồng quê và nhà thơ đã đem đến cho ta một tín hiệu mùa thu dân dã mà thi vị.
Ông đã phát hiện một nét đẹp đáng yêu của mùa thu vàng nông thôn vùng đồng bằng
Bắc Bộ. Cũng nhờ hương ổi, bức tranh giao mùa có một sức sống mạnh mẽ đến kì lạ,
mà cũng bất ngờ cho lòng người. Hương ổi từ đó mà lan tỏa mãi trong không gian
và rồi vấn vương trong gió se - cơn gió heo may đầu mùa.
Hữu
Thỉnh có những cảm nhận rất tinh tế về sự thay đổi của đất trời, điều đó được
thể hiện lần lượt qua khứu giác (hương ổi), rồi đến xúc giác (gió se) và bây giờ
thì đến thị giác. Trước mắt nhà thơ, sương mở đường mở lối
đi khắp đầu thôn, ngõ xóm. Không gian có sự hoà hợp giữa hương ổi dịu dàng, gió
thu nhẹ nhẹ và sương thu mơ màng tạo nên một ấn tượng đặc biệt mà ta khó lòng
quên được. Không phải là màn sương dày đặc, mịt mù mà là “Sương chùng chình
qua ngõ” gợi ra những làn sương mỏng, mềm mại, giăng màn khắp đường thôn
ngõ xóm làng quê. Nó làm cho khí thu mát mẻ và cảnh thu thơ mộng, huyền ảo,
thong thả, bình yên. "Chùng chình" là sự cố ý muốn làm chậm lại,
rung rinh, lay động. Nó mang dáng vẻ thong thả, nhẹ nhàng như thiễu nữ đôi
mươi. Sương lén lút chậm rãi qua các ngõ hẻm. Ngõ không chỉ là không gian nối
liền thôn xóm mà còn cửa ngõ thời gian nối liền hai mùa hạ – thu. Tinh tế và
sâu sắc biết mấy cảm nhận của nhà thơ về thiên nhiên nhưng lại hiện lên rõ nét
hình ảnh con người. Vạn vật trong thời khắc chuyển mùa vì thế càng trở nên
duyên dáng, nhịp nhàng. Cảm
quan tinh tế cùa nhà thơ đã phát hiện ra vẻ đẹp rất riêng, rất duyên đó để rồi
xao xuyến: "Hình như thu đã về". Nhờ “bỗng” mà “hình như” đã
được sinh ra. “Hình như” là một tình thái từ thể hiện một quan điểm chưa chắc
chắn, vẫn còn bâng khuâng không biết liệu rằng mùa thu đã về chưa. Lời reo vui
cũng thì thầm nhỏ nhẹ, bâng khuâng vang lên trong lòng Hữu Thỉnh như bước đi của
mùa thu. Bằng tất cả các giác quan: khứu giác, xúc giác và thị giác, nhà thơ cảm
nhận những nét đặc trưng của mùa thu đều hiện diện. Có “hương ổi”, “gió se” và
“sương”. Mùa thu đã về trên quê hương. Vậy mà nhà thơ vẫn còn dè dặt: “Hình như
thu đã về”. Thu đến nhẹ nhàng quá, mơ hồ quá.
Sau
giây phút ngỡ ngàng và khe khẽ vui mừng, cảm xúc của thi sĩ tiếp tục lan tỏa, mở
ra trong cái nhìn xa hơn, rộng hơn:
Sông
được lúc dềnh dàng
Chim
bắt đầu vội vã
Có
đám mây mùa hạ
Vắt
nửa mình sang thu
Hơi
thở của thu đã rõ rệt hơn. Sự hiện diện của thu không còn mơ hồ mà đã cụ thể, hữu
hình trong thiên nhiên và tạo vật. Trong không gian rộng lớn hơn, từ bầu trời tới
mặt đất, đâu đâu cũng thấy cảnh sắc nhuốm thu. Dòng sông chảy khoan thai, lững
lờ, mà mềm mại và duyên dág chứ không ào ạt, cuộn dâng như trong hạ. Thế nhưng
trái lại với vẻ chậm chạp của dòng sông, đàn chim trời lại đang vội vã, chuẩn bị
cho một hành trình mới, khi thu sang, ngày ngắn, đêm dài và gió se đã thổi. Như
vậy, mùa thu của Hữu Thỉnh không chỉ có bình yên, thư thả mà còn có cả sự vội
vã, gấp gáp. Sông dưới mặt đất, chim ở trên trời; sông “dềnh dàng” chậm
rãi, chim “vội vã” lo lắng,... Hai hình ảnh xinh xắn đối lập đó được đặt
cạnh nhau để khái quát không gian mặt đất và bầu trời. Bức tranh mùa thu được cảm
nhận bởi sự thay đổi của đất trời theo tốc độ di chuyển từ hạ sang thu, nhẹ
nhàng mà rõ rệt. Thiên nhiên sang thu đã được cụ thể bằng những hình ảnh: “sông
dềnh dàng”, “chim vội vã”, “đám mây vắt nửa mình”. Thiên nhiên đã được quan
sát ở một không gian rộng hơn, nhiều tầng bậc hơn. Và bức tranh sang thu từ những
gì vô hình như “hương ổi”,”gió se”, từ nhỏ hẹp như con ngõ chuyển sang những
nét hữu hình, cụ thể với một không gian vừa dài rộng, vừa xa vời.
Trên
nền trời xanh còn có hình ảnh một “đám mây mùa hạ / vắt nửa mình sang thu"
diệu kì như chiếc cầu vồng rực rỡ sắc màu. “Đám mây” ở đây thực chất là
đám mây mùa thu vẫn còn vương vấn một chút nắng hạ nên từ “vắt” được nhà
thơ nói đến sinh động, có một chút gì đó bình dị, bởi lẽ dùng từ này là muốn
nói rằng “đám mây” như một dải lụa mềm mại tạo nên chiếc cầu nổi giữa nhịp
thời gian. Nhà thơ có liên tưởng thật thơ mộng, từ đó làm cho bầu trời trở nên
kì diệu, trong lành hơn. Hãy tưởng tưởng xem, chút nắng vàng mùa hạ
vẫn còn rụt rè sót lại ở một ngóc ngách nào đó trong bức tranh giao mùa, mùa
thu êm đềm vừa chợt đến, khiến màu sắc có hơi trầm xuống, lại thêm đám mây ngỡ
ngàng xuất hiện như vừa bước qua một không gian tĩnh lặng hơn. Hữu Thỉnh làm
cho chúng ta cảm thấy vừa ảo lại có nét thực, vừa rõ ràng nhưng lại mơ hồ một
cách kỳ lạ. Hình ảnh đám mây là một phát hiện rất mới lạ và độc đáo của Hữu
Thĩnh. Nhưng trong thực tế không hề có đám mây nào như thế vì mắt thường đâu dễ
nhìn thấy được sự phân chia rạch ròi của đám mây mùa hạ và thu. Đó chỉ là một sự
liên tưởng thú vị - một hình ảnh đầy chất thơ. Thời khắc giao mùa được sáng tạo
từ một hồn thơ tinh tế, nhạy cảm, độc đáo không những mang đến cho người đọc…mà
còn đọng lại những nỗi bâng khuâng trước vẻ dịu dàng êm mát của mùa thu. Bức
tranh chuyển mùa vì thế càng trở nên sinh động, giàu sắc gợi cảm, khiến cho người
đọc cảm nhận sâu sắc cả về không gian và thời gian chuyển mùa thật là đẹp, thật
là khêu gợi hồn thơ.
Có
thể nói, Sang thu là một cuộc rượt đuổi cảm xúc của nhà thơ và thiên nhiên đất
trời. Tác giả đã cảm nhận được và đã phác họa ra những hình ảnh giao mùa đơn giản
mà xinh đẹp đó vào bài thơ và đã gợi lên được những hình ảnh thiên nhiên làng
quê Bắc Bộ xinh đẹp khi thu sang. Bằng sự sáng tạo, những hình ảnh được miêu tả
lại một cách mới mẻ mà lại gợi tả được những nét đặc trưng của khoảnh khắc mùa
thu khi giao mùa.Với thể thơ 5 chữ, cách ngắt nhịp linh hoạt, giọng điệu tự
nhiên nhẹ nhàng, ngôn ngữ hình ảnh trong sáng, giàu sức biểu cảm, sử dụng sáng
tạo các biện pháp tu từnhư ẩn dụ, nhân hóa và sử dụng từ láy đã thể hiện được
những cảm nhận, cảm xúc tinh tế của nhà thơ và sự biến đổi của đất trời từ cuối
mùa hạ sang đầu mùa thu. “Sang thu” của Hữu Thỉnh là một thi phẩm hay viết
về mùa thu trong văn học Việt Nam.
Thiên
nhiên vũ trụ cũng là nguồn cảm hứng dồi dào trong thơ Huy Cận. Trong
bài thơ Đoàn thuyền đánh cá, Huy Cận mang hồn thơ của một sức sống mới, sự hồi
sinh của một tâm hồn và một đất nước. Bài thơ khắc họa nhiều hình ảnh đẹp tráng
lệ, thể hiện sự hài hòa giữa thiên nhiên và con người lao động, bộc lộ niềm
vui, niềm tự hào của nhà thơ trước đất nước và cuộc sống. Bên cạnh bức tranh lao động đầy hăng say, khỏe
khoắn của những người dân chài, Huy Cận còn thật tinh tế khi dựng lên bức tranh
thiên nhiên huy hoàng, tráng lệ của thiên nhiên nơi biển cả bao la.
Thiên
nhiên được miêu tả theo trình tự vận động từ hoàng hôn đến minh bình với khung
cảnh có sự biến đổi linh hoạt. Cảnh tưởng như ngưng vận động sau một ngày dài,
nhưng thực tế lại liên tục vận động, khung cảnh thiên nhiên vì thế mà ngập tràn
sức sống.
Không
gian trong thơ là biển cả, thời hạn là buổi hoàng hôn:
Mặt
trời xuống biển như hòn lửa
Sóng
đã cài then đêm sập cửa
Nhà
thơ đã dùng biện pháp nghệ thuật so sánh “Mặt trời xuống biển ”được ví với
“hòn lửa ”. giúp người đọc hình dung thấy hình dạng tròn đầy và màu sắc
rực đỏ của mặt trời. Màu sắc rực đỏ ấy lấp
lánh trong sắc xanh của biển biếc. Cả mặt biển lúc này ngời lên một vẻ đẹp
tráng lệ kì vĩ. Không những vậy, nhà thơ còn liên tưởng vũ trụ lúc này là một
ngôi nhà lớn có màn đêm là cánh cửa đang sập xuống còn sóng biển là then cài
ngang. Phép nhân hoá trong câu thơ không chỉ làm cho lời thơ sinh động mà còn
biểu đạt được thiên nhiên lúc này rất gần gũi với con người. Nó chẳng khác gì một
ngôi nhà của những ngư dân vùng biển đang bước vào trạng thái nghỉ ngơi.
Thiên
nhiên biển khơi còn là những đêm trăng đẹp:
Thuyền
ta lái gió với buồm trăng
Lớt
giữa mây cao với biển bằng.
Đó
là một không gian biển khơi mêng mông thoáng đạt, có gíó lồng
lộng thổi, có ánh sáng vằng vặc của vầng trăng. Từng đám mây trôi nhè nhẹ trên
tầng không, có mặt biển biếc. Màn đêm được nhân hoá trở thành một sinh thể sống:
“Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long”. Thực chất đó là cảnh sáng trên mặt biển
dập dềnh lúc lên cao, lúc xuống thấp rất sinh động. In xuống mặt biển lúc này
là cả một bầu trời sao. Phép ẩn dụ khi miêu tả giúp cho người đọc hình dung, thấy
mặt biển lúc này ngời sáng lấp lánh ánh vàng, ánh bạc của trăng, của sao. Mặt
biển trở lên lung linh, huyền ảo, dạt dà , sống động hẳn lên. Quả thật, cảnh
thiên nhiên biển đêm rực rỡ sắc màu như một bức tranh.
Thiên
nhiên trong mắt nhìn của tác giả là hình ảnh từng đàn cá tung tăng bơi lội.
Cá
nhụ cá chim cùng cá đé
Cá
song lấp lánh đuốc đen hồng
Cài
đuôi em quẫy trăng vàng choé.
Với
phép liệt kê , nhà thơ đã kể ra tên từng loại cá quý của biển Đông. Phải chăng
thiên nhiên giàu có phong phú đang ban tặng những tài sản vô giá cho cuộc sống
của con người. Ngòi bút của nhà thơ đã dừng lại để miêu tả vẻ đẹp loài cá song, những chấm đen hồng của loài cá
lấp lánh trong làn nước biển khiến cho cử động của cá càng trở lên mềm mại uyển chuyển giống như múa. Đuôi cá quẫy lên
làm tung những giọt nước lấp lánh ánh vàng của trăng, của sao. Nhà thơ đã cất
lên tiếng gọi “em ”trìu mến dành cho cá song. Ẩn sau những lời thơ ấy là
niềm tự hào, yêu mến của nhà thơ về sự giầu đẹp của thiên nhiên .
Bởi
thế thiên nhiên qua cách nhìn của nhà thơ lại càng trở lên đẹp hơn khi ánh bình
minh lên trên biển cả:
Mặt
trời đội biển nhô màu mới
Mắt
cá huy hoàng muôn dặm khơi.
Thiên
nhiên “đội biển” từ từ nhô lên ở phía biển khơi. Ánh hồng của nó lấp
lánh trong sắc xanh biển biếc. Cả mặt biển
ngời lên ánh hồng tơi mới. Ánh Hồng ấy còn tràn xuống khoang thuyền, lấp lánh
trong mắt cá.
Thiên
nhiên không chỉ đẹp một vẻ đẹp rực rỡ mà còn biểu tượng cho cuộc sống ấm no, đủ
đầy. Bằng bút pháp lãng mạn đan xen với hiện thực, nhà thơ đã khắc hoạ thành
công bức tranh về thiên nhiên nơi biển cả. Những hình ảnh thiên nhiên hiện ra vừa
bình dị vừa đẹp tươi thơ mộng, giàu có, màu sắc rực rỡ. Qua đó ta thấy được sự
quan sát tinh tế, sự liên tưởng phong
phú và tình yêu thiên nhiên tha thiết của tâm hồn thơ Huy Cận.
Hai
bài thơ thật đẹp biết bao bởi những áng thơ giàu sức gợi, đẫm chất trữ tình. Đọc
hai bài thơ Đoành thuyền đánh cá cảu Huy Cận và Sang thu của Hữu Thỉnh chúng ta
thấy được khả năng quan sát, miêu tả cảnh vật thiên nhiên thật sinh động, tỉ mỉ,
kĩ càng của các nhà thơ. Bức tranh thiên nhiên như một sinh vật sống, sinh tươi
đầy sức sống, cuốn hút lạ thường. Thông qua hai bài thơ,
người đọc có thể thấy được cảnh săc thiên nhiên nước ta tươi đẹp quá, mỗi vùng
đất lại có những nét đẹp riêng, được miêu tả bằng cách nhìn riêng nhưng nổi bật
hơn cả là sự tự nhiên, đầy sức sống. Ta cảm nhận rõ tình yêu thiên nhiên, niềm
rung cảm trước vẻ đẹp của thiên nhiên và tình yêu cuộc sống, yêu con người của
hồn thơ Huy Cận, Hữu Thỉnh. Từng bức tranh còn thể hiện những thông điệp, ý
nghĩa mà Huy Cận và Hữu Thỉnh khéo léo gửi gắm. Đó là một niềm khát khao, hi vọng,
chủ động vươn tới tương lai hào hùng, bất khuất, hiên ngang phía trước chứ
không phải mòn mỏi, chờ đợi, lầm lụi ngóng về một sự ban phát niềm tin hư ảo
nào khác. Tự do phải do chính tay ta kiến tạo nên mới là tự do lâu dài, bền vững
nhất. Đó là thách thức, vấp ngã đưa lại những kinh nghiệm sống quý quý giá, sự
trải nghiệm theo gian luôn là điều tất yếu, để giờ đây khi trưởng thành rồi con
người sau bao sấm chớp, bao giông bão cũng không còn sợ, cũng vẫn bình thản đón
nhận tất cả như một lẽ tự nhiên. Biến cố cuộc đời chẳng thể khiến lòng người
chùn chân, lùi bước.
Hai
bài thơ Bài thơ mang đến cho ta những suy ngẫm về cuộc đời, về tuổi trẻ và thời
gian, để từ đó thêm ý thức hơn về lẽ sống đời mình, thêm yêu và trân trọng mọi
vẻ đẹp của đất nước, của thiên nhiên. Hai bài thơ thơ là một nguồn sức mạnh truyền cảm hứng cho
tình yêu của ta đối với đất trời, đối với thiên nhiên. Nhờ Huy Cận và Hữu Thỉnh
mà ta đã tiếp nhận được ý thức sâu sắc về trách nhiệm của con người đối với
chính bản thân, với quê hương đất nước.
Thứ Năm, 7 tháng 4, 2022
Phân tích 2 khổ thơ đầu Sang thu và liên hệ Mùa xuân nho nhỏ
Cảm xúc về mùa
từ lâu vẫn luôn được con người thể hiện ở nhiều lĩnh vực như hội họa, âm nhạc
và cả trong những áng văn, thi phẩm. Trong dòng cảm xúc chung không ngừng chảy
trôi ấy, Hữu Thỉnh đã chọn cho mình khoảnh khắc giao mùa “sang thu” đầy ấn tượng
để viết nên tác phẩm cùng tên. Bài thơ “Sang thu” như một khúc nhạc du dương của
đất trời trong hơi thở nhẹ nhàng của mùa thu đang đến. Vẻ đẹp mùa thu với chút
lưu luyến, bâng khuâng nhưng đầy nhựa sống được tô vẽ qua từng ý thơ nhẹ nhàng, đời thường nhưng rất đỗi tinh tế trong
hai khổ đầu:
Bỗng nhận
ra hương ổi
Phả vào
trong gió se
Sương chùng
chình qua ngõ
Hình như
thu đã về.
Sông được
lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu
vội vã
Có đám mây
mùa hạ
Vắt nửa
mình sang thu.
Mùa thu - mùa
sắc vàng lá đổ, mùa nồng nàn hương hoa sữa, mùa của những xúc cảm tuyệt vời.
Nhiều người từng ví mùa thu tựa như một cô gái thanh thuần, trong trẻo. Vẻ đẹp ấy
thật riêng, không một mùa nào trong năm có thể so bì được. Nhưng có lẽ, ít ai cảm
thức được vẻ đẹp còn ngất ngây hơn ở thời khắc giao mùa, khi đất trời chào tạm
biệt mùa hạ, chuyển mình qua thu. Nhưng với Sang thu- Hữu Thỉnh như đắm chìm
trong hương sắc giao thời. Thi phẩm dường như đã vỗ vào xúc cảm của xúc cảm của
độc giả thật nhẹ nhàng.
Thiên nhiên mùa
thú nơi miền quê Bắc Bộ được cảm nhận từ những điều vô hình. Bức tranh thiên
nhiên đẹp ấy đã được người thi nhân cảm nhận phác họa một cách tinh tế và sinh
động, giàu sức biểu cảm qua xúc giác, khứu giác và thị giác. Bước đi của mùa
thu được tác giả bắt nhịp bằng những giác quan tinh nhạy của minhf. Những tín
hiệu nhẹ nhàng khi đất trời giao mình chuyển mùa trong một không gian nên thơ
nhẹ nhàng:
Bỗng nhận
ra hương ổi
Phả vào
trong gió se
Sương chùng
chình qua ngõ
Hình như
thu đã về.
Trong cái chớm
se lạnh của cơn gió mùa thu mà nhà thơ cảm nhận bằng xúc giác, khứu giác đã
giúp ông cảm nhận được mùi hương đặc trưng của ổi – một thứ quà bình dị của
thôn quê: hương ổi. Hương vị ấy đã “phả” ra rồi cứ thế nương dựa
vào gió mà lan tỏa khắp cả không gian xung quanh mà trong không gian có cả sự
hiện hữu của một tâm hồn rung cảm như Hữu Thỉnh. Hương ổi “phả” vào
trong không gian bao la rộng lớn nhưng là một sự phảng phất dịu dàng, từ tốn chứ
không hề vội vã, ồ ạt. Cứ như thế mà hương vị ấy lại thấm thật sâu, thật kĩ vào
vạn vật và đến một thời điểm nào đó đã khiến con người rung động. Từ “phả”
diễn tả dư vị nồng nàn, đậm đà đang lan tỏa trong gió. Chính làn gió se điển
hình của tiết trời miền Bắc khi chuyển mùa đã mang hương ổi đi xa hòa quyện với
không gian cùng đất trời. “Hương ổi” trong cảm nhận của tác giả là một sự
bắt gặp tình cờ không báo trước. Thể hiện điều này, nhà thơ đã khéo léo sử dụng
từ “bỗng”. Việc nhà thơ “nhận ra” hương vị diệu kì của loại trái
cây đồng nội dường như không có sự chuẩn bị trước, cũng không phải là sự nỗ lực
cố gắng để kiếm tìm và phát hiện ra. Có lẽ trong nhà thơ trong khoảnh khắc “nhận
ra” ấy là một cảm giác thân quen, gần gũi, ngửi thấy hương ổi mà cứ như là
được gặp lại cố nhân.
Cùng với “hương
ổi”, “gió se”, cả sương khói mùa thu cũng hòa nhịp vào cuộc vận hành “sang
thu”:
Hình như
thu đã về.
Màn sương được
nhân hóa trở nên có hồn, tinh tế đầy sinh động. Động từ “chùng chình” gợi
tả làn sương nhẹ nhàng mỏng manh e ấp như nàng thiếu nữ đôi mươi xao xuyến trước
những rung động. Hai tiếng “chùng chình” trong câu thơ trên đã diễn tả
được tư thế nấn ná, chần chừ của làn sương khi di chuyển trong không gian của
xóm làng. Sương qua ngõ chùng chình – Ngõ ở đây vừa mang ý hiện thực là ngõ nhỏ
nơi thôn xóm lại như là ẩn dụ với cửa ngõ của thời gian đang từ từ bước qua
ranh giới giữa hạ và thu.Tất cả những hình ảnh của thiên nhiên tạo vật như bắt
cầu cho sự xuất hiện của bóng dáng mùa thu. Mùa thu tuy được xác nhận tưởng như
mơ hồ với từ “hình như”. Nhưng thật ra, nó cũng đã ngầm khẳng định cho
việc thu đã có những bước đi đầu tiên mà không còn nghi ngờ gì nữa. Giờ đây
trong mỗi phút giây đã có sự chuyển đổi, thay cho cảm giác nóng nực của mùa hè
là sự khoan khoái dễ chịu của ngày thu. Lời reo vui:"Hình như thu đã về"
cũng thì thầm nhỏ nhẹ, bâng khuâng vang
lên trong lòng Hữu Thỉnh như bước đi của mùa thu. Bằng tất cả các giác quan: khứu
giác, xúc giác và thị giác, nhà thơ cảm nhận những nét đặc trưng của mùa thu đều
hiện diện. Có “hương ổi”, “gió se” và “sương”. Mùa thu đã về trên quê hương. Thu
đến nhẹ nhàng quá, mơ hồ quá.
Thu sang với
những hình ảnh quen thuộc tiếp tục được nhà thơ phát hiện trong những dòng thơ
tiếp theo. Nếu như ở khổ đầu không gian bị bó hẹp, thì đến đây không gian đã rộng
mở hơn, từ tầm cao cũng như tầm xa:
Sông được
lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu
vội vã
Có đám mây
mùa hạ
Vắt nửa
mình sang thu
Các hình ảnh của
thiên nhiên trong thời điểm này là dấu hiệu khó có thể chối bỏ nó thuộc sở hữu
của mùa thu.Các từ láy “dềnh dàng” “vội vã” đã phần nào thể hiện sinh động
nhịp thở của đất trời khi sang thu. Mùa thu đến cũng là lúc mùa lũ đã thôi làm
khó làm dễ cuộc sống của muôn người, muôn vật. Vậy nên dòng sông trong ở thời
điểm này cũng trở nên hiền hòa, dễ chịu mà “dềnh dàng” trong nhịp chảy của
chính mình. Dòng sông cũng dùng dằng và ngập ngừng níu kéo nhịp thở của mùa hạ.
Ngược lại với sự dềnh dàng từ từ của dòng sông lại là sự vội vã của những cánh
chim trời. Hẳn là đàn chim đã bắt đầu cảm nhận được chút se lạnh của tiết trời.
Phải chăng để chuẩn bị cho những ngày đông sắp tới mà trong mùa thu bản lề này,
“chim bắt đầu vội vã” để làm tổ và dự trữ thức ăn. Tất cả những sự hiện
hữu của thiên nhiên ở thời điểm này đã khẳng định cho sự xuất hiện của khung cảnh
mùa thu. Nghệ thuật đăng đối vô cùng điêu luyện của tác giả đã giúp cho hình ảnh
thơ trở nên giàu chất tạo hình, đẹp hơn và thơ mộng hơn.
Thế nhưng, khi
sắc thu, hương thu và cảnh thu đang làm chủ vũ trụ thì đất trời dường như vẫn
còn vấn vương mùa hạ mến thương để dành chỗ cho “đám mây mùa hạ”. Ấy thế
mà, dù có vấn vương đến ra sao, tiếc nuối đến nhường nào, mây hạ vẫn không thể
níu kéo mùa hạ mãi hoài nên vì vậy, nó đành “vắt nửa mình sang thu”.
Trong cái “vắt mình” ấy có thoáng tiếc nuối, buồn bã nhưng cũng chứa đựng
sự phấn khởi, hân hoan của một tâm thế đón chào cái mới mẻ, bình yên. Hành động
được nhân hóa này mang ý diễn tả sự vận động của thời gian. Không gian thơ cũng
như trở nên rộng mở hơn, bao la hơn với hình ảnh đầy chất tạo hình này. Phút
giao mùa thật nhẹ nhàng biết bao!
Không chỉ đến
khổ thơ này, tác giả mới sử dụng những từ ngữ ẩn chứa tâm ý của con người như “dềnh
dàng”, “chùng chình”, “vắt mình”. Mà ngay từ khổ thơ đầu tiên qua các từ ngữ
“chùng chình”, “phả”, nhà thơ như cũng muốn thể hiện bóng dáng của con
người trong hoàn cảnh tạo vật thay đổi trạng thái, bước vào thời điểm giao mùa.
Có vẻ như, cùng với thiên nhiên, tâm trạng con người cũng không nằm ngoài sự vận
động về trạng thái hiện hữu. Cũng vì thế mà theo dòng cảm xúc hòa cùng thiên
nhiên giao mùa.
Hữu Thỉnh mang đến bức tranh thiên nhiên cái dân dã, mộc
mạc, đẩy rung cảm và thân quen của một tầm hổn nhạy cảm, một trái tim tha thiết
yêu thiên nhiên thì Thanh Hải cho ta cảm nhận cái rộn ràng, say mê trong niềm cảm
hứng bất tận với cảnh sắc quê hương:
Mọc giữa
dòng sông xanh
Một bông
hoa tím biếc
Ơi con chim
chiền chiện
Hót chi mà
vang trời
Từng giọt
long lanh rơi
Tôi đưa tay
tôi hứng.
Mùa xuân – mùa
khởi đầu cho một năm mới trong vũ trụ tuần hoàn. Trong bức tranh Mùa xuân nho
nhỏ, nhà thơ Thanh Hải đã mang đến cho mọi
người một cảm nhận về bức tranh xuân với đầy đủ sắc, thanh tươi mới và tràn đầy
hứng khởi. Là dòng sông trải rộng như tấm gương khổng lồ phản chiếu sắc xanh từ
bầu trời cao rộng, là màu tím của lục bình đang nhẹ nhàng trôi trên dòng nước,
đâu đó là sắc xanh non mới trổ của cành lộc trên lưng người chiến sĩ ra trận
hay những nương mạ đang bừng tỉnh vươn cao những trồi lá. Một bức tranh với những
gam màu sáng, làm sống dậy một không khí vui tươi trong những ngày đất nước vào
xuân. Trong không gian cao rộng, thoáng đãng ấy là tiếng chim báo hiệu xuân về,
một thanh âm trong trẻo, vang rộn khắp đất trời. Và trong khoảnh khắc tuyệt đẹp
ấy, tác đã đã hòa mình cùng thiên nhiên, đưa bàn tay để đón lấy “giọt long
lanh” của đất trời. Đó có thể là giọt sương lấp lánh sớm mai hay giọt nắng xuân
khẽ rơi bên thầm, nhưng theo mạch cảm xúc bài thơ có thể hiểu là giọt âm thanh
đổ hồi của con chim chiền chiện. Hình ảnh có tính chất tượng trưng “tôi đưa tay
tôi hứng” là thái độ yêu thương, trân trọng của nhà thơ trước vả đẹp của đất trời.
Nghệ thuật ví ngầm, chuyển đổi cảm giác quả đã đạt tới mức tinh tế đáng khâm phục.
Chắc hẳn trong lòng thi sĩ đang dạt dào tình yêu quê hương, đất nước, tình yêu
cuộc đời. Có thể nói, bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” đã vẽ nên một bức tranh thiên
nhiên tươi đẹp và tràn đầy sức sống.
Với cách biểu
đạt nhẹ nhàng, tinh tế hai bài thơ đã thể hiện cái đẹp nồng thắn, mê say của cảnh
sắc thiện nhiên đất trời. Mỗi nhà thơ có cảm nhận riêng về cảnh sắc thiên
nhiên, những chiêm nghiệm, những suy nghĩ về cuộc đời, về con người, tình người
trong cuộc sống nhưng thật cảm động và kính phục biết bao khi đọc những vần thơ
đầy xúc động với hình ảnh thiên nhiên gợi lên thật đẹp. Ở đó, thiên nhiên vừa
tươi đẹp, tràn trào sức sống vừa chứa đựng tâm tư, suy nghiệm của con người về
cuộc đời , về lẽ sống. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, con người cũng luôn tìm kiếm
một tiếng nói chung với thiên nhiên để tìm kiếm một sự hợp nhất viên mãn nhất.
Đó là niềm vui, là hạnh phúc, là lối sống đẹp mà con người luôn hướng tới. Cùng
với một tầm hổn nhạy cảm, một trái tim tha thiết yêu thiên nhiên trải ra trên từng
nét chữ, Thanh Hải và Hữu Thỉnh đã tặng cho người đọc cái rộn ràng của sắc xuân
cùng với một chút lắng đọng thật êm khi thu đến. Dẫu hai ngòi bút nghệ thuật khắc
họa hai đường nét đặc sắc khác nhau nhưng đâu đó ta vẫn thấy ngân vang lên yêu
thiên nhiên nồng nàn say đắm, tầm hổn thi sĩ luôn lạc quan và say sưa trong niềm
cảm hứng bất tận với cảnh sắc quê hương.
Hai bài thơ Mùa
xuân nho nhỏ, Sang thu cùng với hai hồn thơ – Thanh Hải, Hữu Thỉnh – để lại
trong lòng bao thế hệ bạn đọc những cảm xúc sâu lắng, khó phai mờ và vẫn sẽ tiếp
tục trường tồn cùng với những bước đi lên của đất nước, gợi nhắc cho những thế
hệ trẻ tình yêu quê hương đất nước, niềm khát khao được sống, được cống hiến
cho đất nước, cho dù đó là những cống hiến giản dị, nhỏ bé nhưng đầy ý nghĩa.
Chủ Nhật, 30 tháng 5, 2021
Vẻ đẹp và sự biến đổi kỳ diệu của thiên nhiên trong buổi giao mùa(K1,2 Sang thu)
Mỗi khoảnh khắc giao thoa giữa hai mùa Hạ và Thu luôn là thời điểm khiến cho lòng người cảm thấy xốn xang nhất. Khi mà cảnh vật hòa cùng với đất trời tạo nên một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp. Chẳng thế mà với một tâm hồn đậm chất thơ của mình Hữu Thỉnh đã vẽ nên một bức tranh thiên nhiên đất trời khi chuyển mùa sang Thu bằng chất liệu ngôn từ đẹp đẽ nhất và cũng lãng mạn nhất qua bài “Sang thu”. Đoạn thơ sau là những cảm nhận, những rung động man mác, bâng khuâng của tác giả trước vẻ đẹp và sự biến đổi kỳ diệu của thiên nhiên trong buổi giao mùa:
Bỗng
nhận ra hương ổi
Phả
vào trong gió se
Sương
chùng chình qua ngõ
Hình
như thu đã về
Sông
được lúc dềnh dàng
Chim
bắt đầu vội vã
Có
đám mây mùa hạ
Vắt
nửa mình sang thu
Mùa
thu quê hương là đề tài gợi cảm xúc đối với thi nhân song mỗi người cảm xúc về
mùa thu theo cảm nhận riêng của mình. Với nhà thơ Hữu Thỉnh, khoảnh khắc giao
mùa từ hạ sang thu đã rung động hồn thơ để thi sĩ vẽ nên một bức tranh thơ:
“Sang thu” thật hay. Bài thơ được viết theo thể thơ năm chữ: nhịp nhàng, khoan
thai, êm ái, trầm lắng và thoáng chút suy tư… thể hiện một bức tranh thu trong
sáng, đáng yêu ở vùng nông thôn đồng bằng Bắc Bộ.
“Sang
thu” ở đây là chớm thu. Mùa hè vẫn chưa hết mà mùa thu đã bắt đầu tới với những
tín hiệu đầu tiên. Trong khoảnh khắc giao mùa tuyệt vời, đất
trời có những biến chuyển nhẹ nhàng mà rõ rệt. Nét đẹp chuyển thu thật tinh tế,
dịu dàng. Trước những sự thay đổi tinh vi ấy, phải nhạy cảm lắm mới có thể cảm
nhận được. Hữu Thỉnh đón nhận mùa thu từ những dấu hiệu đời thường,
gần gũi.Và trong biết bao hương vị thân thuộc của làng quê, Hữu Thỉnh giật mình
thảng thốt, nhận ra cái làn hương ngây ngất, ngọt ngào của trái ổi đầu mùa:
Bỗng
nhận ra hương ổi
Phả
vào trong gió se
Sương
chùng chình qua ngõ
Hình
như thu đã về
“Hương
ổi” thân thương sực thẳng vào miền kí ức, đánh thức hương vị của làng quê Bắc
Bộ yêu thương. Đó là thứ hương vị thật dễ dàng để nhận ra ở chốn làng quê thôn
dã. Nhưng có phải bởi quen thuộc quá nên đôi khi ta lãng quên? Để đến khi nhận
ra hết thảy chúng ta đều không khỏi bất ngờ: “Bỗng nhận ra hương ổi”. Từ
“bỗng” như được gieo lên trong niềm ngỡ ngàng ngạc nhiên. Từ bao giờ nhỉ,
thu về? Tất cả đến với tác giả nhẹ nhàng mà cũng đột ngột quá, thu về với đất
trời quê hương, với lòng người mà không hề báo trước. Để rồi trong phút giây ngỡ
ngàng, nhà thơ chợt nhận ra hương thơm nồng nàn “phả” vào trong “gió
se”. Mùi hương ấy không hòa vào quyện
vào mà “phả” vào trong gió. “Phả” nghĩa là bốc mạnh và tỏa ra từng
luồng. Hữu Thỉnh đã không tả mà chỉ gợi, đem đến cho người đọc một sự liên tưởng
thú vị: tại vườn tược quê nhà,những quả ổi chín vàng trên các cành cây kẽ lá tỏa
ra hương thơm nức, thoang thoảng trong gió. Chỉ một chữ “phả” thôi cũng
đủ gợi hương thơm như sánh lại. Sánh lại bởi hương đậm một phần, sánh bởi tại
gió se. Nhận ra trong gió có hương ổi là cảm nhận tinh tế của một người sống giữa
đồng quê và nhà thơ đã đem đến cho ta một tín hiệu mùa thu dân dã mà thi vị.
Ông đã phát hiện một nét đẹp đáng yêu của mùa thu vàng nông thôn vùng đồng bằng
Bắc Bộ. Cũng nhờ hương ổi, bức tranh giao mùa có một sức sống mạnh mẽ đến kì lạ,
mà cũng bất ngờ cho lòng người. Hương ổi từ đó mà lan tỏa mãi trong không gian
và rồi vấn vương trong gió se - cơn gió heo may đầu mùa.
Hữu
Thỉnh có những cảm nhận rất tinh tế về sự thay đổi của đất trời, điều đó được
thể hiện lần lượt qua khứu giác (hương ổi), rồi đến xúc giác (gió se) và bây giờ
thì đến thị giác. Trước mắt nhà thơ, sương mở đường mở lối
đi khắp đầu thôn, ngõ xóm. Không gian có sự hoà hợp giữa hương ổi dịu dàng, gió
thu nhẹ nhẹ và sương thu mơ màng tạo nên một ấn tượng đặc biệt mà ta khó lòng
quên được. Không phải là màn sương dày đặc, mịt mù mà là “Sương chùng chình
qua ngõ” gợi ra những làn sương mỏng, mềm mại, giăng màn khắp đường thôn
ngõ xóm làng quê. Nó làm cho khí thu mát mẻ và cảnh thu thơ mộng, huyền ảo,
thong thả, bình yên. "Chùng chình" là sự cố ý muốn làm chậm lại,
rung rinh, lay động. Nó mang dáng vẻ thong thả, nhẹ nhàng như thiễu nữ đôi
mươi. Sương lén lút chậm rãi qua các ngõ hẻm. Ngõ không chỉ là không gian nối
liền thôn xóm mà còn cửa ngõ thời gian nối liền hai mùa hạ – thu. Tinh tế và
sâu sắc biết mấy cảm nhận của nhà thơ về thiên nhiên nhưng lại hiện lên rõ nét
hình ảnh con người. Vạn vật trong thời khắc chuyển mùa vì thế càng trở nên
duyên dáng, nhịp nhàng. Cảm
quan tinh tế cùa nhà thơ đã phát hiện ra vẻ đẹp rất riêng, rất duyên đó để rồi
xao xuyến: "Hình như thu đã về". Nhờ “bỗng” mà “hình như” đã
được sinh ra. “Hình như” là một tình thái từ thể hiện một quan điểm chưa chắc
chắn, vẫn còn bâng khuâng không biết liệu rằng mùa thu đã về chưa. Lời reo vui
cũng thì thầm nhỏ nhẹ, bâng khuâng vang lên trong lòng Hữu Thỉnh như bước đi của
mùa thu. Bằng tất cả các giác quan: khứu giác, xúc giác và thị giác, nhà thơ cảm
nhận những nét đặc trưng của mùa thu đều hiện diện. Có “hương ổi”, “gió se” và
“sương”. Mùa thu đã về trên quê hương. Vậy mà nhà thơ vẫn còn dè dặt: “Hình như
thu đã về”. Thu đến nhẹ nhàng quá, mơ hồ quá.
Sau
giây phút ngỡ ngàng và khe khẽ vui mừng, cảm xúc của thi sĩ tiếp tục lan tỏa, mở
ra trong cái nhìn xa hơn, rộng hơn:
Sông
được lúc dềnh dàng
Chim
bắt đầu vội vã
Có
đám mây mùa hạ
Vắt
nửa mình sang thu
Hơi
thở của thu đã rõ rệt hơn. Sự hiện diện của thu không còn mơ hồ mà đã cụ thể, hữu
hình trong thiên nhiên và tạo vật. Trong không gian rộng lớn hơn, từ bầu trời tới
mặt đất, đâu đâu cũng thấy cảnh sắc nhuốm thu. Dòng sông chảy khoan thai, lững
lờ, mà mềm mại và duyên dág chứ không ào ạt, cuộn dâng như trong hạ. Thế nhưng
trái lại với vẻ chậm chạp của dòng sông, đàn chim trời lại đang vội vã, chuẩn bị
cho một hành trình mới, khi thu sang, ngày ngắn, đêm dài và gió se đã thổi. Như
vậy, mùa thu của Hữu Thỉnh không chỉ có bình yên, thư thả mà còn có cả sự vội
vã, gấp gáp. Sông dưới mặt đất, chim ở trên trời; sông “dềnh dàng” chậm
rãi, chim “vội vã” lo lắng,... Hai hình ảnh xinh xắn đối lập đó được đặt
cạnh nhau để khái quát không gian mặt đất và bầu trời. Bức tranh mùa thu được cảm
nhận bởi sự thay đổi của đất trời theo tốc độ di chuyển từ hạ sang thu, nhẹ
nhàng mà rõ rệt. Thiên nhiên sang thu đã được cụ thể bằng những hình ảnh: “sông
dềnh dàng”, “chim vội vã”, “đám mây vắt nửa mình”. Thiên nhiên đã được quan
sát ở một không gian rộng hơn, nhiều tầng bậc hơn. Và bức tranh sang thu từ những
gì vô hình như “hương ổi”,”gió se”, từ nhỏ hẹp như con ngõ chuyển sang những
nét hữu hình, cụ thể với một không gian vừa dài rộng, vừa xa vời.
Trên
nền trời xanh còn có hình ảnh một “đám mây mùa hạ / vắt nửa mình sang thu"
diệu kì như chiếc cầu vồng rực rỡ sắc màu. “Đám mây” ở đây thực chất là đám mây
mùa thu vẫn còn vương vấn một chút nắng hạ nên từ “vắt” được nhà thơ nói đến
sinh động, có một chút gì đó bình dị, bởi lẽ dùng từ này là muốn nói rằng “đám
mây” như một dải lụa mềm mại tạo nên chiếc cầu nổi giữa nhịp thời gian. Nhà thơ
có liên tưởng thật thơ mộng, từ đó làm cho bầu trời trở nên kì diệu, trong lành
hơn. Hãy
tưởng tưởng xem, chút nắng vàng mùa hạ vẫn còn rụt rè sót lại ở một ngóc ngách
nào đó trong bức tranh giao mùa, mùa thu êm đềm vừa chợt đến, khiến màu sắc có
hơi trầm xuống, lại thêm đám mây ngỡ ngàng xuất hiện như vừa bước qua một không
gian tĩnh lặng hơn. Hữu Thỉnh làm cho chúng ta cảm thấy vừa ảo lại có nét thực,
vừa rõ ràng nhưng lại mơ hồ một cách kỳ lạ. Hình ảnh đám mây là một phát hiện rất
mới lạ và độc đáo của Hữu Thĩnh. Nhưng trong thực tế không hề có đám mây nào
như thế vì mắt thường đâu dễ nhìn thấy được sự phân chia rạch ròi của đám mây
mùa hạ và thu. Đó chỉ là một sự liên tưởng thú vị - một hình ảnh đầy chất thơ.
Thời khắc giao mùa được sáng tạo từ một hồn thơ tinh tế, nhạy cảm, độc đáo
không những mang đến cho người đọc…mà còn đọng lại những nỗi bâng khuâng trước
vẻ dịu dàng êm mát của mùa thu. Bức tranh chuyển mùa vì thế càng trở nên sinh động,
giàu sắc gợi cảm, khiến cho người đọc cảm nhận sâu sắc cả về không gian và thời
gian chuyển mùa thật là đẹp, thật là khêu gợi hồn thơ.
Có
thể nói, Sang thu là một cuộc rượt đuổi cảm xúc của nhà thơ và thiên nhiên đất
trời. Tác giả đã cảm nhận được và đã phác họa ra những hình ảnh giao mùa đơn giản
mà xinh đẹp đó vào bài thơ và đã gợi lên được những hình ảnh thiên nhiên làng
quê Bắc Bộ xinh đẹp khi thu sang. Bằng sự sáng tạo, những hình ảnh được miêu tả
lại một cách mới mẻ mà lại gợi tả được những nét đặc trưng của khoảnh khắc mùa
thu khi giao mùa.Với thể thơ 5 chữ, cách ngắt nhịp linh hoạt, giọng điệu tự
nhiên nhẹ nhàng, ngôn ngữ hình ảnh trong sáng, giàu sức biểu cảm, sử dụng sáng
tạo các biện pháp tu từnhư ẩn dụ, nhân hóa và sử dụng từ láy đã thể hiện được
những cảm nhận, cảm xúc tinh tế của nhà thơ và sự biến đổi của đất trời từ cuối
mùa hạ sang đầu mùa thu. “Sang thu” của Hữu Thỉnh là một thi phẩm hay viết
về mùa thu trong văn học Việt Nam.
Thứ Sáu, 9 tháng 4, 2021
Phân tích khổ 3 Sang thu của Hữu Thỉnh
Thiên nhiên luôn là đề tài bất tận của thi ca. Và mùa thu được xem là thời điểm khiến thi sĩ rung cảm, gửi gắm nhiều tâm tư, tình cảm nhất. Hữu Thỉnh, với trái tim yêu mến thiên nhiên, cuộc đời, cũng đã biết nên áng thơ Sang thu. Bài thơ không chỉ là cảm nhận tinh tế của tác giả về những tín hiệu mùa thu, miêu tả rõ nét những biến chuyển tinh tế của không gian đất trời; mà con gửi gắm những tâm tư, suy ngẫm sâu sắc, nhiều trải nghiệm của một tác giả đã kinh qua nhiều thử thách. Ta sẽ thấy rõ được những suy ngẫm ấy được bộc lộ một cách rất thơ, rất đời. Và những cảm nhận của tác giả khi tiết trời chuyển sang thu đã được thể hiện rõ nét nhất ở khổ thơ cuối:
Vẫn
còn bao nhiêu nắng
Đã
vơi dần cơn mưa
Sấm
cũng bớt bất ngờ
Trên
hàng cây đứng tuổi.
Bài
thơ Sang thu được viết vào năm 1977, là những cảm nhận tinh tế, sâu sắc của tác
giả Hữu Thỉnh về sự biến đổi của đất trời từ cuối hạ sang đầu thu. Đây là một bức
tranh thu trong sáng, yên bình ở vùng nông thôn nơi đồng bằng Bắc Bộ. Mặc dù đã
có rất nhiều những bài thơ nổi tiếng viết về mùa thu, thế nhưng những lời thơ của
hữu thỉnh vẫn mang rất nhiều nét độc đáo, nổi bật, chiếm một vị trí không thể
thay thế trong nền văn học Việt Nam. Lời thơ của Hữu Thịnh luôn mang cảm xúc
bâng khuâng, vấn vương trước thiên nhiên, đất trời. Những biến chuyển tinh tế,
nhẹ nhàng của không gian, qua lời thơ của ông trở nên gần gũi, mang đậm thích
tâm hồn Việt với nhiều xúc cảm mãnh liệt. Chính vì thế, thơ Hữu Thỉnh dễ nghe,
dễ cảm, ám ảnh tâm trí người đọc và nương lại trong tâm hồn mỗi người những suy
ngẫm khó diễn tả thành lời.
Đọc
Sang thu, ta cảm nhận được cảnh vật như trở nên vừa hư vừa thực, rất nên thơ và
giàu sức tưởng tượng độc đáo. Nhà thơ Hữu Thỉnh hẳn phải là người có tâm hồn
tinh tế cùng với tình yêu tha thiết với thiên nhiên và đất nước mới có thể sáng
tạo nên những vần thơ đặc sắc này. Từ những rung động mãnh liệt và xúc cảm xuyến
xang khi đất trời vào thu, nhà thơ chuyển sang giọng điệu chiêm nghiệm và suy
ngẫm sâu xa.
Khoảnh
khắc giao mùa chính là sợi dây liên kết nội dung các khổ thơ lại với nhau.
Trong mỗi khổ thơ, song hành với những hình ảnh “sang thu” luôn có hình bóng của
sắc hạ:
Vẫn
còn bao nhiêu nắng
Đã
vơi dần cơn mưa
Sấm
cũng bớt bất ngờ
Nắng
hạ vốn gay gắt, chói chang nên nó vẫn còn lưu lại ở nơi này, chốn nọ, cứ như thể
nó được mùa hạ giao phó nhiệm vụ gợi nhắc tất cả những gì đang tồn tại ở thời
điểm này những hình ảnh của ngày hè. Nắng còn đó, mưa không vội đi và sấm cũng
chẳng muốn rời. Nhưng tất cả đang vận động trong các trạng
thái “vơi”, “bớt”. “Vẫn còn” “vơi dần” “cũng bớt” đã diễn tả mức
độ giảm dần của hiện tượng khi đất trời sang thu. Sự chuyển biến đó đã được cảm
nhận sâu sắc qua tâm hồn tinh tế và nhạy cảm của nhà thơ. Những thay đổi của thời
tiết được nhà thơ phát hiện một cách đầy tinh tế. Là sấm, là mưa, nắng, là những
hiện tượng điển hình của mùa hạ nhưng đã có sự thay đổi mức độ trong cái khoảnh
khắc giao mùa. Giờ đây, vào khoảnh khắc giao mùa, nắng cuối hạ dù vẫn còn nồng,
còn sáng chói nhưng cũng đã yếu dần, nhạt dần, bởi gió se đã đến. Cơn gió đổi
mùa đã làm dịu đi cái gay gắt của thiên nhiên, khiến ánh nắng không còn chói
chang, dữ dội, khiến con người khó chịu nữa. Vào mưa cũng đã ít đi. Nếu như cơn
mưa mùa hạ chút đến chợt đi thì giờ đây dường như đã hiền hòa hơn, “vơi” đi. Ở
đây, tác giả đã sử dụng từ “vơi” có giá trị gợi tả sâu sắc. Nó giúp diễn tả rõ
nét cái thưa dần, ít dần, hết dần của những cơn mưa rào bất ngờ, ào ạt, xối xả
của mùa hạ. Cuối hạ, đầu thu, không chỉ có anh nắng dịu đi, cơn
mưa chậm lại, mà sấm cũng thưa thớt dần. Chúng không còn dữ dội để có thể làm
lay động hàng cây nữa. Thiên nhiên dường như cũng dịu dàng hơn, ưu ái hơn đối với
mùa thu. Chính điều đó đã làm cho mùa thu trở nên dịu nhẹ, tinh tế, làm con người
ta xao xuyến. Những bất chợt của cơn mưa ngày hè, những dữ dội của sấm mùa hạ
đã thưa vắng dần như thầm muốn để lại không chỉ cho “hàng cây đứng tuổi”,
mà còn cả các sự vật ở lại, trong đó có cả con người, một khoảnh khắc bình yên.
Nhìn
cảnh vật sang thu buổi giao mùa, từ ngoại cảnh ấy mà nhà thơ suy ngẫm về cuộc đời.
“Sấm" và “hàng cây đứng tuổi'' là những ẩn dụ tạo nên tính hàm nghĩa của
bài Sang thu. Nắng, mưa, sấm là những biến động của thiên nhiên, còn mang ý
nghĩa tượng trưng cho những thay đổi, biến đổi, những khó khăn thử thách trong
cuộc đời. Hình ảnh “hàng cây đứng tuổi" là một ẩn dụ nói về lớp người đã từng
trải, được tôi luyện trong nhiều gian khổ, khó khăn:
Sấm
cũng bớt bất ngờ
Trên
hàng cây đứng tuổi.
Ở
đây, tác giả không dùng từ “cây” mà là “hàng cây” để ám chỉ sự khăng khít, đoàn
kết bền chặt. Đó là một thế hệ những con người đã trải qua biết bao khó khăn, vấp
ngã, thất bại của cuộc sống. Những thăng trầm ấy của cuộc đời đã tôi luyện cho
con người ta bản lĩnh vững vàng, không còn bất ngờ trước những biến đổi của thời
gian, của hoàn cảnh nữa. Chính những sự từng trải ấy đã khiến họ trở nên mạnh mẽ,
kiên cường, biết cách đối mặt với giông tố, khó khăn. Họ không còn xao động,
lung lay, trước những cơn “sấm” ồn ã mà trở nên bình ổn, vững vàng hơn. Thông
qua lời thơ, tác giả Hữu Thỉnh muốn gửi gắm một quan điểm nhân sinh sâu sắc.
Cũng giống như mùa thu yên bình và lặng lẽ, con người ta khi đã đến cái tuổi xế
chiều, khi đã trải qua những năm tháng bão giông của cuộc đời, sẽ chẳng còn những
bồng bột, nông nổi nữa. Đối mặt với những khó khăn, thử thách, ta sẽ thật bình
tĩnh và nhẹ nhàng để cảm nhận, suy ngẫm, suy tư và bước qua nó một cách bình thản
nhất.
Khổ
thơ đã gieo vào lòng người những cảm xúc lạ lẫm, bao triết lí, suy ngẫm, sâu xa
về mùa thu đời người và nỗi niềm của thi nhân- nỗi niềm của một người mới trải
qua chiến tranh nên tâm hồn yêu say đắm non sông đất nước. Trưởng thành trong
quân đội, tác giả Hữu Thỉnh ý thức sâu sắc được giá trị của sự sống, của tự do.
Được tôi luyện trải qua những khó khăn của cuộc đời, lời thơ của Hữu Thỉnh vừa
sâu sắc lại vừa tinh tế. Ông không dùng đao to búa lớn để nói về cuộc đời mà chỉ
nhẹ nhàng bộc lộ thông qua những hình ảnh thiên nhiên. Sâu xa hơn nữa, tác giả
Hữu Thỉnh muốn hướng đến tình yêu Tổ quốc thiết tha, mãnh liệt. Ông đã bày tỏ
thái độ ngợi ca, ngưỡng mộ sức mạnh dũng cảm, kiên cường, kiên trung bất khuất
và đoàn kết một lòng của dân tộc Việt Nam. Điều đó đã tồn tại trong suốt những
năm tháng chiến đấu gian khổ của nhân dân trong công cuộc bảo vệ nền độc lập, tự
do, hòa bình cho dân tộc. Và đến bây giờ, những phẩm chất quý giá ấy vẫn được kế
thừa, tiếp nối đến tận mai sau.
Thi
phẩm thành công với thể thơ năm chữ, cùng với nhiều hình ảnh đẹp, tinh tế và
giàu sức tạo hình. Bên cạnh đó, ngôn ngữ dung dị, đầy trong sáng và giàu sức biểu
đạt đã diễn tả sinh động sự biến chuyển của đất trời khi sang thu cũng như tâm
hồn nhạy cảm và tinh tế của nhà thơ Hữu Thỉnh. Bài thơ Sang thu đã đem đến cho
người đọc những dư âm sâu sắc, kéo dài và lan tỏa mãi trong tâm hồn.
Hữu
Thỉnh đã góp phần vào thơ ca Việt Nam một cách nhìn riêng, sự sáng tạo về mùa
thu, khẳng định vị trí của mình trên con đường nghệ thuật, đồng thời làm lay động
bao trái tim đọc giả, bồi đắp thêm tình yêu quê hương đất nước cho mỗi con người.
Đặc biệt, với khổ cuối bài “Sang thu”, qua những chiêm nghiệm sâu sắc, nhà thơ
đã truyền đến người đọc những rung động sâu sắc về ý nghĩa cuộc đời con người
trong bao la thời gian. Và có lẽ, dù ở độ tuổi nào, khi ngẫm lại
triết lý mà tác giả gửi gắm, ta lại có thêm niềm tin và động lực để bước tiếp
trên đường đời.
Phân tích khổ 1 Sang thu của Hữu Thỉnh
Thơ
là thu của lòng người, thu là thơ của đất trời. Mùa thu mang đến cho tâm hồn
con người những gì nhẹ nhàng và dịu êm nhất. Mùa thu là mùa đẹp nhất, mùa ban tặng
cho thi sĩ nhiều tứ thơ tình tứ nhất. Mùa của sự tĩnh lặng và những rung động
sâu sắc nhất khơi gợi nhiều những suy nghĩ tâm tư rung động của mỗi nhà văn nhà
thơ. Có biết bao áng thơ tuyệt tác viết về mùa thu, trong đó nhà thơ Hữu Thỉnh
cũng góp vào một nét “Sang thu”. Bài thơ “Sang thu” thật đẹp, thật nên thơ và
trữ tình, và tấm lòng của nhà thơ cũng thật duyên. Bài thơ đã phác họa thành
công sự chuyển mùa kỳ diệu của đất trời và của lòng người. Nhà thơ diễn đạt thật
tinh tế, sâu sắc của về sự chuyển mình của thiên nhiên, cảnh vật lúc cuối hạ đầu
thu :
Bỗng
nhận ra hương ổi
Phả
vào trong gió dịu.
Sương
chùng chình qua ngõ
Hình
như thu đã về.
“Sang
thu” là bài thơ ngũ ngôn của Hữu Thỉnh thể hiện một bút pháp nghệ thuật thanh,
nhẹ, tài hoa, diễn tả những cảm nhận, những rung động man mác, bâng khuâng của
tác giả trước vẻ đẹp và sự biến đổi kì diệu của thiên nhiên trong buổi chớm
thu. Đối tượng được cảm nhận là cảnh sắc mùa thu nơi đồng quê trên miền Bắc đất
nước ta. Thiên nhiên nơi miền quê Bắc Bộ được cảm nhận từ những
điều vô hình. Bức tranh thiên nhiên đẹp ấy đã được người thi nhân cảm nhận phác
họa một cách tinh tế và sinh động, giàu sức biểu cảm qua xúc giác, khứu giác và
thị giác.
Những
tín hiệu nhẹ nhàng khi đất trời giao mình chuyển mùa trong một không gian nên
thơ nhẹ nhàng:
Bỗng
nhận ra hương ổi
Phả
vào trong gió dịu.
Sương
chùng chình qua ngõ
Không
báo trước, chưa chuẩn bị vậy mà thu đã về! Thu đến thật bất ngờ không báo trước
và được tác giả nhận ra thông qua mùi hương quen thuộc “hương ổi”. Chao
ôi, thức quà nhà quê đã đánh thức tâm hồn nghệ sĩ trong con người ấy. Động từ “bỗng”
đặt đầu câu như một sự ngạc nhiên kỳ lạ của nhà thơ về thời khắc giao mùa đầy
xao xuyến này. Có biết bao giật mình, thảng thốt được gói gọn trong chữ “bỗng”.
Tín
hiệu đầu tiên được nhận dạng qua khứu giác- mùi hương. Hương ổi nồng nàn, hương
ổi quen thuộc, thứ quà đơn sơ giản dị mà đong đầy xúc cảm. Có lẽ thứ hương này
chưa thật dày chỉ phảng phất nơi cánh mũi nhưng đã được nhà thơ khéo léo bắt lấy.
Hương ổi không nồng nàn,nó giản đơn thuần khiết nhưng không kém phần ngọt ngào
si mê. Hương ổi dịu dàng, hương ổi len lỏi nhờ vào gió se. Thì đúng rồi,
mùa thu Hà Nội, mùa thu xứ Bắc bao giờ chả bắt đầu bằng những cơn gió se lạnh,
nó cũng êm ả như chính mùa thu vậy, chỉ kịp mơn trớn, vuốt ve làn da của con
người rồi để lại thứ cảm giác dễ chịu, khoan khoái. Những cơn gió ấy đã mang
hương ổi đi xa, theo vào từng ngóc ngách và rồi mang cả đến người nghệ sĩ ấy. Từ
“phả” diễn tả dư vị nồng nàn, đậm đà đang lan tỏa trong gió. Chính làn
gió này đã mang hương ổi đi xa hòa quyện với không gian cùng đất trời tạo nên vẻ
đẹp của bài thơ.
Khi
khứu giác được đánh thức, xúc giác và thị giác cũng đã trở nên nhạy bén hơn. Những
dấu hiệu về thu cũng trở nên thật rõ ràng, sắc nét, Thu đến mang theo hương ổi,
chút lạnh tê tê cùng với làn sương mỏng. Sương mùa thu không dày đặc bao phủ
như mùa đông mà chỉ nhẹ nhàng vương vấn, phủ lên vạn vật làn hơi mờ ảo vừa đủ để
tạo nên những mơ hồ huyền ảo. Nghệ thuật nhân hóa “chùng chình” cho thấy
bước đi của mùa thu, của làn sương chỉ là mới chớm, đó là những bước chân đầu
tiên chậm thật chậm như đang dạo chơi, khám phá. Nhưng chính bước đi chậm rãi ấy
đã truyền vào lòng người những xúc cảm bồi hồi, khó nói. Màn sương trở nên có hồn,
tinh tế đầy sinh động. Làn sương nhẹ nhàng mỏng manh e ấp như nàng thiếu nữ đôi
mươi xao xuyến trước những rung động. Sương qua ngõ chùng chình – Ngõ ở đây vừa
mang ý hiện thực là ngõ nhỏ nơi thôn xóm lại như là ẩn dụ với cửa ngõ của thời
gian đang từ từ bước qua ranh giới giữa hạ và thu.
Làng quê yêu mến dìu bước chân thi nhân đi từ
hương ổi đến gió se... Rồi khi lạc giữa làn mây sớm chùng chình thì nhà thơ
không nén nổi niềm xúc động, ông khe khẽ thì thầm:
Hình
như thu đã về.
Những
dấu hiệu của mùa thu đã trở nên thật rõ ràng xong tác giả dường như vẫn chưa
tin, vẫn còn hoài vực. Từ “hình như” diễn tả tâm trạng ngỡ ngàng băn
khoăn rất tinh tế của nhà thơ khi ngỡ ngàng nhận ra “thu đã về”. Hình như
chứ chưa chắc, có lẽ bởi con người ấy chưa kịp chuẩn bị. Cách nói thì ngờ vực
nhưng những dấu hiệu kể trên thì đã rõ ‘thu đã về”, đây là cách nói khéo léo bộc
lộ cảm xúc của tác giả, vẫn còn chút bỡ ngỡ như chưa tin, vẫn còn chút nuối tiếc
vì nhanh như vậy thu đã đến sao. Nhưng dù sao cũng không giấu được chút mong chờ,
vui sướng khi thu đã về. Khổ thơ sử dụng những từ ngữ rất giản dị được lồng
ghép với nghệ thuật nhân hóa đã khắc họa những nét đầu mùa thu thật trong trẻo,
mang nét đặc trưng của mùa thu miền Bắc. Ẩn sau những đổi thay của
thiên nhiên đất trời lúc sang thu là niềm vui, niềm hạnh phúc của thi nhân.
“Sang thu" là một tiếng lòng trang trải,
gửi gắm, báo mùa thu của quê hương đất nước; một tiếng thu nồng hậu, thiết tha.
Đoạn thơ gợi cho ta hình dung một bức tranh thiên nhiên tươi đẹp vào thời điểm
giao mùa hạ - thu ở vùng nông thôn Bắc Bộ. Những câu thơ của Hữu Thỉnh như có một
chút gì đó thâm trầm, kín đáo, rất hợp với cách nghĩ, cách nói của nguời thôn
quê. Bài thơ giúp ta cảm nhận được tình cảm thiết tha, tâm hồn tinh tế của nhà
thơ giàu lòng yêu thiên nhiên của nhà thơ.
Đoạn
thơ diễn biến theo mạch cảm xúc tự nhiên của tác giả vào lúc sang thu.Nghệ thuật
nhân hóa và ẩn dụ, cách chọn lọc từ ngữ khá tinh tế là những thành công của Hữu
Thỉnh để lại dấu ấn đẹp và sâu sắc trong “Sang thu". Cách sử dụng thể thơ
ngũ ngôn thể hiện một cách cảm, cách nghĩ, cách diễn đạt mới mẻ, hàm lắng đọng
và hồn nhiên. Hữu Thỉnh đã phác họa một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp bằng
nhiều cảm xúc tinh nhạy.
“Sang
thu” đặc biệt dịu dàng tinh tế, nó diễn tả những biến đổi tinh vi của đất trời
và lòng người trong thời khắc giao mùa được chờ đợi rất nhiều trong năm: từ hạ
chuyển sang thu. “Sang thu” là một áng thơ thu duyên dáng và tài tình trong thi
đề mùa thu quen thuộc của văn học Việt Nam. Đọc thơ Hữu Thỉnh ta càng cảm thấy
yêu quê hương đất nước hơn, càng cảm thấy mình cần phải ra sức góp phần xây dựng
quê hương ngày càng giàu đẹp.
Thứ Năm, 8 tháng 4, 2021
Phân tích khổ 2 bài thơ Sang thu
Phân tích
khổ 2 bài thơ Sang thu
Cuối hạ, thu đến
mang theo những cảm xúc bất chợt để lại trong lòng ai những bồi hồi, xao xuyến
về một mùa thu nồng nàn, êm ái. Ngày hạ đi để nhường chỗ cho nàng thu dịu dàng
bước tới, sự chuyển mình giữa hai mùa thật nhẹ nhàng và ngập ngừng như lưu luyến,
vấn vương một cái gì đó của thời đã qua. Khoảnh khắc ấy thật đẹp, nhưng không
phải ai cũng dễ dàng nhận thấy. Riêng nhà thơ Hữu Thỉnh thì khác, ông đã có một
cái nhìn thật tinh tường, một cảm nhận thật sắc nét và một cách sống hòa hợp với
thiên nhiên nên mới có thể vẽ lại bức tranh in dấu sự chuyển mình của đất trời
qua bài thơ “Sang Thu”. Khổ 2 bài thơ “Sang thu” thể hiện sâu sắc tình cảm nhẹ
nhàng mà tinh tế của nhà thơ trước thiên nhiên và cuộc đời:
Sông được
lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu
vội vã
Có đám mây
mùa hạ
Vắt nửa mình
sang thu.
Khoảnh khắc
giao mùa chắc là khoảnh khắc đẹp đã nhất của tự nhiên, nó gieo vào trong lòng
người những rung động nhẹ nhàng khiến ta như giao hoà, đồng điệu. Bài thơ “Sang
Thu” của Hữu Thỉnh đã thể hiện những rung cảm tinh tế của nhà thơ trước những
biến đổi của thiên nhiên ở thời khắc giao mùa từ hạ sang thu. Mùa thu đã về. Mùa
thu mang theo hương quê và mang theo sương mờ ướt lạnh.Thu về? Từ hương ổi hay
từ gió, hay từ sương? Hữu Thỉnh cũng hơi ngỡ ngàng trước thoáng đi bất chợt của
mùa thu. Bằng chính tài quan sát của mình, Hữu Thỉnh đã khắc hoạ thành công những
bước đi nhỏ bé nhẹ nhàng, mong manh nhỏ nhẹ của mùa thu. Thu đến nhẹ nhàng quá,
mơ hồ nhưng khiến ta cảm nhận được tâm hồn nhạy cảm của một hồn thơ mang nặng
tình yêu với thiên nhiên và cuộc sống.
Sau phút giao
mùa nhẹ nhàng, những dấu hiệu bắt đầu mùa thu đã trở nên rõ ràng hơn, nhanh
hơn. Tác giả cảm nhận mùa thu bằng cả tâm hồn của mình. Thu về, thu lại về trên
quê hương, trên những con đường, bờ đê và trên cả những con sông, cánh chim trời.
Sông được
lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu
vội vã.
Cảm xúc thu
sang của tác giả lan tỏa trong không gian rộng hơn, nhiều cung bậc cảm xúc hơn.
Từ không gian nhỏ bé như con ngõ nhỏ đã lan tỏa ra tới bầu trời, một không gian
bao la rộng lớn không gì có thể đo đếm được. Bằng nghệ thuật nhân hoá, tác giả
đã tạo dựng nên linh hồn cho cảnh vật. Với từ “được lúc” dòng sông như
được dịp đươc thời, như đang lắng lại, trầm xuống, lững lờ suy tư.Dòng sông êm
đềm, nhẹ nhàng trôi sau những cơn mưa mùa hạ như trút nước. Tiết trời sang thu
đã khiến cho dòng sông trở nên nhẹ nhàng và lắng lại. Nó lại “dềnh dàng”,
chậm chạp, khoan thai chảy trong không gian bức tranh tuyệt đẹp của mùa thu.
Dòng sông cũng dùng dằng và ngập ngừng níu kéo nhịp thở của mùa hạ. Sông giống
như tâm trạng của con người, dường như đang sống “chậm” lại, ngẫm nghĩ, chiêm
nghiệm về cuộc đời.
Trái ngược với
“dềnh dàng” của dòng sông, những cánh chim di trú lại bắt đầu ‘vội vã”
đầy lo lắng trước khoảnh khắc giao mùa. Hẳn là đàn chim đã bắt đầu cảm nhận được
chút se lạnh của tiết trời. Tác giả rất tinh tế khi sử dụng từ “bắt đầu”
chứ không phải là đang vội vã, bởi thu mới chạm ngõ bằng hơi sương lạnh lẽo,
còn đủ thời gian cho những cánh chim làm tổ, tha mồi, chuẩn bị đón một mùa đông
lạnh lẽo kéo dài. Với nghệ thuật tương phản đặc sắc, Hữu Thỉnh đã gợi lên bức
tranh thu đầy sinh động: nhẹ nhàng, lãng mạn nhưng không kém phần hối hả, vội
vã. Phải có tình yêu thiên nhiên và những cảm nhận sâu sắc, nhà thơ mới thấy được
những biến chuyển của vạn vật trong khúc giao mùa như vậy.Thông qua bức tranh ấy,
ông muốn gợi lên sự chuyển mình của đất nước ta. Một đất nước vừa trải qua mưa
bom lửa đạn, giành được độc lập và đang bắt đầu xây dựng đất nước trong không
khí vui tươi, rộn ràng.
Với động từ “vắt”,
bầu trời lúc giao mùa bỗng trong cảm nhận của thi sĩ trở nên đặc biệt hơn:
Có đám mây
mùa hạ
Vắt nửa mình
sang thu.
Hành động được
nhân hóa này mang ý diễn tả sự vận động của thời gian. Không gian thơ cũng như
trở nên rộng mở hơn, bao la hơn với hình ảnh đầy chất tạo hình này. Đám mây bé
nhỏ dường như trải dài hơn, trôi lững lờ trong bầu trời xanh ngắt, cao rộng. Dường
như nó vẫn còn vương vấn ánh nắng ấm áp của mùa hạ nên chỉ “vắt nửa mình
sang thu”. Nó đã tạo nên một lằn ranh giới mỏng manh, hư ảo. Có lẽ, thực tế
sẽ không thể nào có áng mây bé nhỏ nào như thế. Đó chỉ là sự liên tưởng đầy thú
vị của thi sĩ. Tất cả góp phần tạo nên một thời khắc giao mùa đầy chất thơ,
tinh tế và nhạy cảm, độc đáo nhưng bâng khuâng trong không gian êm dịu của mùa
thu. Dòng sông, đám mây, cánh chim đều được nhân hoá rõ nét khiến cho bức tranh
thu hữu tình của Hữu Thỉnh trở nên thi vị hơn. Qua đó, ta cảm nhận được một tâm
hồn nhạy cảm, yêu thiên nhiên tha thiết và trí tưởng tượng bay bổng độc đáo của
nhà thơ.
Với thể thơ năm
chữ giàu nhịp điệu kết hợp với hình ảnh nhân hóa đặc sắc, Hữu Thỉnh đã đem đến
cho thơ ca một mùa thu thật đẹp, thật mộc mạc giản dị. Đọc đoạn thơ, ta cảm nhận
được cảnh vật như trở nên vừa hư vừa thực, rất nên thơ và giàu sức tưởng tượng
độc đáo. Nhà thơ Hữu Thỉnh hẳn phải là người có tâm hồn tinh tế cùng với tình
yêu tha thiết với thiên nhiên và đất nước mới có thể sáng tạo nên những vần thơ
đặc sắc này. Ngòi bút tài năng này đã khiến chúng ta không thể không cảm phục.
Sang thu là một
tiếng lòng trang trải, gửi gắm bao tình yêu mùa thu của quê hương đất nước; một
tiếng thu nồng hậu, thiết tha. Gấp trang sách lại, mùa thu của Hữu Thỉnh vẫn
còn quẩn quanh đâu đây trong trí óc của mỗi chúng ta. Chúng ta hãy lắng lòng để
hướng tới thiên nhiên, hướng tới quê nhà.
Thứ Năm, 11 tháng 6, 2020
DÀN Ý PHÂN TÍCH BÀI THƠ SANG THU CỦA HỮU THỈNH
DÀN Ý PHÂN TÍCH BÀI THƠ SANG THU CỦA HỮU THỈNH
A.
Mở bài
- Hữu Thỉnh là một nhà
thơ viết nhiều và viết rất hay về con người, cuộc sống nông thôn- một giọng thơ
mộc mạc nhưng vô cùng tinh tế
- Bài thơ “Sang thu” miêu
tả tinh tế những chuyển biến nhẹ nhàng của đất trời từ hạ sang thu, không chỉ
có hình ảnh thiên nhiên mà còn có bóng dáng con người trước mùa thu của cuộc đời.
(Mùa thu là mùa chắp cánh
cho tâm hồn thi nhân. Trong văn học Việt Nam có rất nhiều tác giả viết về mùa
thu và cũng có nhiều bài thơ hay. “Sang thu” của Hữu Thỉnh vẫn có một vị trí đặc
biệt vì đây là khúc giao mùa sang thu. Một mùa thu đang vận động hiện lên qua cảm
nhận hết sức tinh tế của tác giả.)
B.
Thân bài
1.
Khái quát
Mùa thu trong Hữu Thỉnh
là đáng nhớ, ấn tượng với những chuyển biến tinh tế từ cuối hạ sang đầu thu.
Chính việc lựa chọn thời điểm độc đáo ấy đã khiến cho người đọc cảm nhận rõ
ràng sự vận động, luân chuyển của thời gian, không gian tạo vật.
(Bài thơ được sáng tác
vào gần cuối năm 1977. “Sang thu” đúng như tên gọi của nó là khúc ca về phút
giây giao mùa, về những bước chuyển mình đầy tinh tế của nàng thu. Bài thơ thể
hiện những cảm nhận tinh tế của nhà thơ về sự biến đổi của đất trời từ cuối hạ
sang đầu thu. Qua đó bộc lộ tình yêu thiên nhiên tha thiết, tâm hồn nhạy cảm,
sâu sắc của nhà thơ.)
2.
Phân tích
a.
Khổ 1: Cảm nhận về thiên nhiên lúc giao mùa, tín hiệu báo
thu về
- Bỗng nhận ra: sự phát hiện đầy lí thú và ngạc nhiên của tác giả trước
những sự biến đổi của thiên nhiên đất trời đi vào thu. Có biết bao giật mình,
thảng thốt được gói gọn trong chữ “bỗng”. Không báo trước, chưa chuẩn bị
vậy mà thu đã về! Thu đến thật bất ngờ.
- Thiên nhiên cảm nhận từ
những gì vô hình: Hương ổi, gió se, sương
chùng chình qua ngõ
+
“hương ổi”: hương thơm bình dị của làng quê Bắc Bộ mà bất cứ ai
cũng đã từng cảm nhận mỗi dịp chớm thu. Chao ôi, thức quà nhà quê đã đánh thức
tâm hồn nghệ sĩ trong con người ấy. Có lẽ thứ hương này chưa
thật dày chỉ phảng phất nơi cánh mũi nhưng đã được nhà thơ khéo léo bắt lấy.
+ “gió se”: gió heo may, khiến làn da cảm nhận được hơi lạnh và khô.
Mùa
thu Hà Nội, mùa thu xứ Bắc bao giờ chả bắt đầu bằng những cơn gió se lạnh, nó
cũng êm ả như chính mùa thu vậy, chỉ kịp mơn trớn, vuốt ve làn da của con người
rồi để lại thứ cảm giác dễ chịu, khoan khoái.
+ “phả”: gợi sự sánh, hòa quyện, huơng thu hòa trong làn gió se trải
đều khắp các ngõ ngách làng quê.
+ Nhân hóa “sương chùng chình” + từ láy gợi hình “chùng chình” tả làn sương mỏng nhẹ bắt
đầu xuất hiện, có lẽ làn sương cũng như cố chậm lại có vẻ đợi chờ ai. Sương chỉ nhẹ nhàng vương vấn, phủ lên vạn vật
làn hơi mờ ảo vừa đủ để tạo nên những mơ hồ huyền ảo.
- Hình như thu đã về – tác giả chưa thể khẳng định chắc chắn rằng thu
đã về mà chỉ là một sự phỏng đoán, xen lẫn trong đó chút mơ hồ hoài nghi.
+ “hình như” là sự phỏng đoán nửa tin, nửa ngờ, là cái ngỡ ngàng, ngạc
nhiên trong cái cảm xúc bâng khuâng, xao xuyến. Cách nói thì ngờ vực
nhưng những dấu hiệu kể trên thì đã rõ ‘thu đã về”.
⇒ Tâm
hồn nhà thơ nhạy cảm, yêu thiên nhiên, yêu hương thu với tình yêu tha thiết khắc
họa những nét đầu mùa thu thật trong trẻo, mang nét đặc trưng của mùa thu miền
Bắc.
b.
Khổ 2: Quang cảnh đất trời vào thu. Vượt qua con ngõ nhỏ,
không gian được mở rộng cả về chiều cao lẫn chiều sâu.
- Không gian đất trời vào
thu bằng những dấu hiệu và hình ảnh: “sông
dềnh dàng”, “chim vội vã”
+
nhân
hóa “sông” - “dềnh dàng” diễn tả sự
thay đổi của dòng sông, lững thững
trôi đi, nhẹ nhàng, chậm rãi,
+ nhân hóa “chim”- “vội vã” diễn tả những cánh chim
mải miết, bay đi tìm nơi tránh rét cho mình.
+ Sự đối giữa hình ảnh
thơ nhắc đến một quy luật của mùa thu, đã
góp phần tạo nên khoảng không gian rộng lớn cho bức tranh thu.
=> Sự
vội vã của đàn chim đối lập với dáng vẻ “dềnh dàng” của dòng nước
khiến bức tranh thêm sống động, có hồn.
- Hình ảnh đám mây mùa hạ “vắt nửa mình sang thu” diễn tả tinh tế bước chuyển của nhịp thời
gian, là cầu nối giữa hai bờ hạ – thu, tạo nên nét đặc biệt riêng của khoảng thời
gian giao mùa.
+ Chớm thu, đám mây cũng đã
bắt đầu rục rịch, nó không còn là đám mây đầy màu sắc, hoài bão của mùa hạ nữa
mà “vắt nửa mình” sang thu.
+ Những cảm giác rất mong
manh, mơ hồ nhưng thông qua cách nói của tác giả, ta như thấy vạn vật chia đôi,
ranh giới ấy trở nên rõ ràng hiện hữu.
+ nhân hóa “vắt nửa mình sang thu”: Gợi hình ảnh một
làn mây mỏng, nhẹ, kéo dài của mùa hạ còn sót lại như lưu luyến.
⇒ không
gian và thời gian chuyển mùa thật là đẹp.
c.
Khổ 3: Những biến chuyển âm thầm của tạo vật và suy ngẫm về
cuộc đời người lúc chớm thu.
- Cái nắng, cơn mưa, tiếng sấm của mùa hè vẫn còn đọng lại đó trong
khoảnh khắc giao mùa nhưng đã phai đi, đã nhạt đi.
+ sử dụng hàng loạt phó từ
chỉ mức độ “vẫn còn”, “vơi dần”, “cũng bớt”
tác giả đã cho chúng ta cảm nhận thấy sự thay đổi ấy của cảnh vật.
=> Mùa
hạ đã dần nhạt phai nhưng chúng vẫn còn hiện hữu. Thu
đang vào mùa.
- Hai dòng cuối bài có
hai tầng ý nghĩa:
+ Ý nghĩa tả thực: hình
tượng sấm thường xuất hiện bất ngờ đi liền với những cơn mưa rào chỉ có ở mùa hạ.
+ Ý nghĩa ẩn dụ: “sấm” chỉ những khó khăn, sóng gió mà mỗi
người vẫn thường gặp phải trên đường đời,
“hàng cây đứng tuổi” là hình ảnh ẩn dụ cho những con người từng trải.
=> những con người từng
trải, từng đi qua nhiều khó khăn, vấp ngã sẽ luôn đứng vững và kiên định hơn
trước những sóng gió của cuộc đời.
3.
Đánh giá:
- Với thể thơ năm chữ
linh hoạt cùng với việc sử dụng từ ngữ, hình ảnh thơ độc đáo đã giúp chúng ta
có những cảm nhận tinh tế, sâu sắc về sự thay đổi của thiên nhiên, cảnh vật, đất
trời trong khoảnh khắc giao mùa.
- Đồng thời, bài thơ cũng
cho chúng ta thấy những chiêm nghiệm sâu sắc và đầy ý nghĩa của tác giả về cuộc
đời.
(“Sang thu” cái tên mang
đầy hồi ức, đong đầy sức gợi, nó để lại trong lòng người chút dư vị nhẹ nhàng,
khoan khoái nhưng rất thâm trầm sâu xa. Bài thơ ngắn gọn, ngôn ngữ giản dị, kết
hợp với các biện pháp nhân hóa, ẩn dụ; tác giả đã góp vào chum thơ thu một bức
tranh rất giản dị, đời thường nhưng đậm dấu ấn xúc cảm, mang nét riêng của tác
giả.)
C.
Kết bài
- Miêu tả mùa thu bằng những
bước chuyển mình của vạn vật, Hữu Thỉnh đã góp thêm một cách nhìn riêng, một lối
miêu tả riêng cho mùa thu thi ca thêm phong phú.
- “Sang thu” của Hữu Thỉnh
đã không chỉ mang đến cho người đọc những cảm nhận mới về mùa thu quê hương mà
còn làm sâu sắc hơn tình cảm quê hương trong trái tim mọi người.
(Hữu Thỉnh đã dâng tặng cho đời khúc sang thu nhẹ nhàng mà
sâu lắng làm phong phú tâm hồn.Bài thơ bé nhỏ xinh xắn nhưng chứa nhiều điều
thú vị, bởi vì mỗi chữ, mỗi dòng là một phát hiện mới mẻ. Sang thu đã đánh thức
trong lòng người đọc tình yêu thiên nhiên, đất trời, quê hương. Có lẽ vì thế, sau bao nhiêu năm,
“Sang thu” vẫn là hòn ngọc quý trong kho tàng văn học Việt Nam.)