Cảm xúc về mùa
từ lâu vẫn luôn được con người thể hiện ở nhiều lĩnh vực như hội họa, âm nhạc
và cả trong những áng văn, thi phẩm. Trong dòng cảm xúc chung không ngừng chảy
trôi ấy, Hữu Thỉnh đã chọn cho mình khoảnh khắc giao mùa “sang thu” đầy ấn tượng
để viết nên tác phẩm cùng tên. Bài thơ “Sang thu” như một khúc nhạc du dương của
đất trời trong hơi thở nhẹ nhàng của mùa thu đang đến. Vẻ đẹp mùa thu với chút
lưu luyến, bâng khuâng nhưng đầy nhựa sống được tô vẽ qua từng ý thơ nhẹ nhàng, đời thường nhưng rất đỗi tinh tế trong
hai khổ đầu:
Bỗng nhận
ra hương ổi
Phả vào
trong gió se
Sương chùng
chình qua ngõ
Hình như
thu đã về.
Sông được
lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu
vội vã
Có đám mây
mùa hạ
Vắt nửa
mình sang thu.
Mùa thu - mùa
sắc vàng lá đổ, mùa nồng nàn hương hoa sữa, mùa của những xúc cảm tuyệt vời.
Nhiều người từng ví mùa thu tựa như một cô gái thanh thuần, trong trẻo. Vẻ đẹp ấy
thật riêng, không một mùa nào trong năm có thể so bì được. Nhưng có lẽ, ít ai cảm
thức được vẻ đẹp còn ngất ngây hơn ở thời khắc giao mùa, khi đất trời chào tạm
biệt mùa hạ, chuyển mình qua thu. Nhưng với Sang thu- Hữu Thỉnh như đắm chìm
trong hương sắc giao thời. Thi phẩm dường như đã vỗ vào xúc cảm của xúc cảm của
độc giả thật nhẹ nhàng.
Thiên nhiên mùa
thú nơi miền quê Bắc Bộ được cảm nhận từ những điều vô hình. Bức tranh thiên
nhiên đẹp ấy đã được người thi nhân cảm nhận phác họa một cách tinh tế và sinh
động, giàu sức biểu cảm qua xúc giác, khứu giác và thị giác. Bước đi của mùa
thu được tác giả bắt nhịp bằng những giác quan tinh nhạy của minhf. Những tín
hiệu nhẹ nhàng khi đất trời giao mình chuyển mùa trong một không gian nên thơ
nhẹ nhàng:
Bỗng nhận
ra hương ổi
Phả vào
trong gió se
Sương chùng
chình qua ngõ
Hình như
thu đã về.
Trong cái chớm
se lạnh của cơn gió mùa thu mà nhà thơ cảm nhận bằng xúc giác, khứu giác đã
giúp ông cảm nhận được mùi hương đặc trưng của ổi – một thứ quà bình dị của
thôn quê: hương ổi. Hương vị ấy đã “phả” ra rồi cứ thế nương dựa
vào gió mà lan tỏa khắp cả không gian xung quanh mà trong không gian có cả sự
hiện hữu của một tâm hồn rung cảm như Hữu Thỉnh. Hương ổi “phả” vào
trong không gian bao la rộng lớn nhưng là một sự phảng phất dịu dàng, từ tốn chứ
không hề vội vã, ồ ạt. Cứ như thế mà hương vị ấy lại thấm thật sâu, thật kĩ vào
vạn vật và đến một thời điểm nào đó đã khiến con người rung động. Từ “phả”
diễn tả dư vị nồng nàn, đậm đà đang lan tỏa trong gió. Chính làn gió se điển
hình của tiết trời miền Bắc khi chuyển mùa đã mang hương ổi đi xa hòa quyện với
không gian cùng đất trời. “Hương ổi” trong cảm nhận của tác giả là một sự
bắt gặp tình cờ không báo trước. Thể hiện điều này, nhà thơ đã khéo léo sử dụng
từ “bỗng”. Việc nhà thơ “nhận ra” hương vị diệu kì của loại trái
cây đồng nội dường như không có sự chuẩn bị trước, cũng không phải là sự nỗ lực
cố gắng để kiếm tìm và phát hiện ra. Có lẽ trong nhà thơ trong khoảnh khắc “nhận
ra” ấy là một cảm giác thân quen, gần gũi, ngửi thấy hương ổi mà cứ như là
được gặp lại cố nhân.
Cùng với “hương
ổi”, “gió se”, cả sương khói mùa thu cũng hòa nhịp vào cuộc vận hành “sang
thu”:
Hình như
thu đã về.
Màn sương được
nhân hóa trở nên có hồn, tinh tế đầy sinh động. Động từ “chùng chình” gợi
tả làn sương nhẹ nhàng mỏng manh e ấp như nàng thiếu nữ đôi mươi xao xuyến trước
những rung động. Hai tiếng “chùng chình” trong câu thơ trên đã diễn tả
được tư thế nấn ná, chần chừ của làn sương khi di chuyển trong không gian của
xóm làng. Sương qua ngõ chùng chình – Ngõ ở đây vừa mang ý hiện thực là ngõ nhỏ
nơi thôn xóm lại như là ẩn dụ với cửa ngõ của thời gian đang từ từ bước qua
ranh giới giữa hạ và thu.Tất cả những hình ảnh của thiên nhiên tạo vật như bắt
cầu cho sự xuất hiện của bóng dáng mùa thu. Mùa thu tuy được xác nhận tưởng như
mơ hồ với từ “hình như”. Nhưng thật ra, nó cũng đã ngầm khẳng định cho
việc thu đã có những bước đi đầu tiên mà không còn nghi ngờ gì nữa. Giờ đây
trong mỗi phút giây đã có sự chuyển đổi, thay cho cảm giác nóng nực của mùa hè
là sự khoan khoái dễ chịu của ngày thu. Lời reo vui:"Hình như thu đã về"
cũng thì thầm nhỏ nhẹ, bâng khuâng vang
lên trong lòng Hữu Thỉnh như bước đi của mùa thu. Bằng tất cả các giác quan: khứu
giác, xúc giác và thị giác, nhà thơ cảm nhận những nét đặc trưng của mùa thu đều
hiện diện. Có “hương ổi”, “gió se” và “sương”. Mùa thu đã về trên quê hương. Thu
đến nhẹ nhàng quá, mơ hồ quá.
Thu sang với
những hình ảnh quen thuộc tiếp tục được nhà thơ phát hiện trong những dòng thơ
tiếp theo. Nếu như ở khổ đầu không gian bị bó hẹp, thì đến đây không gian đã rộng
mở hơn, từ tầm cao cũng như tầm xa:
Sông được
lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu
vội vã
Có đám mây
mùa hạ
Vắt nửa
mình sang thu
Các hình ảnh của
thiên nhiên trong thời điểm này là dấu hiệu khó có thể chối bỏ nó thuộc sở hữu
của mùa thu.Các từ láy “dềnh dàng” “vội vã” đã phần nào thể hiện sinh động
nhịp thở của đất trời khi sang thu. Mùa thu đến cũng là lúc mùa lũ đã thôi làm
khó làm dễ cuộc sống của muôn người, muôn vật. Vậy nên dòng sông trong ở thời
điểm này cũng trở nên hiền hòa, dễ chịu mà “dềnh dàng” trong nhịp chảy của
chính mình. Dòng sông cũng dùng dằng và ngập ngừng níu kéo nhịp thở của mùa hạ.
Ngược lại với sự dềnh dàng từ từ của dòng sông lại là sự vội vã của những cánh
chim trời. Hẳn là đàn chim đã bắt đầu cảm nhận được chút se lạnh của tiết trời.
Phải chăng để chuẩn bị cho những ngày đông sắp tới mà trong mùa thu bản lề này,
“chim bắt đầu vội vã” để làm tổ và dự trữ thức ăn. Tất cả những sự hiện
hữu của thiên nhiên ở thời điểm này đã khẳng định cho sự xuất hiện của khung cảnh
mùa thu. Nghệ thuật đăng đối vô cùng điêu luyện của tác giả đã giúp cho hình ảnh
thơ trở nên giàu chất tạo hình, đẹp hơn và thơ mộng hơn.
Thế nhưng, khi
sắc thu, hương thu và cảnh thu đang làm chủ vũ trụ thì đất trời dường như vẫn
còn vấn vương mùa hạ mến thương để dành chỗ cho “đám mây mùa hạ”. Ấy thế
mà, dù có vấn vương đến ra sao, tiếc nuối đến nhường nào, mây hạ vẫn không thể
níu kéo mùa hạ mãi hoài nên vì vậy, nó đành “vắt nửa mình sang thu”.
Trong cái “vắt mình” ấy có thoáng tiếc nuối, buồn bã nhưng cũng chứa đựng
sự phấn khởi, hân hoan của một tâm thế đón chào cái mới mẻ, bình yên. Hành động
được nhân hóa này mang ý diễn tả sự vận động của thời gian. Không gian thơ cũng
như trở nên rộng mở hơn, bao la hơn với hình ảnh đầy chất tạo hình này. Phút
giao mùa thật nhẹ nhàng biết bao!
Không chỉ đến
khổ thơ này, tác giả mới sử dụng những từ ngữ ẩn chứa tâm ý của con người như “dềnh
dàng”, “chùng chình”, “vắt mình”. Mà ngay từ khổ thơ đầu tiên qua các từ ngữ
“chùng chình”, “phả”, nhà thơ như cũng muốn thể hiện bóng dáng của con
người trong hoàn cảnh tạo vật thay đổi trạng thái, bước vào thời điểm giao mùa.
Có vẻ như, cùng với thiên nhiên, tâm trạng con người cũng không nằm ngoài sự vận
động về trạng thái hiện hữu. Cũng vì thế mà theo dòng cảm xúc hòa cùng thiên
nhiên giao mùa.
Hữu Thỉnh mang đến bức tranh thiên nhiên cái dân dã, mộc
mạc, đẩy rung cảm và thân quen của một tầm hổn nhạy cảm, một trái tim tha thiết
yêu thiên nhiên thì Thanh Hải cho ta cảm nhận cái rộn ràng, say mê trong niềm cảm
hứng bất tận với cảnh sắc quê hương:
Mọc giữa
dòng sông xanh
Một bông
hoa tím biếc
Ơi con chim
chiền chiện
Hót chi mà
vang trời
Từng giọt
long lanh rơi
Tôi đưa tay
tôi hứng.
Mùa xuân – mùa
khởi đầu cho một năm mới trong vũ trụ tuần hoàn. Trong bức tranh Mùa xuân nho
nhỏ, nhà thơ Thanh Hải đã mang đến cho mọi
người một cảm nhận về bức tranh xuân với đầy đủ sắc, thanh tươi mới và tràn đầy
hứng khởi. Là dòng sông trải rộng như tấm gương khổng lồ phản chiếu sắc xanh từ
bầu trời cao rộng, là màu tím của lục bình đang nhẹ nhàng trôi trên dòng nước,
đâu đó là sắc xanh non mới trổ của cành lộc trên lưng người chiến sĩ ra trận
hay những nương mạ đang bừng tỉnh vươn cao những trồi lá. Một bức tranh với những
gam màu sáng, làm sống dậy một không khí vui tươi trong những ngày đất nước vào
xuân. Trong không gian cao rộng, thoáng đãng ấy là tiếng chim báo hiệu xuân về,
một thanh âm trong trẻo, vang rộn khắp đất trời. Và trong khoảnh khắc tuyệt đẹp
ấy, tác đã đã hòa mình cùng thiên nhiên, đưa bàn tay để đón lấy “giọt long
lanh” của đất trời. Đó có thể là giọt sương lấp lánh sớm mai hay giọt nắng xuân
khẽ rơi bên thầm, nhưng theo mạch cảm xúc bài thơ có thể hiểu là giọt âm thanh
đổ hồi của con chim chiền chiện. Hình ảnh có tính chất tượng trưng “tôi đưa tay
tôi hứng” là thái độ yêu thương, trân trọng của nhà thơ trước vả đẹp của đất trời.
Nghệ thuật ví ngầm, chuyển đổi cảm giác quả đã đạt tới mức tinh tế đáng khâm phục.
Chắc hẳn trong lòng thi sĩ đang dạt dào tình yêu quê hương, đất nước, tình yêu
cuộc đời. Có thể nói, bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” đã vẽ nên một bức tranh thiên
nhiên tươi đẹp và tràn đầy sức sống.
Với cách biểu
đạt nhẹ nhàng, tinh tế hai bài thơ đã thể hiện cái đẹp nồng thắn, mê say của cảnh
sắc thiện nhiên đất trời. Mỗi nhà thơ có cảm nhận riêng về cảnh sắc thiên
nhiên, những chiêm nghiệm, những suy nghĩ về cuộc đời, về con người, tình người
trong cuộc sống nhưng thật cảm động và kính phục biết bao khi đọc những vần thơ
đầy xúc động với hình ảnh thiên nhiên gợi lên thật đẹp. Ở đó, thiên nhiên vừa
tươi đẹp, tràn trào sức sống vừa chứa đựng tâm tư, suy nghiệm của con người về
cuộc đời , về lẽ sống. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, con người cũng luôn tìm kiếm
một tiếng nói chung với thiên nhiên để tìm kiếm một sự hợp nhất viên mãn nhất.
Đó là niềm vui, là hạnh phúc, là lối sống đẹp mà con người luôn hướng tới. Cùng
với một tầm hổn nhạy cảm, một trái tim tha thiết yêu thiên nhiên trải ra trên từng
nét chữ, Thanh Hải và Hữu Thỉnh đã tặng cho người đọc cái rộn ràng của sắc xuân
cùng với một chút lắng đọng thật êm khi thu đến. Dẫu hai ngòi bút nghệ thuật khắc
họa hai đường nét đặc sắc khác nhau nhưng đâu đó ta vẫn thấy ngân vang lên yêu
thiên nhiên nồng nàn say đắm, tầm hổn thi sĩ luôn lạc quan và say sưa trong niềm
cảm hứng bất tận với cảnh sắc quê hương.
Hai bài thơ Mùa
xuân nho nhỏ, Sang thu cùng với hai hồn thơ – Thanh Hải, Hữu Thỉnh – để lại
trong lòng bao thế hệ bạn đọc những cảm xúc sâu lắng, khó phai mờ và vẫn sẽ tiếp
tục trường tồn cùng với những bước đi lên của đất nước, gợi nhắc cho những thế
hệ trẻ tình yêu quê hương đất nước, niềm khát khao được sống, được cống hiến
cho đất nước, cho dù đó là những cống hiến giản dị, nhỏ bé nhưng đầy ý nghĩa.