Mụ chủ đi rồi, bà Hai
và con bé lớn nước mắt ròng ròng, lẳng lặng gánh hàng ra quán. Vợ chồng cũng chẳng
dám nói với nhau câu gì.
Ông Hai ngồi lặng trên
một góc giường. Bao nhiêu ý nghĩ đen tối, ghê rợn, nối tiếp bời bời trong đầu
óc ông lão. Biết đem nhau đi đâu bây giờ? Biết đâu người ta chứa bố con ông mà
đi bây giờ?…
Thật là tuyệt đường
sinh sống! Mà không một gì cái đất Thắng này. Ở Đài, ở Nhã Nam, ở Bố Hạ, Cao
Thượng… đâu đâu có người Chợ Dầu người ta cũng đuổi như đuổi hủi. Mà cho dẫu vì
chính sách Cụ Hồ người ta chẳng đuổi đi nữa, thì mình cũng chẳng còn mặt mũi
nào đi đến đâu.
“Cả làng chúng nó Việt
gian theo Tây…”, cái câu nói của người đàn bà tản cư hôm trước lại dội lên
trong tâm trí ông.
Hay là quay về
làng?...
Vừa chớm nghĩ như vậy,
lập tức ông lão phản đối ngay. Về làm gì cái làng ấy nữa. Chúng nó theo Tây cả
rồi. Về làng tức là bỏ kháng chiến, bỏ Cụ Hồ…
Nước mắt ông giàn ra.
Về làng tức là chịu quay lại làm nô lệ cho thằng Tây. Ông lão nghĩ ngay đến mấy
thằng kì lí chuyên môn khua khoét ngày trước lại ra vào hống hách ở trong cái
đình. Và cái đình lại như của riêng chúng nó, lại thâm nghiêm ghê gớm, chứa
toàn những sự ức hiếp, đè nén. Ngày ngày chúng dong ra, dong vào, đánh tổ tôm
mà bàn tư việc làng với nhau ở trong ấy. Những hạng khố rách áo ôm như ông có
đi qua cũng chỉ dám liếc trộm vào, rồi cắm đầu xuống mà lủi đi. Anh nào ho he,
hóc hách một tí thì chúng nó tìm hết cách để hại, cất phần ruộng, truất ngôi,
trừ ngoại, tống ra khỏi làng…
Ông Hai nghĩ rợn cả
người. Cả cuộc đời đen tối, lầm than cũ nổi lên trong ý nghĩ ông. Ông không thể
về cái làng ấy được nữa. Về bây giờ ra ông chịu mất hết à?
Không thể được! Làng
thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù.
( Trích “Làng”-
Kim Lân)
Bài
làm
Từ rất lâu,
“quê hương” đã trở thành tiếng gọi thân thương. Đó là đề tài lớn, vượt cả không
gian lẫn thời gian để đến với bao triệu tâm hồn yêu văn chương. Quê hương ấp ủ
những hình ảnh gắn liền với tuổi thơ đầy ước vọng: là cánh diều no gió vươn
cao, là biển lúa vàng óng ánh, là mái đình rêu phong, là hồ sen thơm ngát buổi
trưa hè. Khi viết về tình yêu làng xóm, quê hương, nền văn học đương đại cũng
không thể nào không nhắc đến Kim Lân – một nhà văn trọn đời gắn tâm hồn chân
tình và mộc mạc của mình với làng quê. Tâm hồn ấy được thể hiện sâu sắc qua
nhân vật ông Hai trong tác phẩm Làng của tác giả. Tình yêu làng, yêu nước
và tinh thần kháng chiến hài hòa, nồng thắm được đặc biệt thể hiện trong đoạn đối
tranh nội tâm của ông Hai khi bị mụ chủ nhà đuổi gia đình ông đi khỏi làng.
Truyện ngắn “Làng”
được Kim Lân viết vào đầu những năm chống Pháp. Tác phẩm gợi nhiều suy nghĩ cho
người đọc về những thay đổi trong nhận thức và tình cảm của người nông dân.
Trong thời kì này thì người dân nghe theo chính sách của chính phủ: kêu gọi
nhân dân ta tản cư, những người dân ở vùng địch tạm chiếm đi lên vùng chiến khu
để chúng ta cùng kháng chiến lâu dài. Tác phẩm nói về nỗi nhớ quê hương
– nhớ làng Dầu của nhân vật ông Hai khi đi tản cư. Qua đó, cũng gián tiếp thể
hiện tình yêu làng, yêu quê hương đất nước của ông Hai cũng như những người
nông dân xưa. Đồng thời, nhà văn cũng ca ngợi tình cảm gắn bó sâu sắc của ông
Hai với làng Dầu và ngợi ca tình yêu quê hương của những người nông dân Việt
Nam.
Hai trong truyện
ngắn là một người rất yêu và tự hào về làng chợ Dầu của mình. Do chiến tranh
khói lửa cũng như hoàn cảnh gia đình mà ông Hai phải dời làng di cư. Ở nơi tản
cư với hoàn cảnh bó buộc, ông Hai luôn nhớ mong về làng. Ngày nọ nghe được tin
làng chợ Dầu “Việt gian theo Tây” – Đó là tin dữ đến bất ngờ khiến ông
da mặt “tê rân rân” rồi “cổ họng nghẹn đắng hẳn lại” “lặng người đi” cúi
gằm mặt mà đi về. Về nhà ông Hai nằm vật ra không dám đi đâu, lo lắng hoang
mang, ai nói gì cũng tưởng họ như nói về làng của mình. Khi chủ nhà có ý định
đuổi ông đi nơi khác, ông chớm có ý định quay về làng như rồi “làng thì yêu
thật, nhưng làng theo tây mất rồi thì phải thù”. Ông Hai không biết tâm sự
cùng ai, đành tâm sự với đứa nhỏ một lòng ủng hộ cụ Hồ. Khi được cải chính làng
chợ Dầu không theo Tây, ông vui sướng đi khoe với tất cả mọi người cùng với việc
mình bị Tây nhốt. Nhân vật ông Hai trong truyện ngắn làng cho thấy vẻ đẹp tâm hồn
và tính cách của những người nông dân chất phát luôn hết lòng yêu quê hương.
Tình yêu làng yêu nước sâu đậm được tác giả khắc họa sâu sắc trong cuộc đấu
tranh nội tâm của ông Hai khi bị mụ chủ nhà đuổi gia đình ông đi khỏi làng.
Cũng như bao người nông dân khác ông Hai cũng
yêu làng và luôn tự hào về làng chợ Dầu. Nhất là khi phải xa làng đi tản cư thì
tình yêu ấy lại càng tha thiết. Lúc nào ông cũng nhớ làng, luôn theo dõi tin tức
về làng. Tình yêu làng như hơi thở máu thịt của ông. Nhưng rồi cái tin làng
theo giặc nó làm cho ông đau khổ vì làng. Ông sống không bằng chết, lúc nào
cũng dằn vặt lo lắng. Bao nhiêu niềm tự hào về làng như sụp đổ trong tâm hồn
người nông dân rất mực yêu làng quê ấy. Nhất là từ lúc mụ chủ nhà đánh tiếng đuổi
gia đình ông đi ông thực sự rơi vào bế tắc tuyệt vọng.
Nghe những lời
nói đầy cay nghiệt của mụ chủ nhà, ông Hai lo lắng về tương lai của mình và những
đứa nhỏ: “bao nhiêu ý nghĩ đen tối, ghê rợn, nối tiếp bời bời trong đầu óc
ông lão. Biết đem nhau đi đâu bây giờ? Biết đâu người ta chứa bố con ông mà đi
bây giờ”. Ông bắt đầu phân vân, trăn trở giữa việc về làng hay không về
làng. Chính trong lúc đau đớn tuyệt vọng ấy đã đẩy ông vào tình huống là phải lựa
chọn: quê hương hay Tổ quốc? Quê hương – làng chợ Dầu của ông đáng yêu đáng tự
hào lắm. Nhưng giờ đây nó làm cho ông phải tủi nhục chỉ nghĩ đến nó là lòng ông
đắng ngắt. Tâm trạng giằng xé đau khổ cho thấy ông yêu Làng và quan trọng hơn
là ông yêu cái tinh thần kháng chiến của Làng. Khi Làng theo giặc thì vẻ đẹp của
làng vẫn còn nhưng vẻ đẹp kháng chiến thì không còn nữa. Và lúc này đây ông mới
thấy tủi nhục, xót xa vì cái vẻ đẹp kháng chiến mất đi. Tình cảm đó mới đáng
trân trọng làm sao. Một người ngần này tuổi như ông mà đau đớn, nước mắt chảy
vì danh dự của mình và danh dự của làng. Làng chính là danh dự của ông. Làng
đánh mất danh dự rồi ông còn dám nhìn ai. Làng chính là quê hương, nơi chôn
nhau cắt rốn. Con người ta có ai cũng có một quê hương để trở về, một nơi để
nương tựa. Trong hoàn cảnh này ông Hai đáng thương biết bao nhiêu. Giờ đây đến
quê hương cũng không thể trở về.
Trong lúc bế tắc
này ông đã thoáng nghĩ đến làng là chốn dung thân cho gia đình ông. Trong ông
đang có cuộc giằng co dữ dội: Về làng thì sẽ chung cảnh việt gian, phải phản bội
lại cách mạng vì “cả làng chúng nó Việt gian theo Tây…” còn không về thì
khó có thể sinh sống ở đây bởi những lời dị nghị của mọi người. Chỉ mới hôm trước
về làng là khao khát là mong ước cháy bỏng của ông thế mà bây giờ ông thấy rợn
cả người. Làng ông đáng tự hào là thế, mà giờ lại theo Tây. Ông phải thế nào
đây? Giờ đây, làng Chợ Dầu của ông theo Việt gian, tức là hại nước, hại cách mạng
thì không thế yêu làng như xưa được nữa. “Về làm gì cái làng ấy nữa. Chúng
nó theo Tây cả rồi. Về làng tức là bỏ kháng chiến bỏ Cụ Hồ.”. Thì ra ông
yêu Làng tha thiết ngoài cái tình yêu cố hữu thì đó chính là tinh thần kháng
chiến, vì cụ Hồ. Vì làng có những con người có tinh thần kháng chiến, chống giặc
nên ông càng yêu, càng nhớ làng, nhớ những công việc làm kháng chiến, đắp ụ,
xây hầm.. Tình yêu làng trong ông rất mãnh liệt, nhưng làng phải gắn với nước.
Dù đau xót tưởng chừng như bế tắc nhưng trong
cõi sâu của tấm lòng người nông dân ấy vẫn hướng về cuộc kháng chiến vẫn tin ở
điều tốt đẹp cho nên ông quyết định: “Không thể được! Làng thì
yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”. Đau khổ tột
cùng khi nghe tin làng mình theo giặc nhưng tấm lòng thủy chung, son sắt với cuộc
kháng chiến thì vẫn không hề thay đổi. Một thái độ dứt khoát, một tình yêu mạnh
mẽ nhưng không mù quáng. Niềm đau, sự oán trách cũng như thái độ kiên quyết...
tất cả, tất cả đều là biểu hiện sống động nhất của tình yêu nước trong ông Hai.
Lúc này là chuẩn mực cho tình yêu và niền tự hào về quê hương đối với ông hai
lúc này là cuộc kháng chiến mà cả dân tộc đang hướng về. nhất là Bác Hồ - linh
hồn của cuộc kháng chiến. Đó là biểu hiện vẻ đẹp trong tâm hồn của con người Việt
Nam, khi cần họ sẵn sàng gạt bỏ tình cảm riêng tư để hướng tới tình cảm chung của
cả cộng đồng.
Ông Hai đã trải
qua những vui buồn đau khổ những tự hào chua chát những tuyệt vọng và hi vọng.
Đứng giữa sự lựa chọn khó khăn ông đã bày tỏ rõ tấm lòng mình. Rõ ràng tình yêu
nước rộng lớn đã bao trùm lên tình cảm làng quê. àtình quê và lòng yêu nước
của người nông dân ấy sâu nặng biết bao. Đặt nhân vật vào tình huống gay cấn
này để thấy sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức của người nông dân như ông
Hai thật
Để
xây dựng thành công nhân vật ông Hai với nhiều phẩm chất đáng quý nhà văn
Kim Lân đã vận dụng nghệ thuật kể chuyện đặc sắc.
Tình huống truyện gay cấn giúp cho nhân vật được thể hiện sinh độngthế giới nội
tâm phong phú. Nét tạo hình và miêu tả tâm lí qua lời nói cử chỉ và nhất là
miêu tả nội tâm nhân vật được xây dựng một cách đặc sắc. Tác giả để nhân vật
yêu làng, làm bước đòn bẩy để bật lên tinh thần yêu nước mạnh mẽ, nồng nàn. Nghệ
thuật đòn bẩy đã được cài sẵn khéo léo cộng với cách dẫn dắt câu chuyện tự
nhiên, giọng văn mộc mạc giản dị phù hợp với tính cách của người nông dân chất
phác thật thà mà giàu tình cảm như ông Hai.đã tạo nên nét nghệ thuật hấp dẫn
cho tác phẩm. Đi từ cách nghĩ đến hành động, những màn đánh vào tâm lí người đọc
qua những lời lẽ của nhân vật làm cho tác phẩm dễ hiểu và dễ đồng cảm nơi độc
giả. Khi đọc Làng, ít nhiều sẽ có người tin rằng đó phải là một nhân vật ông
Hai đời thường bước vào trang văn của Kim Lân không phải là truyện ở dạng hư cấu.
Liên
hệ:
- Liên hệ thơ
Ông
Hai tiêu biểu cho cho hình ảnh người nông dân Việt Nam sau Cách mạng luôn có ý
thức giác ngộ cao, tha thiết yêu quê hương Tổ quốc.
Ông Hai khiến người đọc liên tưởng đến nhân vật người lính trong bài “Đồng chí”
của Chính Hữu.
Người lính
trong bài thơ của Chính Hữu đều là người lính nông dân lần đầu khoác áo lính.
Các anh đến từ những miền quê nghèo. Khi Tổ quốc cần các anh sẵn sàng hi sinh
tình nhà lên đường cứu nước. Rời xa gia đình quê hương, các anh lại được sống
trong tình đồng đội. Đó là động lực mạnh mẽ để những người lính hoàn thành
nghĩa vụ thiêng liêng với Tổ quốc.
Do viết ở
hai thể loại khác nhau một tác phẩm là thơ một tác phẩm là truyện. Cho nên cách
thể hiện nhân vật cũng khác nhau. Kim Lân thì kể chuyện bằng cách tạo tình huống
đặc sắc, còn Chính Hữu lại sử dụng nhiều hình ảnh thơ chân thực hàm súc.
Tuy khác nhau
trong cách thể hiện nhưng cả hai tác giả đều làm nổi bật những nét đẹp của
con người Việt Nam cụ thể là những người nông dân trong thời kì chống Pháp với
lòng yêu quê hương, yêu Tổ quốc sâu nặng. Người lính “Đồng chí” yêu nước bằng
cách trực tiếp chiến đấu trên mặt trận còn ông Hai hi sinh lặng thầm nơi hậu phương
đế góp phần vào thắng lơi của kháng chiến. Chính tình cảm sâu nặng ấy mà dù có
phải xa làng quê yêu dấu thì họ cũng sẵn sàng hi sinh tất cả. Qua
đó mà cả hai tác giả muốn ca ngợi tầng lớp người nông dân dù ở tiền tuyến hay hậu
phương cũng là tầng lớp góp phần không nhỏ vào cuộc kháng chiến chống Pháp của
nhân dân ta đến thắng lợi. Tình yêu quê hương, yêu Tổ quốc là những
cảm xúc chủ đạo trong các sáng tác thời kì này. Chính vì thế hai tác phẩm
nàylà tiêu biểu cho nền văn học chống Pháp.
Làng của Kim Lân
và Đòng chí của Chính Hữu đã xây dựng thành công hình ảnh những con người Việt
Nam kiên cường, bất khuất với một tinh yêu quê hương đất nước tha thiết, sâu nặng.
Bên cạnh hình ảnh những chiến sĩ trực tiếp chiến đấu trên mặt trận còn có những
con người hi sinh lặng thầm nơi hậu phương đế góp phần vào thắng lơi của kháng
chiến. Đó là những người nông dân có lòng yêu nước thiết tha, bình dị, sâu sắc. Tình yêu làng,
yêu nước, hòa quyện trong tâm hồn người nông dân hay trong ý chí người nông dân ra
trận mộc mạc, chất phác thật đẹp biết bao. Làng của Kim Lân và Đồng chí của Chính
Hữu là những bài ca về tình yêu quê hương đất nước mà những người nông dân Việt Nam, là những thanh âm trong trẻo,
réo rắt nhất, để lại bao dư âm lắng đọng trong lòng độc giả.
- Liên hệ thực tế
Đất nước ngày
nay đã thanh bình, đang từng ngày dựng xây và phát triển. Lòng yêu nước gắn liền
với ước mong cống hiến, làm nhiều việc có ích cho quê hương, đất nước mình… Tùy
theo sức của mình và từng hoàn cảnh khác nhau mà mỗi người có những đóng góp
khác nhau: là bác nông dân chăm chỉ, cần mẫn trên những cánh đồng mang lại mùa
màng bội thu; là nhà khoa học say mê nghiên cứu tìm ra những hướng đi mới cho nền
kinh tế đất nước, là các cầu thủ bóng đá U23 Việt Nam đi vào lịch sử là những
anh hùng sân cỏ, mang niềm tự hào vinh quang về cho dân tộc để biết bao người
thấy yêu thương, thấy vẻ vang…. Với các bạn học sinh, chúng ta cần cố gắng, nỗ
lực rèn luyện để phát triển bản thân, không ngừng học hỏi để tích lũy tri thức
làm hành trang trong cuộc sống, đưa đất nước phát triển nhanh kịp cùng các cường
quốc năm châu. Không chỉ vậy, chúng ta cần tích cực tham gia các hoạt động xã hội
như các hoạt động tình nguyện trồng cây xanh nhằm bảo vệ môi trường, giữ gìn đường
phố sạch sẽ, kêu gọi mọi người tham gia giao thông an toàn… đó cũng là biểu hiện
cụ thể của lòng yêu nước.
Hiện nay, thế
giới ngày càng phát triển và các quốc gia tiến gần lại nhau hơn. Những cám dỗ từ
trò chơi trực tuyến hay thần tượng âm nhạc xứ Hàn, khiến cho tình yêu quê hương
đất nước của nhiều bạn trẻ đang đân bị phai mờ. Họ bỏ bê học hành, lao vào những
thú vui vô bổ, quên đi trách nhiệm với quê hương, đất nước mình. Điều đó sẽ dẫn
đến nhiều hệ lụy về một đất nước có rất nhiều thanh niên vô trách nhiệm, thờ ơ
với sự phát triển của đất nước, bản sắc văn hóa dân tộc dần mai một. Phải chăng
chính những người trẻ chúng ta đang dẫn đất nước đi vào một con đường suy
thoái?
Trang sử dân tộc
đã được dựng xây từ biết bao máu xương của cha anh, những giọt mồ hôi công sức
của những người lao động đã rơi xuống. Họ là những con người vô danh nhưng cùng
có chung một lòng yêu nước và tự hào dân tộc, âm thầm hi sinh và cống hiến sức
mình cho quê hương, tổ quốc. Vì vậy, thế hệ thanh niên hôm nay cần giữ gìn và
phát huy lòng yêu nước qua những hành động và việc làm cụ thể để nối tiếp truyền
thống quý báu của dân tộc,
Ông Hai là hình
ảnh tiêu biểu của người nông dân trong thời kì kháng chiến chống Pháp. Từ một
người nông dân yêu làng, ông Hai trở thành người công dân nặng lòng với kháng
chiến.Tình yêu làng, yêu nước đã hòa làm một trong ý nghĩ, tình cảm, việc làm của
ông Hai. Tình cảm ấy thống nhất,hòa quyện như tình yêu nước được đặt cao hơn, lớn
rộng lên tình làng. Đây là nét đẹp truyền thống mang tinh thần thời đại. Dù cuộc
kháng chiến chống Pháp qua lâu rồi nhưng mỗi khi đọc lại truyện ngắn Làng, bao
thế hệ bạn đọc vẫn còn tự hào xúc động về hình ảnh con người Việt Nam giàu tình
yêu làng quê yêu đất nước như ông Hai. Cho nên tác phẩm Làng vẫn
còn nguyên giá trị trong nền văn học hiện đại Việt Nam. Nhà thơ Anh Byron đã từng
viết: “Kẻ nào không yêu quê hương, đất nước thì họ chẳng có thể yêu gì cả”.
Nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng của Kim Lân đã để lại sự xúc động và những
suy ngẫm về lòng yêu nước trong mỗi chúng ta.