Đề. Sống đâu chỉ là
miệt mài bước đi để rồi bỏ quên những điều xưa cũ nhưng ẩn chứa vô vàn ý nghĩa.
Văn chương lắng đọng và khơi gợi tâm hồn ta kí ức một thời. Em hãy viết bài văn
làm rõ kỉ niệm lần đầu nhà thơ Viễn Phương ra thăm Bác đầy cảm xúc kính yêu
biết ơn nghẹn ngào qua đoạn thơ:
Con ở miền
Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy
trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre
xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa
sa, đứng thẳng hàng.
Ngày ngày mặt
trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt
trời trong lăng rất đỏ
Ngày ngày
dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng
hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân...
(Viếng lăng
Bác- Viễn Phương)
Sau đó, liên hệ
với một tác phẩm khác hay thực tế cuộc sống để làm nổi bật giá trị của kỉ niệm,
lối sống ân nghĩa thủy chung.
Bài làm
"Mỗi
khi lòng ta xao xuyến rung rinh
Môi ta thầm
kêu Bác: Hồ Chí Minh!" ( Sáng tháng năm - Tố Hữu )
Bác Hồ - tiếng
gọi trìu mến trên môi mọi người, tiếng gọi thân thương đã hoà vào dòng máu của
những người con đất Việt. Người là nguồn cảm hứng bất tận trong làng văn học nước
nhà, "tên Người là cả một niềm thơ". Mỗi thi phẩm viết về Bác tựa như
một ô cửa mở ra cảm xúc dạt dào, lòng kính yêu cùng niềm rung động khôn nguôi.
Bài thơ Viếng lăng Bác là một nén hương thơm mà Viễn Phương dâng lên
Bác Hồ kính yêu. Nhà thơ đã chấp bút viết nên một "Viếng lăng Bác" với
hết thảy những tình cảm kính trọng, yêu quý và niềm thương nhớ dành cho người
cha già của dân tộc. Ta có thể cảm nhận rõ ràng được tấm lòng thành kính và biết
ơn vô hạn của nhà thơ cũng như đồng bào miền Nam đối với vị lãnh tụ vĩ đại, người
cha già kính yêu của dân tộc trong cấc câu
thơ sau:
Con ở miền
Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy
trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre
xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa
sa, đứng thẳng hàng.
Ngày ngày mặt
trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt
trời trong lăng rất đỏ
Ngày ngày
dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng
hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân...
Bác Hồ là người
có công rất lớn đối với đất nước và con người Việt Nam. Sự ra đi của Bác để lại
niềm tiếc thương chung cho toàn nhân loại. Bao năm trời kể từ lúc Bác ra đi, đồng
bào ta vẫn luôn nhớ về Bác với những tình cảm chân thành nhất. Để bày tỏ tình
yêu thương với người, nhà thơ Viễn Phương đã sáng tác bài thơ Viếng lăng Bác
nhân chuyến ra Hà Nội thăm lăng của Người. Cả bài thơ chứa đựng bao nỗi niềm
đau xót, sự xúc cảm chân thành dành cho vị Cha già của dân tộc của một người
con nơi phương xa được trở về thăm.
Mang theo lòng
tiếc thương vô hạn của cả dân tộc đối với Bác, nhà thơ đang thực hiện cuộc hành
hương của mình sau bao năm chờ đợi được trở về bên người cha già kính yêu:
Con ở miền
Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy
trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre
xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa
sa, đứng thẳng hàng.
Nhà thơ đã khéo
léo giới thiệu được vị trí không gian quãng đường từ miền Nam xa xôi ra viếng
lăng Bác:
Con ở miền
Nam ra thăm lăng Bác
Tiếng “con” cất
lên thật gần gũi, thân thương. Đó là cách xưng hô rất mật thiết của người dân
Nam Bộ, đã bộc lộ sâu sắc lòng ngậm ngùi thương nhớ của nhà thơ của đồng bào miền
Nam đối với Bác. Tình cảm giữa miền Nam và Bác Hồ luôn luôn là tình cảm ruột thịt
“Bác nhớ miền Nam nỗi nhớ nhà” (Tố Hữu) và tình cảm của miền Nam đối với
Bác cũng là tình cảm nhớ mong da diết “Miền Nam mong Bác nỗi mong cha”
(Tố Hữu). Tự đáy lòng của người con đến thăm cha, Viễn Phương nói với Bác: Con
ở miền Nam…. Câu thơ giản dị nhưng bao hàm một ý nghĩa lớn. Trong tim Bác
và trong tim miền Bắc, Miền Nam luôn luôn là nỗi đau chia cắt, nỗi nhớ thương,
là niềm tự hào, là biểu tượng anh hùng, bất khuất, dũng cảm, kiên cường, là
thành đồng Tổ Quốc… Giờ đây con mang theo cả niềm tự hào đó của đồng bào miền
Nam đến với Bác nói rằng “Con ở miền Nam” – nơi vừa được giải phóng, vừa giành
thắng lợi vẻ vang – đến đây để nói với cha rằng: “Con cảm ơn cha”. Hơn thế nữa,
trong câu thơ này, ta còn nhận thấy một sự khác thường. Bác Hồ đã vĩnh viễn đi
xa, thế nhưng tác giả không dùng từ “viếng” mà lại dùng từ “thăm”,
bởi với nhà thơ Viễn Phương, Bác Hồ vẫn mãi sống trong trái tim, trong nỗi nhớ
mỗi người dân Việt Nam. Đây hẳn là lí do mà tác giả sử dụng từ
"thăm", một cách nói giảm nói tránh đầy tinh tế. Chuyến thăm từ mảnh
đất "đi trước về sau", chịu bao nỗi đau chia cắt dưới gót giày của kẻ
xâm lấn. Mang theo cả trái tim miền Nam đang từng ngày mong mỏi, thiết tha hướng
về Bác Hồ, mang theo nỗi niềm của một người con dành cho cha.
Trong niềm vui,
niềm hân hoan, rạo rực vì được viếng lăng Bác đang dào dạt dâng lên, nhà thơ
xúc động ngắm nhìn quang cảnh trước lăng Bác:
Đã thấy
trong sương hàng tre bát ngát
Ôi hàng tre
xanh xanh Việt Nam
Bão táp, mưa
sa, đứng thẳng hàng.
Hàng tre bát
ngát cuốn hút cảm xúc của nhà thơ. Hiện lên trong sương khói quảng trường Ba
Đình lịch sử là hình ảnh hàng tre xanh bát ngát. Hàng loạt từ láy "xanh xanh", "bát ngát"
kết hợp thán từ “Ôi!” đã bộc lộ cảm xúc mãnh liệt, tha thiết của tác giả
khi nhìn thấy hàng tre đĩnh đạc, uy nghiêm không khác gì những anh chiến sĩ
trung kiên ngày đêm đứng gác, canh giữ cho giấc ngủ an lành, bình yên của Bác Hồ
kính yêu. Hàng tre xanh xanh trong vườn Bác gợi cho người đọc nhiều liên tưởng.
Chắc rằng, cũng như mọi người Việt Nam, trong tâm khảm nhà thơ, cây tre là hình
ảnh giản dị, thân thuộc, đời đời gắn bó với quê hương làng xóm. Tre có mặt xung quang trong cuộc sống của người
dân, tre tham gia vào cuộc kháng chiến cùng người dân “tre xung phong vào xe
tăng đại bác, tre giữ làng giữ nước giữ mái nhà tranh giữa đồng lúa chín”
(Thép Mới). Tre mang bao phẩm chất của con người Việt Nam: mộc mạc, thanh cao,
ngay thẳng bất khuất. Hàng tre ấy cũng như những con người VN ta dù phải trải
qua bao “bão táp mưa sa” thì vẫn “đứng thẳng hàng”. Dáng dấp tre hiên ngang, bất khuất, thách thức
cả “bão táp mưa sa” gợi tư thế quật cường, mạnh mẽ của một đất nước nhỏ
bé trên bản đồ thế giới. Chính quốc gia ấy đã ghi tạc tên mình trong những
trang sử chói lọi, hùng tráng, như một thần thoại oanh liệt. Tre không cao lớn,
tre chẳng phải loài cây đáng giá ngàn vàng, nhưng tre mãi vững vàng trước bão
giông. Như Bác Hồ ta suốt đời sống giản dị, chẳng khoa trương mà cứ lặng lẽ,
kiên cường tranh đấu vì độc lập tự do của dân tộc.
Có thể thấy rằng,
khổ thơ đầu tiên đã để lại rất nhiều ấn tượng trong lòng bạn đọc. bằng những từ
ngữ và hình ảnh chọn lọc, lời thơ cho ta nhận ra niềm xúc động của nhà thơ khi
được ra lăng viếng Bác. Đồng thời cũng qua đó ta cảm nhận được lòng thành kính
và niềm biết ơn vô hạn của Viễn Phương dành cho Bác Hồ kính yêu.
Mạch cảm xúc của
Viễn Phương ngày càng xao động khi hoà nhập trong dòng người vào thăm lăng Bác:
Ngày ngày mặt
trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt
trời trong lăng rất đỏ
Ngày ngày
dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng
hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân...
Viễn Phương mượn
hình ảnh thực kết hợp với sử dụng nghệ thuật ẩn dụ sóng đôi để so sánh Bác Hồ
tượng trưng như mặt trời soi sáng cả nước Việt:
Ngày ngày mặt
trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt
trời trong lăng rất đỏ.
Ai đã từng một
lần đi viếng lăng Bác mới hiểu hết hàm ý trong câu thơ của Viễn Phương. Ngày
ngày, mặt trời - chúa tể của thiên nhiên - thán phục một mặt trời trong lăng rất
đỏ. Mặt trời rất đỏ, hình ảnh tượng trưng cho Bác Hồ - là mặt trời cách mạng,
là nguồn ánh sáng rực rỡ không bao giờ tắt, mãi mãi chiếu rọi con đường đi tới
của dân tộc Việt Nam. Nhiều nhà thơ đã sử dụng hình ảnh mặt trời để thể hiện
ánh sáng của lý tưởng cách mạng, nhưng đối sánh hai hình ảnh mặt trời của Viễn
Phương quả là rất độc đáo. Đây là một sáng tạo nghệ thuật có tác dụng bộc lộ nội
dung rất hiệu quả. Không nhiều lời, chỉ một hình ảnh mặt trời rất đỏ, nhà thơ
đã khái quát được hình ảnh Bác Hồ vĩ đại. Nhà thơ đã nói hộ chúng rằng: Bác Hồ
là mặt trời cách mạng đẹp nhất, rực rỡ nhất, chói lọi nhất luôn luôn toả sáng
trong tâm hồn người Việt Nam. Điệp ngữ “ngày ngày” được tác giả khéo léo
sử dụng như để thể hiện sự nối tiếp lặp đi lặp lại hằng ngày. Điều đó chính là
sự vô tận, là lời khẳng định Bác sẽ còn mãi, sẽ trường tồn bất diệt trong lòng
mỗi người dân đất Việt. Lời thơ thật đơn giản nhưng chứa đựng trong đó là cả một
tấm lòng. Chúng ta nhận ra trong những câu thơ ấy là tình yêu thương và niềm biết
ơn vô hạn của nhà thơ đối với Bác
Cùng với mặt trời
ngày ngày đi qua trên lăng là dòng người đi trong thương nhớ:
Ngày ngày
dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng
hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân...
Nhịp thơ chầm
chậm như bước chân của dòng người lặng lẽ đi trong suy tưởng, bao trùm một một
không khí thương nhớ Bác không nguôi, thành kính kết tràng hoa tình yêu dâng bảy
mươi chín mùa xuân của Người. Viến Phương tiếp tục sáng tạo một hình ảnh ẩn dụ vô cùng đẹp
đẽ. Đó là hình ảnh “tràng hoa”. Hình ảnh ấy gợi lên trong ta biết bao
nhiêu liên tưởng thú vị. Nó khiến ta nghĩ đến những vòng hoa tươi thắm mà mỗi
đoàn viếng thăm đều dâng lên người. Tuy nhiên không chỉ có thế, hình ảnh này
còn là ẩn dụ cho những dòng người đang nối nhau vào lăng viếng Bác. “Người ta
là hoa của đất”, nhà thơ thật sâu sắc và tinh tế khi tôn quí nhân dân. Mỗi người
dân là một bông hoa và dòng người đi trong thương nhớ chính là tràng hoa dâng
lên Bác. Những cánh hoa được kết lại từ
niềm tiếc thương thẫm đẫm vào dòng máu, từ lòng thành kính khắc ghi mãi tên Người
vào trái tim. Đó cũng chính là sự biết ơn công lao to lớn của Bác. "Bảy
mươi chín mùa xuân" của một đời người, một kiếp sống, Bác đã cống hiến vì
toàn dân, đã đem ánh sáng của chân lí, của cách mạng lan toả từ rừng sâu hẻo
lánh đến đỉnh đồi xa xâm, từ thị thành phố huyện đến đồng nội xanh rì. Bác vẫn
sống như mỗi mùa xuân của đất nước Việt NamNgày ngày… ngày ngày …, thời gian
không ngừng trôi và lòng người Việt Nam không bao giờ nguôi tình cảm nhớ
thương, yêu quí, kính trọng đối với Bác.
Có thể nói, khổ
thơ này chính là khổ thơ cảm động nhất và thể hiện rõ sự vĩnh hằng và trường tồn
của Bác Hồ trong lòng mỗi con dân Việt Nam. Ông đã dùng những từ ngữ trân trọng
và tôn kính nhất kết hợp cùng những biện pháp tu từ đặc sắc để ca ngợi và thể sự
biết ơn, kính trọng nhất dành cho Bác Hồ, đã giúp người đọc cảm nhận được trọn
vẹn nỗi xúc động nghẹn ngào, lòng thành kính và niềm biết ơn vô hạn của nhà thơ
đối với Bác. Và cũng qua những vần thơ ấy ta nhận ra Bác vẫn còn mãi trong trái
tim của mỗi con người, và của cả dân tộc Việt Nam.
"Viếng
lăng Bác" ngời sáng trong vườn địa đàng thơ ca nhờ giọng điệu nhẹ nhàng,
tha thiết mà lắng đọng nơi hồn người cùng hình ảnh, ngôn ngữ chọn lọc, giản dị,
trang trọng và giàu cảm xúc. Xuyên suốt hai khổ thơ là những cảm nhận rất thực
và vô cùng tinh tế của Viễn Phương. Cảm xúc ấy khi thì bồi hồi, xúc động, tự
hào, khi lại vô cùng biết ơn, thành kính. Hai khổ thơ cũng đã đưa ta về với
hình ảnh rực rỡ của vị cha già vĩ đại, kính yêu ngàn đời còn sống mãi theo năm
tháng, theo thời gian.
* Liên hệ thực tế ( Lối sống
nghĩa tình)
Ân nghĩa, thuỷ
chung là một lòng là nét đẹp mang tính truyền thống của đạo lí dân tộc, thể hiện
lối ứng xử mang vẻ đẹp nhân văn của con người Việt Nam qua hàng nghìn năm lịch
sử. Lối sống ân nghĩa thủy chung nhắc nhở ta cần biết ơn tổ tiên, ông bà, cha mẹ,
những anh hùng vĩ đại đã hi sinh, lấy thân mình, mồ hôi xương máu để bảo vệ nền
độc lập cho đất nước, giữ vững bình yên vùng trời Tổ quốc. Cần biết sống vui, sống
khoẻ và có ích cho xã hội, phần để thực hiện đúng trách nhiệm, bổn phận của
chúng ta, phần vì không hổ thẹn với những người đi trước mang lại cho ta cuộc sống
tốt đẹp. Lối sống đó không chỉ được khắc sâu trong tâm hồn mà còn phải được thể
hiện bằng hành động cụ thể. Con cháu hiếu thảo với ông bà cha mẹ. Tục cúng lễ
giỗ tết với nén hương thơm toả khói trên bàn thờ gia tiên. Con cái chăm học
chăm làm, sống tốt đẹp làm vẻ vang cho dòng họ, biết săn sóc ông bà cha mẹ khi
già yếu. Ngày 27/7 và ngôi nhà tình nghĩa là sự thể hiện lòng biết ơn của toàn
dân đối với thương binh liệt sĩ. Học sinh biết tôn sư trọng đạo... Là con cháu
vua Hùng, thuộc dòng dõi Lạc Hồng, ta phải biết tự hào về truyền thống đấu
tranh anh dũng của dân tộc, phải ý thức quý trọng giữ gìn những giá trị mà quá
khứ đã tạo nên bằng mồ hôi, nước mắt và xương máu, tiếp tục phát triển các
thành quả của quá khứ. Nói như Bác: Các
vua Hùng đã có công dựng nước, bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước. Trong
tưong lai, hãy đem tài năng của mình ra xây dựng quê hương đất nước trở nên
giàu đẹp hơn. Hãy luôn xây dựng lối sống nghĩa tình để cảm nhận được tình yêu
thương trong cuộc sống này.
Dù Bác đã ra đi
nhưng Bác sẽ còn sống mãi trong trái tim của Viễn Phương nói riêng, nhân dân Việt
Nam ta nói chung. Tỏ lòng thành kính với Bác cũng là động lực giúp mọi người sống
và làm việc tốt hơn. Vậy nên, là thế hệ trẻ, chúng ta nên tiếp bước, kế thừa và
phát huy những bài học và phẩm chất quý báu mà Bác đã để lại góp phần hoàn thiện
bản thân và trở thành người có ích cho đất nước.
* Liên hệ tác phẩm
khác ( Lối sống nghĩa tình trong Ánh
trăng)
Mỗi tác phẩm
thi ca là một bài tâm sự chia sẻ tâm tư nỗi lòng của tác giả. Ánh trăng của
Nguyễn Duy không chỉ thể hiện suy ngẫm, chiêm nghiệm của nhà thơ trước sự đổi
thay của đời người và đất nước gia đoạn đó, mà còn là thông điệp đánh thức mỗi
người. Đó là lẽ sống ân nghĩa, thủy chung:
Trăng cứ
tròn vành vạnh
Kể chi người
vô tình
Ánh trăng im
phăng phắc
Đủ cho ta giật
mình
Nghệ thuật ẩn dụ
"trăng cứ tròn vành vạnh" và nhân hóa "trăng im phăng
phắc" tượng trưng cho một quá khứ đẹp đẽ, vẹn nguyên không thể phai mờ
và là người bạn, nhân chứng nghĩa tình
mà hết sức nghiêm khắc. Con người có thể vô tình, có thể lãng quên nhưnng quá
khứ thì luôn tròn đầy, thủy chung và bất diệt. Tấm lòng bao dung, độ lượng mà
nghiêm khắc ấy đã nhắc nhở nhà thơ và tất cả chúng ta không bao giờ lãng quên
quá khứ. Ánh trăng đã soi rọi vào quá khứ, vào những ngày tháng mà con người vẫn
còn gắn bó với trăng để từ đó đánh thức lương tâm con người. Trăng không trách
mắng bằng những lời nói mà trăng chỉ im lặng, một cái im lặng đáng sợ hơn cả lời
nói. Đó trước hết là một hình ảnh thực bởi chúng ta biết rằng trăng không thể
nào nói chuyện. Cái sự im lặng ấy biểu thị cho sự nghiêm khắc của quá khứ.
Nhưng nó khiến cho con người giật mình. Cái giật mình nhìn lại thức tỉnh của
con người thật đáng quý. Giật mình để nhìn lại chính mình, để cố gắng sống tốt
hơn. Cái giật mình của ăn năn tự trách, giật mình để nhắc nhở bản thân không
lãng quên quá khứ nghĩa tình. Trăng cảm hóa con người và nhắc nhở con người phải
luôn luôn nhớ về quá khứ, trân trọng quá khứ. Thông qua hình ảnh ánh trăng, nhà
thơ Nguyễn Duy đã làm một cuộc tư vấn tâm hồn để nhắc nhở con người về lẽ sống
nghĩa tình, thủy chung. Nội dung bài thơ là những trải nghiệm cá nhân của chính
tác giả nhưng nó gần gũi với đời thường vậy nên nó có sức ngấm rất sâu trong
lòng người đọc. Bài thơ gợi nhắc con người về lẽ sống thủy chung, nhắc con người
ghi nhớ quá khứ, gắn bó với quá khứ. Có như vậy thì tương lai mới trở nên tươi
đẹp.
Viễn Phương và
Nguyễn Duy đều đã từng sống, trải qua những năm tháng khó khăn, thiếu thốn, khốc
liệt của chiến tranh và được cưu mang, đùm bọc,sẻ chia, … Khi viết Viếng lăng
Bác, Ánh trăng hai nhà thơ đã được hưởng cuộc sống hoà bình, ấm no, hiện đại.
Hai bài thơ đã gợi nhắc đạo lí về lòng biết ơn, lối sống ân nghĩa, thuỷ chung đối
với mỗi người. Dù là lòng kính nhớ, biết ơn Bác hay ân tình với nhân dân, đất
nước thì đều có chung một nét đẹp nhân văn – đạo lí uống nước nhớ nguồn.
Ân nghĩa, thủy
chung luôn là truyền thống đẹp của dân tộc, truyền thống ấy bao trùm cách sống,
cách ứng xử của con người Việt Nam trong mọi quan hệ. Từ mối quan hệ nhân dân với
có công với đất nước như Bác Hồ trong bài Viếng lăng Bác đến mối quan hệ với
quá khứ, với lịch sử, với nhân dân và đất nước trong bài Ánh trăng. Thông qua
những khổ thơ hay và đặc sắc, 2 tác giả đã đặt ra những vấn đề tư tưởng thật đậm
chất nhân văn, không chỉ có ý nghĩa nhất thời mà còn ý nghĩa với muôn đời về
sau. Và ngay hôm nay, được sống trong yên vui hoà bình, thế hệ trẻ chúng ta cần
phải ghi nhớ công ơn trời biển của Bác, truyền thống uống nước nhớ nguồn mà ra
sức học tập tốt để góp phần xây dựng quê hương, đất nước giàu đẹp như Bác đã từng
mong ước.