Thứ Tư, 20 tháng 1, 2021

Phân tích nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng của Kim Lân

 

Đề: Phân tích nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng của Kim Lân

Kim Lân viết không nhiều nhưng những gì mà nhà văn để lại cũng đủ để khẳng định một gương mặt riêng, một phong cách riêng trong văn học Việt Nam hiện đại. Sáng tác của Kim Lân hầu hết xoay quanh mảng đề tài nông thôn. Ông là nhà văn của làng quê, của những người nông dân một lòng đi với đất, với người, với thuần hậu nguyên thủy của cuộc sống nông thôn. Tác phẩm Làng của ông, với nhân vật chính là ông Hai để cho người đọc nhiều suy ngẫm sâu sắc. Nhân vật chính của tác phẩm – ông Hai – chẳng những là một người nông dân chất phác, hồn hậu như bao người nông dân khác mà còn là một người có tình yêu làng quê, đất nước thật đặc biệt.

Truyện ngắn “Làng” ra đời năm 1948, in lần đầu trên Tạp chí Văn nghệ tại chiến khu Việt Bắc trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Tác phẩm nói về nỗi nhớ quê hương – nhớ làng Dầu của nhân vật ông Hai khi đi tản cư. Qua đó, cũng gián tiếp thể hiện tình yêu làng, yêu quê hương đất nước của ông Hai cũng như những người nông dân xưa. Đồng thời, nhà văn cũng ca ngợi tình cảm gắn bó sâu sắc của ông Hai với làng Dầu và ngợi ca tình yêu quê hương của những người nông dân Việt Nam. Những chuyển biến trong tâm lí nhân vật ông Hai cũng chính là đại diện cho tầng lớp nông dân Việt Nam thời kháng chiến.

Ông Hai trong truyện ngắn là một người rất yêu và tự hào về làng chợ Dầu của mình. Do chiến tranh khói lửa cũng như hoàn cảnh gia đình mà ông Hai phải dời làng di cư. Ở nơi tản cư với hoàn cảnh bó buộc, ông Hai luôn nhớ mong về làng. Ngày nọ nghe được tin làng chợ Dầu “Việt gian theo Tây” – Đó là tin dữ đến bất ngờ khiến ông da mặt “tê rân rân” rồi “cổ họng nghẹn đắng hẳn lại” “lặng người đi” cúi gằm mặt mà đi về. Về nhà ông Hai nằm vật ra không dám đi đâu, lo lắng hoang mang, ai nói gì cũng tưởng họ như nói về làng của mình.  Khi chủ nhà có ý định đuổi ông đi nơi khác, ông chớm có ý định quay về làng như rồi “làng thì yêu thật, nhưng làng theo tây mất rồi thì phải thù”. Ông Hai không biết tâm sự cùng ai, đành tâm sự với đứa nhỏ một lòng ủng hộ cụ Hồ. Khi được cải chính làng chợ Dầu không theo Tây, ông vui sướng đi khoe với tất cả mọi người cùng với việc mình bị Tây nhốt. Ông Hai mang vẻ đẹp tâm hồn và tính cách của những người nông dân chất phát luôn hết lòng yêu quê hương.

Sinh ra ở miền quê quan họ giàu tình cảm và ân tình, nhà văn Kim Lân đã gửi gắm trong những tác phẩm của mình hình ảnh những người dân thôn quê chất phát và đôn hậu. Nhân vật ông Hai  là một người nông dân chất phác, nồng hậu, chân chất… như bao người nông dân khác. Đến nơi tản cư mới, ông thường đến nhà hàng xóm để cởi mở giãi bày những suy nghĩ tình cảm của mình về cái làng Chợ Dầu thân yêu, về cuộc kháng chiến của dân tộc. Ông đi nghe báo, ông đi nghe nói chuyện, ông bàn tán về những sự kiện nổi bật của cuộc kháng chiến… Ông Hai không biết chữ, ông rất ghét những anh nào “ra vẻ ta đây” biết chữ đọc báo mà chỉ đọc thầm không đọc to lên cho người khác còn biết. Ông ít học nhưng lại rất thích nói chữ, đi đính chính tin làng mình theo giặc ông sung sướng nói to với mọi người: “Toàn là sai sự mục đích cả!”…. Tất cả những điều đó không làm ông Hai xấu đi trong mắt người đọc mà chỉ càng khiến ông đáng yêu, đáng mến hơn.

Không chỉ vậy, điều đáng quý nhất ở ông Hai chính là tấm lòng yêu làng tha thiết. Và biểu hiện của tấm lòng ấy cũng thật đặc biệt.Có thể nói nhà văn Kim Lân đã vô cùng thành công khi khắc họa thành công diễn biến tâm lí của nhân vật gắn liền với cốt truyện mang đến cho người đọc cái nhìn đa chiều nhất về chuyển biến tâm lí của người nông dân trong kháng chiến chống Pháp. Tình yêu đất nước yêu quê hương chung thành với cách mạng với Cụ Hồ đằm thắm và mộc mạc như những gì họ thể hiện vậy.Truyện lấy bối cảnh là những ngày hào hứng, sôi nổi, khẩn chương kháng chiến của nhân dân ta. Ông Hai là một người ở làng Chợ Dầu, có tình yêu làng sâu sắc, đặc biệt. Tác giả đã đặt ông vào hoàn cảnh phải rời làng đi tản cư, theo lệnh của cụ Hồ. Mặc dù rời xa làng nhưng không phải bỏ tất cả ở lại. Ông mang theo tình yêu làng đến nơi tản cư, ông hào hứng khoe về làng của mình cho mọi người ở đó nghe. Đặc biệt thông qua tình huống: ở nơi tản cư ông Hai nghe được tin làng Chợ Dầu theo giặc. Từ tình huống đó, tác giả diễn tả tình yêu làng, yêu nước của ông Hai nói riêng, của người dân nói chúng trong những ngày đầu kháng chiến. 

Giống như tất cả những người nông dân khác, ông Hai là một người yêu làng, gắn bó sâu sắc với làng xóm, với quê hương. Tình yêu làng ở ông Hai vừa rất chung rất tiêu biểu cho nét tâm lý của người dân quê, lại vừa rất riêng, rất độc đáo. Ông yêu cái làng của mình như đứa con yêu mẹ, tự hào về mẹ, tôn thờ mẹ, một tình yêu hồn nhiên như trẻ thơ. Cứ xem cái cách ông Hai náo nức, say mê khoe về làng mình thì sẽ thấy.Ông Hai yêu làng mình bằng một tình cảm đặc biệt gần như là máu thịt. Cái làng Chợ Dầu ấy đã trở thành nguồn vui sống của ông. Tác giả đã để cho ông Hai bộc lộ tình yêu đó một cách chân thật, nồng nhiệt, vừa có những .nét quen thuộc vừa có những nét riêng biệt chỉ có ở ông Hai. Yêu làng, ông yêu tất cả những gì thuộc về làng, thậm chí yêu cả những cái mà ông và biết bao người đã phải khổ sở vì nó. Ông Hai tự hào vì làng Chợ Dầu của ông có những ngôi nhà ngói san sát, sầm uất, đường trong làng toàn lát bằng đá xanh, trời mưa đi từ đầu làng đến cuối xóm bùn không dính đến gót chân. Tháng năm ngày mười phơi rơm và thóc tốt thượng hạng, không có lấy một hat thóc đất... Ông tự hào về tất cả những nét độc đáo, những thứ đả làm nên bề dày lịch sử của làng ông. Trong mắt ông Hai cái gì của làng Chợ Dầu cũng đáng tự hào.

Sau Cách mạng Tháng Tám, tình yêu làng của ông có sự chuyển biến rõ rệt. Kháng chiến nổ ra mang theo những luồng tư tưởng mới chiếu rọi tâm hồn ông. Giờ đây, đối với ông Hai, cái lăng cụ Thượng, cái sinh phần kia đều đáng căm thù; niềm tin về làng là những ngày khởi nghĩa dồn dập, những buổi tập quán sự có cụ râu tóc bạc phơ cũng vào gậy tham gia; những hố, những ụ, những hào ,chòi phát thanh. Tất cả những điều đó, từ những cái nhỏ nhặt cho đến điều lớn lao, đều trở thành đối tượng của tình yêu tha thiết, đậm sâu trong ông. Yêu làng, ông Hai có nhu cầu thể hiện, thổ lộ tình yêu ấy với tất cả mọi người. Đi đến đâu ông cũng khoe về cái làng của ông. Ông say sưa kể về làng của mình mà không cần biết người nghe có chú ý hay không. Mỗi khi bắt đầu nói về làng, “hai con mắt ông sáng hẳn lên, cái mắt biến chuyển”. Chỉ một chi tiết ấy thôi, Kim Lân đã khắc họa thành công tình cảm thiêng liêng của ông Hai dành cho mảnh đất quê mình. Tình yêu ấy luôn ấm nóng trong trái tim ông và càng trở nên mạnh mẽ hơn khi ông phải xa làng. Trong những ngày xa quê, sống nơi sơ tán xa lạ. chính tình yêu làng đã trở thành sức mạnh trong ông. Những khi mệt nhọc, chỉ cần nghĩ về làng, kể chuyện làng là ông quên hết tất cả. Qua những lời khoe của ông Hai, ta có cảm tưởng như cảnh vật, làng xóm đã hằn in trong ông chiếm trọn con tim, khối óc người nông dân ấy. Ông luôn khổ tâm day dứt nhớ làng, nhớ anh em đồng chí ở lại và khao khát muốn được quay trở về làng để kháng chiến. Xa làng, ông Hai lúc nào cũng trông ngóng tin tức, dõi theo diễn biến ở làng Chợ Dầu. Quả thật số phận và cuộc đời ông Hai đã thực sự gắn bó với những buồn vui của làng.

Chính Cách mạng và cuộc kháng chiến chống Pháp đã khơi dậy ở ông Hai và những người nông dân tình cảm yêu nước hoà nhập thống nhất với tình yêu làng quê thành một thứ tình cảm cao cả rộng lớn nhất. Kim Lân đã để cho nhân vật trải qua tình huống truyện độc đáo: ông Hai nghe tin làng theo Tây. Đây chính là tác nhân làm bùng nổ tình yêu nước thiết tha, sâu đậm của ông. ở người nông dân ấy, tình yêu làng gắn liền với lòng yêu nước: Ta bắt gặp ở đây chân lí về cội nguồn của lòng yêu nước theo quan điểm của nhà văn Liên Xô (cũ) I. Ê-ren-bua: “Lòng yêu nước ban đầu là lòng yêu những vật tầm thường nhất.. Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê trở nên lòng yêu Tổ quốc”'.

Tin dữ đến với ông Hai trong những phút giây ông vô cùng sảng khoái, sung sướng vì nghe được nhiều tin kháng chiến của quân và dân ta khắp mọi nơi dội về. Nghe được tin làng Chợ Dầu Việt gian theo giặc ông Hai bàng hoàng đến sững sờ: "Cổ họng ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi tưởng như không đến thở được. Một lúc lâu ông lão mới rặn è è, nuốt một cái gì vướng ở cổ, ông cất tiếng hỏi, giọng lạc hẳn đi: Liệu có thật không hở bác? Hay là chỉ lại...". Trong ông đã diễn ra một cuộc đấu tranh nội tâm gay gắt: ông tủi nhục, đớn đau, ông tự giày vò, ông hoài nghi. Nhưng những người tản cư đã kể quá rành rọt lại khẳng định họ vừa ở dưới lên làm ông Hai không thể không tin. Ông cảm thấy đau đớn nhục nhã vì cái làng Chợ Dầu yêu quý của mình đã theo giặc làm Việt gian. Bao nhiêu điều tự hào trước đây giờ sụp đổ. Càng yêu làng, hãnh diện tự hào về làng bao nhiêu thì bây giờ ông Hai lại càng thấy đau đớn, tủi hổ bấy nhiêu. Từ lúc ấy trong tâm trí ông cái tin dữ ấy xâm chiếm. Lúc nào ông cũng luôn nơm nớp lo sợ tưởng người ta bàn tán chuyện ấy. Ám ảnh nặng nề trở thành nỗi sợ hãi thường xuyên trong lòng ông với đau đớn tủi nhục vì lành trở thành đối địch. Ra đường nghe tiếng chửi bọn Việt gian, "ông cúi gầm mặt mà đi". Còn gì chua chát, đau đớn hơn khi giọng nói của người đàn bà cho con bú vẳng vọng theo: “Cha mẹ tiên sư chúng nó! Đói khổ ăn cắp ăn trộm bắt được người ta còn tha. Còn cái giống Việt gian bán nước chỉ cho mỗi đứa một nhát.” Tình yêu làng bị sụp đổ, tình cảm của ông bị tổn thương. Và chỉ có tình yêu sâu nặng với quê hương của mình, con người ta mới thấy nỗi đau đớn ấy mà ông Hai là một ví dụ điển hình. Còn gì đớn đau hơn khi lòng tự tôn của mình lại bị một sự thật bẽ bàng làm cho sụp đổ. Còn gì đớn đau bằng cái nỗi đau về nơi mình luôn tự hào lại là nơi mình phải hổ thẹn? Nhà văn Kim Lân đã chứng tỏ bút lực dồi dào, khả năng phân tích sắc sảo, tái hiện sinh động trạng thái tình cảm, hành động của con người khi miêu tả diễn biến tâm trạng và hành động của nhân vật ông Hai trong biến cố này.

Sự uất ức đến căm giận theo đuổi ông mãi khi về tận nhà. Lúc ấy, nước mắt ông lão giàn ra, ông rít lên những tiếng kêu đau đớn, nhục nhã. Ông lão như vừa bị mất một cái gì quý giá, thiêng liêng lắm.Đồng cảm với nhân vật ấy, người đọc như cảm nhận sự đau đớn, hổ thẹn và uất ức theo từng cử chỉ, từng hành động của ông.Những câu văn diễn tả tâm trạng thật xúc động “Nhìn lũ con, tủi thân, nước mắt ông lão cứ giàn ra. Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy ư?”. Nghệ thuật độc thoại nội tâm diễn tả cụ thể những câu hỏi giằng xé trong đầu ông Hai. Nếu không yêu làng đến thế thì ông không đau đớn, tủi nhục đến vậy. Ông căm thù những kẻ theo Tây, phản bội làng, ông nắm chặt hai tay lại mà rít lên: “Chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này”. Tiếng rít đắng cay ấy là tiếng nói của lòng căm hờn, sự căm giận đang ngùn ngụt trong lòng ông Hai. Niềm tin, nỗi ngờ vực giằng xé trong ông. Ông kiểm điểm lại từng người trong óc, thấy họ đều có tinh thần cả “có đời nào lại cam tâm làm điều nhục nhã ấy”.. Nỗi nhục nhã, mặc cảm phản bội hành hạ ông lão đến khổ sở: ”Chao ôi! Cực nhục chưa, cả làng Việt gian! Rồi đây biết làm ăn buôn bán ra sao? Ai người ta chứa. Ai người ta buôn bán mấy. Suốt cả cái nước Việt Nam này người ta ghê tởm, người ta thù hằn cái giống Việt gian bán nước…”. Tác giả đã để cho nhân vật trải qua từng cung bậc tâm lí, đẩy lên cao trào rồi bật ngược như vỡ òa ở phần sau. Ngẫm kĩ, ta thấy đối với người nông dân chất phác, tay lấm chân bùn thì cái tin làng theo giặc quả thật là cú sốc to lớn, là điều đau đớn và nặng nề mà họ phải chịu đựng.

Cả nhà ông Hai sống trong bầu không khí ảm đạm: “Gian nhà lặng đi, hiu hắt, ánh lửa vàng nhờ nhờ ở ngọn đèn dầu lạc vờn trên nét mặt lo âu của bà lão. Tiếng thở của ba đứa trẻ chụm đầu vào nhau ngủ nhẹ nhàng nổi lên, nghe như tiếng thở của gian nhà.” . Ông Hai ăn không ngon, ngủ không yên, lúc nào cũng nơm nớp, bất ổn trong nỗi tủi nhục ê chề. Thậm chí ông không dám nhắc tới, phải gọi tên cái chuyện phản bội là “chuyện ấy”. Ông tuyệt giao với tất cả mọi người, “không dám bước chân ra đến ngoài” vì xấu hổ. Và cái chuyện vợ chồng ông lo nhất cũng đã đến. Bà chủ nhà bóng gió đuổi gia đình ông, chỉ vì họ là người của làng theo Tây. Gia đình ông Hai ở vào tình thế căng thẳng. Ông Hai phải đối mặt với tình cảnh khó khăn nhất: “Thật là tuyệt đường sinh sống! [..] đâu đâu có người Chợ Dầu người ta cũng đuổi như đuổi hủi. Mà cho dẫu vì chính sách của Cụ Hồ người ta chẳng đuổi đi nữa, thì mình cũng chẳng còn mặt mũi nào đi đến đâu.”. Nỗi ám ảnh, day dứt nặng nề biến thành sự sợ hãi thường xuyên trong ông. Ông cảm thấy như mình mang nỗi nhục của tên bán nước Việt gian theo Tây. Từ chỗ một con người sống cởi mở, niềm nở, ông trở thành người khép nép, lo lắng. Tình thế của ông càng trở nên bế tắc, tuyệt vọng khi bà chủ nhà có ý đuổi gia đình ông với lý do không chứa người của làng Việt gian. Ông đau khổ không phải vì bị đuổi đi mà đau khổ vì lí do bị đuổi.

Tình yêu làng và tình yêu nước đã dẫn đến cuộc xung đột nội tâm căng thẳng ở ông Hai. Từ chỗ yêu tha thiết cái làng của mình, ông Hai đâm ra thù làng: “Về làm gì cái làng ấy nữa. Chúng nó theo Tây cả rồi. Về làng tức là bỏ kháng chiến. Bỏ Cụ Hồ… Và “nước mắt ông giàn ra”. Ông lại nghĩ đến cảnh sống nô lệ tăm tối, lầm than trước kia.Mâu thuẫn và tình thế của nhân vật đòi hỏi phải được giải quyết và ông Hai đã lựa chọn hướng giải quyết theo cách của ông. Rõ ràng tình yêu nước rộng lớn hơn tình yêu làng quê.Ông dứt khoát: "Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù". Một thái độ dứt khoát, một tình yêu mạnh mẽ nhưng không mù quáng. Tình yêu làng trong ông rất mãnh liệt, nhưng làng phải gắn với nước. Giờ đây, làng Chợ Dầu của ông theo Việt gian, tức là hại nước, hại cách mạng thì không thế yêu làng như xưa được nữa. Niềm đau, sự oán trách cũng như thái độ kiên quyết... tất cả, tất cả đều là biểu hiện sống động nhất của tình yêu nước trong ông Hai. Dù xác định như vậy nhưng ông Hai vẫn không dứt bỏ được tình cảm đối với làng Chợ Dầu nên càng day dứt. Phải am hiểu sâu sắc tâm lý của người nông dân Kim Lân mới diễn tả được đúng tâm trạng của ông Hai như vậy. 

Bao nỗi niềm của ông không biết giãi bày cùng ai đành trút cả vào những lời trò chuyện cùng đứa con thơ dại: "Nhà ta ở làng Chợ Dầu. Ủng hộ cụ Hồ con nhỉ?". Những lời đáp của con trẻ cũng là tâm huyết, gan ruột của ông Hai, một người lấy danh dự của làng quê làm danh dự của chính mình, một người son sắt một lòng với kháng chiến, với Cụ Hồ. Những lời tâm sự ấy thực chất là những lời ông tự nhủ với chính mình, khẳng định tình yêu sâu lặng với làng. Đó là lời thanh minh với Cụ Hồ, với anh em đồng chí và là lời tự nhủ của chính ông trong những lúc căng thẳng, thử thách.. Ông mong “anh em đồng chí biết cho bố con ông. Cụ Hồ trên đầu trên cổ soi xét cho bố con ông”. Những lời bộc lộ chân tình ấy là biểu hiện của tấm lòng trung thành tuyệt đốì với cách mạng, với kháng chiến mà biểu tượng là Cụ Hồ; cũng là thể hiện tình yêu đất nước thiết tha của ông Hai. Những lời thốt ra từ miệng con trẻ như minh oan cho ông, chân thành và thiêng liêng như lời thề đinh ninh vang lên từ đáy lòng ông. Tình cảm của một người nông dân nghèo đối với đất nước và kháng chiến thật sâu nặng và thiêng liêng: “chết thì chết có bao giờ dám đơn sai”.

Những diễn biến trong cảm xúc, tâm trạng, những suy nghĩ và cuộc đấu tranh nội tâm gay gắt của ông Hai trong những ngày nghe tin làng theo Tây chính là tình huống giúp Kim Lân khắc họa rõ nét hơn bức chân dung tinh thần và lòng yêu nước sâu nặng, tình yêu làng tha thiết của ông Hai. Ta bỗng hiểu hơn tại sao tác giả lại kể và tả tỉ mỉ những biểu hiện của tình yêu làng nơi ông Hai những ngày làng còn chưa bị đồn là theo Tây. Nó là sự đối nghịch với thái độ kiên quyết khi nghe tin làng làm Việt gian, là sự khẳng định mạnh mẽ tình yêu nước lớn lao trong ông. Tình yêu ấỵ không chỉ là bản năng mà đã trở thành ý thức của một công dân.

Lòng yêu nước của ông Hai được biểu hiện rõ hơn khi nghe tin cải chính là làng bị giặc tàn phá vì không theo Tây. Ông Hai như người vừa được hồi sinh. Một lần nữa, những thay đối cùa trạng thái tâm lí lại được khắc hoạ sinh động, tài tình: “Cái mặt buồn thiu mọi ngày bỗng tươi vui, rạng rỡ hẳn lên. Mồm bỏm bẻm nhai trầu, cặp mắt hung hung đỏ hấp háy…”. Ông khoe khắp nơi: “Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ Đốt nhẵn![…] Láo! Láo hết! Toàn là sai sự mục đích cả., “Tây nó đốt nhà tôi rồi ông chủ ậ. Đốt nhẵn.[… ] Ra láo! Láo hết, chẳng có gì sất. Toàn là sai sự mục đích cả!”. Đáng lẽ ra ông phải buồn vì cái tin ấy chứ? Nhưng ông đang tràn ngập trong niềm vui vì thoát khỏi cái ách “người làng Việt gian” Cái tin ấy xác nhận làng ông vẫn nhất quyết đứng về phía kháng chiến. Cái tin ấy khiến ông lại được sống như một người yêu nước, lại có thể tiếp tục sự khoe khoang đáng yêu của mình,… Đây quả là niềm vui kỳ lạ. Niềm vui mừng này thể hiện một cách đau xót và cảm động tinh thần yêu nước và cách mạng của ông Hai. Nhà bị giặc đốt nhưng ông không buồn tiếc vì đó là bằng chứng về lòng trung thành với cách mạng và kháng chiến. Đây là tình cảm đặc biệt của ông Hai, tình cảm chung của những người nông dân và nhân dân ta thời bấy giờ, trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Đối với họ lúc này, trước và trên hết là Tổ Quốc, vì Tổ Quốc họ sẵn sàng hi sinh cả tính mạng và tài sản của mình. Mâu thuẫn mà vẫn hết sức hợp lí, điểm này cũng là sự sắc sảo, độc đáo của ngòi bút miêu tả tâm lí nhân vật của nhà văn Kim Lân.

Tình yêu làng của ông Hai không đơn giản, hẹp hòi là tình yêu chỉ riêng đối với nơi ông sinh ra và lớn lên. Ê-ren-bua từng tâm đắc: “Tình yêu làng xóm trở nên tình yêu quê hương đất nước”. Và bởi thế, tình yêu làng của ông Hai gắn bó chặt chẽ với tình yêu nước với tinh thần kháng chiến đang lên cao của cả dân tộc. Đó cũng chính là biểu hiện chung của tình yêu đất nước của người nông dân Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp.

Người đọc sẽ không thể quên được một ông Hai quá yêu cái làng của mình như thế. Lúc ông nói thành lời hay khi ông nghĩ, người đọc vẫn nhận thấy rất rõ đặc điểm ngôn ngữ của vùng quê Bắc Bộ, của một làng Bắc Bộ: “Nắng này là bỏ mẹ chúng nó”, “không đọc thành tiếng cho người khác nghe nhờ mấy”, “Thì vườn”, “có bao giờ dám đơn sai”,… Đặc biệt là nhà văn cố ý thể hiện những từ ngữ dùng sai trong lúc quá hưng phấn của ông Hai. Những từ ngữ “sai sự mục đích cả” là dấu ấn ngôn ngữ của người nông dân ở thời điểm nhận thức đang chuyển biến, muốn nói cái mới nhưng từ ngữ chưa hiếu hết. Sự sinh động, chân thực, thú vị của câu chuyện phẩn nào cũng nhờ vào đặc điểm ngôn ngữ này. Trong tác phẩm, nhà văn cũng thể hiện rõ sự thông hiểu về lề thói, phong tục của làng quê. Kim Lân đã vận dụng những hiểu biết đó hết sức khéo léo vào việc xáy dựng tâm lí, hành dộng, ngôn ngữ nhân vật.

Truyện ngắn "Làng" đã rất thành công khi miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật ông Hai từ một tình huống có tính bất ngờ, căng thẳng, thử thách. Nội tâm nhân vật được miêu tả cụ thể gợi cảm và gây ấn tượng mạnh mẽ về sự ám ảnh day dứt. Ngôi kể mang đậm sắc thái nông thôn, góp phần khắc hoạ tính cách điển hình của nhân vật. Có được thành công này vì Kim Lân Không chỉ là một cây bút truyện ngắn vững vàng, đặc sắc mà còn rất am hiểu gắn bó với người nông dân ở nông thôn Việt Nam. Cốt truyện đơn giản, sức nặng lại dồn cả vào mạch diễn biến tâm trạng, vào lời thoại của nhân vật nên câu chuyện có sức hấp dẫn riêng, ấn tượng riêng, độc đáo.Từ diễn biến tâm trạng của nhân vật ông Hai, nhà văn ca ngợi tình cảm yêu làng yêu nước bền chặt sâu sắc trong ngày đầu kháng chiến. Nhân vật ông Hai trở thành nhân vật điển hình của người nông dân Việt Nam. 

Tình yêu làng, yêu nước, hòa quyện trong tâm hồn người nông dân mộc mạc, chất phác thật đẹp biết bao. Làng của Kim Lân là một khúc ca về tình yêu quê hương đất nước mà những người lao động nghèo là những thanh âm trong trẻo, réo rắt nhất, để lại bao dư âm lắng đọng trong lòng độc giả. Nhà văn đã giúp ta hiểu, yêu mến và khâm phục biết bao những người nông dân bình dị, chất phác mà lại có lòng yêu nước thiết tha cao cả. 

 

 

 

 

Cảm nhận của em về vẻ đẹp của nhân vật Anh thanh niên trong tác phẩm “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long

    


 Có những trang sách đi suốt đời vẫn nhớ. Có những tác phẩm vẫn tồn tại bền bỉ tựa dòng suối chảy mãi trong tâm hồn bao thế hệ hôm qua, hôm nay và ngày mai. “Lặng lẽ Sa pa” chính là một trong số đó. Trong tác phẩm là một thế giới được nhà văn phác họa một cách nhẹ nhàng mà lắng đọng, đẹp đẽ mà không khoa trương, giản dị mà chẳng kém phần tinh tế. Nguyễn Thành Long đã dẫn lối ta đến với xứ sở của những con người lao động miệt mài mà thầm lặng. Nhân vật anh thanh niên chính là biểu tượng cho phẩm chất và con người ở miền đất ấy.

Nguyễn Thành Long được đánh giá là cây bút đầy cuốn hút, chuyên viết về truyện ngắn và kí. Thước phim mang tên “Cuộc đời” của ông là những năm tháng lặng lẽ sống, lặng lẽ viết và lặng lẽ ra đi. Những tác phẩm của Nguyễn Thành Long có lối viết nhẹ nhàng, trong trẻo, thơ mộng pha chất kí, giàu chất trữ tình và đậm chất thơ. “Lặng lẽ Sa Pa” sáng tác năm 1970 trong chuyến đi thực tế Lào Cai, in trong tập “Giữa trong xanh” là truyện ngắn tiêu biểu cho phong cách ấy. Trong truyện, ta bắt gặp những trang đời, ta thấm nhuần vẻ đẹp của những con người lao động hăng say mà thầm lặng. Tiêu biểu là nhân vật anh thanh niên ngời sáng với những phẩm chất tốt đẹp.

Anh thanh niên là một chàng trai 27 tuổi, cái tuổi sôi nổi, yêu đời và khát khao được cống hiến cho đời. Anh sống và làm việc một mình ở đỉnh núi Yên Sơn cao 2600m với rừng xanh, mây trắng, bão tuyết và sương rơi. Anh làm công tác khí tượng kiêm vật lý địa cầu. Công việc mỗi ngày của anh là “đo gió, đo mưa, đo nắng, tính mây, đo trấn động mặt đất”. Nhằm dự vào việc báo trước thời tiết hàng ngày phục vụ sản xuất và chiến đấu, Đó là công việc đòi hỏi sự tỉ mỉ, chính xác, kiên nhẫn và có tinh thần trách nghiệm cao. Chính hoàn cảnh sống đặc biệt ấy lại là “chiếc đòn bẩy” nâng tầm cho ý chí sắt đá, nghị lực phi thường của anh thanh niên được nổi bật và neo giữ mãi trong trái tim người đọc.

 Anh thanh niên là một người nhiệt thành, yêu nghề và có tinh thần trách nhiệm cao. Anh tự nguyện chấp nhận sống trên đỉnh núi cao vời vợi, thiếu vắng thanh âm của con người và phải một mình chống chọi, vượt qua sự khắc nghiệt của thời tiết. Đối với công việc, anh yêu và say mê nó đến nổi khi người ta còn ái ngại cho cuộc sống ở độ cao 2600m của anh thì anh lại mơ ước được làm việc trên đỉnh Phan-xi-băng cao đến 3142m. Bởi với anh “làm khí tượng ở độ cao thế mới là lí tưởng”.

Anh còn có những chiêm nghiệm đúng đắn và sâu sắc về mối liên kết giữa công việc với con người. Với anh, công việc như một người bạn tri âm tri kỉ song hành cùng ta đi qua những nốt thăng trầm: “Khi ta làm việc, ta với công việc là đôi, sao gọi là một mình được”. Anh đâu xem công việc của mình là những nhiệm vụ khô khan và nhạt nhẽo. Công việc với anh là lí tưởng, là nguồn vui, dẫu nó thật gian khổ, thật cô độc nhưng “cất nó đi cháu buồn chết mất”. Chan chứa trong những câu nói ấy là biết bao tình yêu, bao nỗi niềm say mê của người thanh niên trẻ. Anh còn tìm ra ý nghĩa của công việc thầm lặng ấy. Anh hiểu rằng công việc của mình gắn bó với biết bao tâm sức của những anh em đồng chí dưới kia, là mắt xích quan trọng trong sự nghiệp “phục vụ sản xuất, phục vụ chiến đấu”. Khi biết việc mình phát hiện được một đám mây khô đã góp phần vào chiến thắng của không quân ta trên cầu Hàm Rồng, anh thấy “thật hạnh phúc” biết nhường nào.

Cũng chính vì yêu tha thiết công việc nên ở anh còn có những hành động đầy trách nhiệm. Dẫu làm việc một mình, chẳng có ai đôn đốc hay giám sát, anh vẫn luôn tự giác, nghiêm túc và tận tụy với nghề. Có là ngày hay đêm, mưa tuyết hay rét lạnh, anh thanh niên vẫn chẳng nề hà vất vả, không bỏ qua bất kỳ một giờ “ốp” nào. Anh luôn cố gắng hoàn thành xuất sắc công việc của mình với tác phong khoa học, nghiêm túc và chính xác. Nói sao hết những niềm vui mừng, hạnh phúc, sung sướng, tự hào về công việc của anh.Chính từ niềm vui trong công việc, anh càng cảm thấy yêu đời, yêu công việc của mình hơn bao giờ hết.

Ở anh toát lên lối sống giản dị, lạc quan và yêu đời. Tuy được ví như “người cô độc nhất thế gian”, tuy phải sống một mình trong điều kiện thiếu thốn trăm bề nhưng anh thanh niên không hề buông thả bản thân hay cảm thấy chán nản và buồn tẻ. Anh tự tạo ra âm hưởng của niềm vui trong bản hòa tấu mang tên “Cuộc sống” của anh. Anh thanh niên trồng đủ những loại hoa như “hoa dơn, hoa thược dược, vàng, tím, đỏ, hồng phấn”. Người ta cứ ngỡ bức họa về cuộc sống nơi đỉnh núi cao vời vợi ấy sẽ chỉ độc nhất mảng màu lạnh lẽo, xám xịt của mây trời bạt ngàn và màn sương dày đặc. Nhưng anh thanh niên đã chấm phá cho ngôi nhà nhỏ của mình bao sắc màu ấm áp và rạng ngời. Anh còn nuôi gà, nuôi ong để làm phong phú nguồn lương thực và làm những món quà nho nhỏ gửi trao những vị khách hiếm hoi.

Anh thanh niên còn tìm đến sách như một người bạn tâm giao cùng anh chuyện trò, cùng nương tựa vào nhau để vượt qua sự vắng lặng kéo dài từ ngày này qua tháng nọ. Nhờ có sách, anh có thể tự trau dồi thêm tri thức cho bản thân và làm giàu thế giới quan của mình. Không chỉ sắp xếp, tổ chức công việc một cách khoa học, chính trong gian nhà nhỏ của anh cũng toát lên vẻ gọn gàng, ngăn nắp. Anh làm việc, ăn uống, nghỉ ngơi, đọc sách, đọc báo như một người đang sống và làm việc giữa lòng thành phố, với mọi người, chứ không phải riêng mình anh. Không gian sống của người thanh niên trẻ đã gieo vào trái tim ông hoạ sĩ bao xúc cảm trầm trồ và ngỡ ngàng. Những giọt nắng ấm nóng của tinh thần lạc quan đã sưởi ấm cõi lòng anh trong khí trời lạnh lẽo và thoáng đãng của thiên nhiên Sapa. Chính tình yêu tha thiết dành cho cuộc đời đã trở thành điểm tựa vững bền giúp anh chủ động bước tiếp về phía trước, vượt qua hết thảy những gian truân, vất vả của hoàn cảnh sống đặc biệt. Từ ấy, anh tìm được niềm vui, hạnh phúc và ý nghĩa trong những điều nhỏ nhặt...

Tâm hồn anh vẫn luôn gần gũi, vẫn ấm nóng, chân thành, cởi mở và hiếu khách biết chừng nào.  Anh “thèm người”, “thèm nghe chuyện dưới xuôi” và khao khát được bên người, được cùng người trao nhau ánh mặt và chuyện trò cùng người. Chính vì lẽ đó, anh liền bày kế lấy những khúc thân cây chắn ngang đường để dừng lại những chiếc xe hiếm hoi. Niềm hưng phấn khi được chào đón những vị khách cứ dào dạt trong anh, toát lên qua “nét mặt rạng rỡ”. Phải chăng vì đã lâu không được gặp người nên anh cứ luống cuống cả lên chẳng kiềm được cảm xúc rồi cứ tất tả chạy ngược chạy xuôi.

Anh gửi trao những quan tâm chân thành và chu đáo đến mọi người. Chỉ thoáng nghe qua lời kể từ bác lái xe rằng bác gái vừa ốm dậy, anh đã chủ động đi đào củ tâm thất một cách âm thầm để biếu bác dẫu chẳng có ai nhờ cậy anh làm. Đâu chỉ dừng lại ở đó, anh thanh niên còn vô cùng thân thiện, cởi mở với những người chỉ mới gặp lần đâu. Anh niềm nở tiếp đón bác hoạ sĩ cùng cô kĩ sư lên thăm nhà. Bó hoa cho cô gái vào lần đầu gặp gỡ, nước chè cho ông hoạ sĩ già và làn trứng ăn dọc đường cho hai bác cháu.Anh hồ hởi và thích giao tiếp, anh nói “những điều đáng lẽ người ta chỉ nghĩ. Cũng là những điều ta ít nghĩ”.

Anh hồn nhiên kể về công việc, về những người đồng nghiệp và cuộc sống thường nhật của anh. Với anh thanh niên, từng khoảnh khắc tít tắc trôi qua được trò chuyện với những người mà anh chỉ mới gặp thôi cũng thật quý giá biết bao. Khoảnh khắc ấy, anh thổ lộ những điều bám rễ trong lòng mà rất lâu rồi anh mới có dịp tâm sự cùng người. Bởi thế, anh cứ đếm từng giây từng phút trôi qua và lo sợ sẽ hoài phí 30 phút gặp gỡ ngắn ngủi mà quý giá. Sự cởi mở, những lời tâm sự chân thành của anh thanh niên đã giúp xóa bỏ khoảng cách với người anh tiếp xúc, tạo mối tâm giao đầy thân tình, cảm động.

Thế nhưng, anh lại rất khiêm tốn. Công việc của anh thanh niên có vị trí quan trọng trong sự nghiệp chuyển mình của đất nước. Anh rất thành thực cảm thấy những điều anh làm thật nhỏ bé biết bao so với người khác. Anh chỉ dành 5 phút ngắn ngủi để nói về bản thân, về công việc và cuộc sống của anh. Tác giả như muốn nhấn mạnh sự chênh lệnh về thời gian để làm nổi bật phẩm chất khiêm tốn của anh. Khi ông hoạ sĩ muốn vẽ kí họa về anh, anh thật tình bối rối, cảm thấy bản thân không có gì đáng để một họa sĩ ghi lại: “Không, không, đừng vẽ cháu! Để cháu giới thiệu với bác những người khác đáng để bác vẽ hơn”. Đó là ông kĩ sư vườn rau ngày đêm miệt mài và kiên nhẫn để đem đến cho nhân dân xứ Bắc những củ su hào ngon ngọt và to hơn. Đó là đồng chí nghiên cứu bản đồ sét quanh năm suốt tháng bám trụ nơi cơ quan và luôn giữ vững tư thế sẵn sàng trong công việc. Anh thấm thía cái nghĩa, cái tình của xứ sở Sa pa, thấm thía sự hi sinh của “những nốt nhạc trầm” trong bài ca lao động.

Trái tim của anh luôn rạo rực một ngọn lửa khát vọng, khát vọng được sống đẹp, sống có ý nghĩa, sống có ích cho đất nước, cho mọi người. Đất nước có chiến tranh, anh xin ra trận. Không được ra trận, anh vẫn tận tụy làm thật tốt công việc. Hạnh phúc của người con trai ấy chẳng phải là ái tình tuổi trẻ, được giàu sang hay quyền lực. Hạnh phúc với anh là được làm việc, được cống hiến cho đất nước. Hạnh phúc khi ấy đã vượt ra ngoài biên giới của nó, không chỉ bó hẹp trong từng cá nhân mà lan tỏa đến những người khác, có ý nghĩa với nhiều người. Phải chăng một trong số những ẩn ý của tác giả qua việc không đặt tên riêng cho nhân vật chính mà lại gọi anh là “anh thanh niên” bởi anh đại diện cho tầng lớp các bạn trẻ đang ngân vang giai điệu bất diệt của lí tưởng sống cao cả, lao động quên mình vì Tổ quốc. Dừng chân trên thi đàn văn học, ta bắt gặp những hồn thơ mang âm hưởng sâu sắc về lí tưởng sống, lòng nồng nàn yêu nước của thanh niên trẻ. Một trong số đó là thi phẩm “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm:

“Có biết bao người con gái, con trai

Trong bốn ngàn lớp người giống ta lứa tuổi

Họ đã sống và chết

Giản dị và bình tâm

Không ai nhớ mặt đặt tên

Nhưng họ đã làm ra Đất Nước.”

“Lặng lẽ Sa pa” đã đạt được nhiều thành công trong phương diện nghệ thuật. Cốt truyện đơn giản không có những thanh âm kịch tính, hối hả. Tác phẩm như dòng suối tĩnh lặng, nhẹ nhàng chảy trôi vào đời, đi qua những ngõ ngách trong trái tim người đọc và cứ thế lắng đọng nơi sâu thẳm cõi lòng. Cách xây dựng tình huống truyện hợp lí, tự nhiên, độc đáo và đặc sắc, đó là cuộc gặp gỡ bất ngờ của những nhân vật. Trong 30 phút ngắn ngủi ấy, tác giả đã thật tài tình khi vận dụng cách kể chuyện giản dị, cách miêu tả con người và cảnh vật dưới nhiều điểm nhìn. Thành công nổi bật của tác phẩm là việc chung hòa giữa tự sự, bình luận và trữ tình. Với ngôn ngữ đậm chất hội hoạ, thiên truyện có dáng dấp như một bài thơ. Khiến ta ngây ngất trong chất men say trữ tình lãng mạn của một thiên nhiên nên thơ đến những con người làm việc lặng lẽ, quên mình vì Tổ quốc.

Tô Hoài từng nhận xét: “Mỗi truyện ngắn của Nguyễn Thành Long tương tự một trang đời, một mảng, một nét của cuộc sống chắt ra. Ta thường gặp ở Nguyễn Thành Long những nhận xét nho nhỏ, như nhắc khẽ người đọc.”. Đến với “Lặng lẽ Sa pa”, ông đã gửi trao bao suy tư, chiêm nghiệm sâu sắc rằng Sapa lặng lẽ nhưng không tầm thường, Sapa mà người ta cứ nghĩ tới việc sẽ đến dừng chân để nghỉ ngơi, để tịnh dưỡng tâm hồn sau những giây phút oằn mình trong guồng quay của cuộc sống. Ở mảnh đất đó, có những con người đang thầm lặng dâng hiến thanh xuân và sức trẻ cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Tác giả đã thực sự phác họa thành công chân dung của nhân vật anh thanh niên, một chân dung tuy chỉ kí họa trong mấy mươi phút nhưng vẫn có những vẻ đẹp sống mãi trong tiềm thức người độc giả.

Nguồn: thichvanhoc

Cảm nhận về nhân vật ông Sáu trong truyện ngắn "Chiếc lược ngà"

 


Tình phụ tử là thứ tình cảm thiêng liêng và máu thịt, là động lực để mỗi người neo đậu tâm hồn mình.Cha luôn làm tất cả vì con, luôn hi sinh thầm lặng để đánh đổi hạnh phúc cho con. Viết về tình phụ tử - đó là đề tài quen thuộc của biết bao nhà văn, nhà thơ. Cùng góp vào đề tài ấy, Nguyễn Quang Sáng thành công với tác phẩm "Chiếc lược ngà". Đến với truyện ngắn “Chiếc lược ngà” ta sẽ cảm nhận được vẻ đẹp, sự hi sinh của người cha.Trong truyện, tác giả xây dựng thành công hình tượng ông Sáu: Người cha lúc nào cũng hi sinh vì gia đình, yêu thương con đặc biệt trong thời chiến.

Nguyễn Quang Sáng là cây bút tiêu biểu của mảnh đất Nam Bộ. Với vốn sống, sự gắn bó am hiểu sâu sắc về mảnh đất quê hương nên hầu hết các tác phẩm của ông đều viết về cuộc sống con người Nam Bộ trong chiến tranh cũng như sau hòa bình. "Chiếc lược ngà" là tác phẩm tiêu biểu của ông.

Truyện ngắn "Chiếc lược ngà" được Nguyễn Quang Sáng viết năm 1966 tại chiến trường Nam Bộ trong những năm kháng chiến chống Mĩ đang diễn ra ác liệt. Mặc dù viết về người lính trong chiến tranh nhưng "Chiếc lược ngà" lại không viết về người lính trên mặt trận mà viết về góc thẳm riêng tư của họ - tình cảm gia đình, tình cha con. Ông Sáu là nhân vật chính trong tác phẩm. Trong đoạn trích, nhân vật ông Sáu được đặt vào tình huống bất ngờ, gặp lại con sau tám năm xa cách nhưng con không nhận ông là ba. Đến lúc con nhận ra ba thì cũng là lúc ông Sáu phải lên đường. Trở lại căn cứ, ông dồn hết tình cảm nhớ thương làm cho con chiếc lược ngà nhưng khi cây lược hoàn thành thì ông lại hi sinh. Đặt nhân vật vào tình huống kịch tính bất ngờ như vậy, tác giả đã làm nổi bật tình yêu thương con thiết tha, sâu nặng của ông Sáu - người chiến sĩ cách mạng.

Vẻ đẹp của nhân vật ông Sáu mà người đọc cảm nhận trước hết là vẻ đẹp của người lính Cách mạng. Kháng chiến bùng nổ, ông Sáu từ giã những gì thân thương nhất: con thơ, vợ trẻ lên đường làm Cách mạng. Khi ông ra đi, bé Thu, con gái đầu lòng, cũng là đứa con gái duy nhất của ông chưa đầy một tuổi. Vậy mà, đằng đẵng suốt những năm kháng chiến, ông không một lần về thăm con, bởi với những người lính “đâu có giặc là ta phải đi”. Họ đã gác tình riêng, vì nghĩa lớn để rồi ngày kháng chiến thắng lợi, ông được nghỉ phép về thăm nhà, thăm con. Trong lợi to lớn của dân tộc, có phần xương máu mà ông Sáu đóng góp.

Cảm động nhất, để lại ấn tượng nhiều nhất cho người đọc trong hình ảnh người cha chiến sĩ ấy chính là tình phụ tử thiêng liêng, sâu đậm –tình yêu thương mà ông Sáu dành cho đứa con gái.

Trong khói lửa chiến tranh, tình yêu của ông Sáu con vẫn rực sáng hơn bao giờ hết. Trong thời kỳ máu lửa căng thẳng của lịch sử, bất kỳ người thanh niên nào cũng không thể ngồi yên nhìn đất nước bị quân giặc giày xéo. Ông Sáu cũng vậy. Tuy lấy vợ chưa được bao lâu nhưng ông đã phải giã từ gia đình lên đường nhập ngũ theo tiếng gọi của tổ quốc. Ông đi lính khi đứa con đầu lòng- bé Thu chưa đầy một tuổi. Ông chiến đấu không chỉ vì đất nước mà còn vì để bảo vệ cuộc sống của những người thân mà ông yêu quý. Những ngày ở chiến khu cứ thế trôi qua trong nỗi nhớ nhà dai dẳng, đau đáu khôn nguôi. Nỗi mong nhớ con da diết mà chưa một lần tận mắt nhìn ngắm, vỗ về con khiến ông nôn nao buồn. Ông chỉ nhìn con qua tấm ảnh vợ mình mang tới, nỗi niềm gặp con, mong được nghe con gọi một tiếng “ ba” luôn thường trực trong lòng ông.Đối với ông, ba ngày nghỉ phép xuất hiện như một phép màu, một cơ hội quý giá để ông được về với gia đình, đặc biệt là về với đứa con mà ông chưa từng được ôm hôn nó lần nào. Về thăm quê, đó là cơ hội hiếm có để ông xoa dịu nỗi niềm nhung nhớ.Giờ đây ông có thể nhìn thấy đứa con mà ông chỉ mới nhìn mặt nó qua mấy tấm ảnh trắng đen. Nghĩ đến giây phút đó thôi bao cảm xúc đã trào dâng. Tác giả là người đồng chí- bác Ba thân thiết của ông nên những dòng cảm xúc, tâm trạng được tái hiện một cách chân thực qua việc quan sát tỉ mỉ.

Thăm nhà, thăm con, biết bao nhớ mong, yêu thương, "cái tình người cha cứ nôn nao trong người anh". Niềm vui xốn xang làm ông Sáu khi ông bắt gặp đứa trẻ tầm tám tuổi đang chơi ở nhà chòi. Linh cảm người cha mách bảo, đứa nhỏ đó chính là đứa con bé bỏng. Một loạt động từ liên tiếp cho thấy niềm xúc động mạnh mẽ của ông: “ vội vàng với những bước dài, vừa bước vừa khom người, không ghìm nổi xúc động, chầm chậm bước tới...”. Rồi gọi con, giọng lặp bặp run run, khom người dang tay đón chờ con. Biết bao tình yêu ông đổ dồn trong hai tiếng gọi “Thu! Con” thân thương ấy. Nhưng niềm vui sướng, hồ hởi ấy được đáp lại bằng sự sợ hãi của con bé, nó bỏ chạy. Chi tiết đặc biệt cái thẹo xuất hiện nó “ đỏ ửng lên, giần giật, trông rất dễ sợ”, có lẽ điều đó làm bé Thu hoảng sợ mà ông không hay biết. Còn gì đau đớn hơn khi con không nhận ra mình, nỗi đau quặn thắt trong lòng làm ông không khỏi thất vọng: “trông anh thật đáng thương và hai cánh tay buông xuống như gãy”. Nhà văn Nguyễn Quang Sáng với lối trần thuật tài hoa khi đẩy mâu thuẫn truyện ngay từ phút đầu hai cha con gặp nhau tạo nên ấn tượng sâu sắc.

Trong những ngày nghỉ phép, ông Sáu chẳng đi đâu xa, lúc nào cũng vỗ về con, mong được nghe tiếng gọi ba của con bé. Một điều dường như là hiển nhiên đối với những gia đình bình thường khác thì đối với ông Sáu lại là một điều vô cùng khó khăn.Có lẽ ông mong rằng với khoảng thời gian ngắn ngủi có thể bù đắp phần nào những mất mát của nó nhưng bé Thu đâu biết trân trọng điều đó. Ông Sáu dành hết thời gian, tâm tư vào việc đối xử với con để phần nào bù đắp khoảng thời thời gian khi mình không ở cạnh con. Nhưng ông càng vô về con bé càng đẩy ra. Ông càng tìm cách gần gũi nó thì nó càng phản ứng quyết liệt và kiên quyết đẩy ông ra xa. Bé Thu cương quyết không chấp nhận sự quan tâm của ông, không hề lay chuyển tình cảm và càng không đồng ý gọi ông Sáu là ba. Ông càng mong một tiếng “ ba” của con bé thì nó chẳng bao giờ chịu gọi. Dù mẹ nó hay những người xung quanh có nói gì thì con bé cũng nhất quyết không gọi ba. Không biết gọi ông Sáu là gì nên thành ra nó cứ nói trổng như khi kêu ông vào ăn cơm hay khi nhờ ông chắt nước nồi cơm.Ông Sáu không hiểu nổi thái độ của con, nhiều khi buồn quá không khóc ra được nên anh đành cười vậy thôi. Ông không giận mà chỉ thương con. Ông Sáu hiện ra không chỉ thương yêu mà còn bao dung. Bởi lẽ ông hiểu con bé còn nhỏ, và chính ông cũng có lỗi khi không kề bên con trong ngần ấy năm cuộc đời của con nên ông hiểu vì sao con bé lại hành động lại đối xử với ông như người xa lạ.

Đỉnh cao của mối quan hệ này là trong bữa cơm, khi ông Sáu gắp cho bé Thu cái trứng cá vào bát nó, Thu đã hất mạnh cái trứng đi khiến cơm văng tung tóe khắp nơi. Không nén được cơn giận, ông đã vung tay đánh bé Thu. Ông đánh bé Thu không phải là vì ông không thương con nữa mà ẩn sâu cái đánh ấy một sự bất lực của trái tim. Dường như ông càng cố gắng gần con hơn thì ông lại càng xa con hơn. Ông bế tắc trong việc thể hiện tình yêu thương con và không biết làm sao để đứa con hiểu được lòng mình. Và thời gian cũng không còn cho phép ông có thể ở lại chờ nhận đực tiếng gọi ba. Lúc trước đã không, bây giờ thì cơ hội lại càng mong manh hơn. Ông đánh con nhưng ông lại chính là người đau đớn hơn cả.

Nhưng cuối cùng người cha ấy cũng được hưởng niềm hạnh phúc khi được ôm con vào lòng, được nghe tiếng gọi ba. Tiếng gọi ba mà ông hằng tha thiết khao khát được vang lên trong giây phút cuối cùng của cuộc hội ngộ. Ông Sáu lại phải chia tay gia đình trở về kháng chiến. Có lẽ nếu tiếng gọi ấy không vang lên sẽ trở thành nuối tiếc lớn nhất cuộc đời của ông Sáu và cả bé Thu nữa. Bởi lẽ “cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi”, mấy người đi biết có trở về, biết đâu đây là lần gặp cuối. Ông Sáu sẽ mãi hối tiếc vì không được nghe tiếng gọi thân thương thiêng liêng. Cuối cùng may mắn đã mỉm cười với hai con người này. Cuối cùng mọi chuyện đã vỡ lẽ ra. Thu không nhận ông Sáu vì người cha mà con bé xem hình không có vết sẹo dài trên mặt. Nó không hận không oán trách cha nó khi ông không ở bên cạnh nó trong những ngày tháng thơ bé, nó luôn yêu thương trân quý bức hình của cha nó. Chính vì yêu thương nên nó không thể chấp nhận một người có ngoại hình khác với bức ảnh làm cha. Nhưng khi hiểu ra vết sẹo ấy là do chiến tranh gây ra, đó chính là người cha mà nó hằng mong đợi bấy lâu thì mọi cảm xúc vỡ òa. Bức tường thành kiên cố trong lòng nó cũng sụp đổ, chỉ còn tình yêu thương. Nó cất tiếng gọi ba. Còn ông Sáu cũng hạnh phúc đến rơi nước mắt. Đó không phải là giọt nước mắt tủi hờn mà là giọt nước mắt hạnh phúc. Hạnh phúc vì cuối cùng ông cũng được nghe con gọi cha, hạnh phúc vì cuối cùng ông cũng cảm nhận được tình yêu thương. Tình yêu thương là một sợi dây mong manh vô hình có thể mong manh dễ bị tác động nhưng nó vô cùng bền chặt. Điển hình chính là tình yêu thương của bé Thu và ông Sáu. Càng kiên định bao nhiêu trong việc không nhận ông Sáu làm cha thì lại càng yêu thương bấy nhiêu khi nhận ra cha. Con bé không nỡ rời xa người cha mà nó vừa nhận ra. Ông Sáu cũng vậy, ông cũng muốn ở lại bên cạnh con tận hưởng thêm chút tình yêu thương gia đình mà ông vừa nhận được.

Ba ngày nghỉ phép tuy ngắn ngủi nhưng với tình hình kháng chiến của đất nước hiện tại thì đó là một khoảng thời gian đặc biệt quý giá. Tuy rất yêu thương con nhưng ông cũng phải gác lại tình yêu thương ấy để lên đường hoàn thành nhiệm vụ sứ mệnh với đất nước. . Khoảnh khắc bé Thu gọi cha tuy ngắn ngủi nhưng đã là một động lực to lớn để ông có thể tiếp tục chiến đấu hết mình đất nước.

Tình yêu thương con da diết đến cả phút cuối cuộc đời của ông Sáu. Rời xa con, rời xa gia đình đi chiến đấu nhưng anh luôn hướng về quê nhà về gia đình. Gia đình trở thành nguồn sức mạnh to lớn động viên anh ngày ngày chiến đấu chống ngoại xâm. Những ngày tháng ở chiến khu cũng là lúc tình yêu thương của ông Sáu dành cho con bộc lộ rõ nét nhất.

Khi trở lại căn cứ, ông Sáu mang theo tâm trạng vừa nhớ con vừa ân hận vì đã trót đánh con. Trước khi đi, bé Thu có nói muốn ông tặng cho một chiếc lược ngà. Lời nói vô tư của trẻ con ấy lại khiến ông khắc cốt ghi tâm. Ao ước của con dần dần cũng trở thành ước nguyện của ông. Ông dồn tất cả tình cảm ấy vào việc làm cho con một cây lược - hoàn thành lời hứa buổi lên đường. Khi kiếm được khúc ngà - mặt ông hớn hở như đứa trẻ được quà. Anh lấy vỏ đạn hai mươi li làm thành một cây cưa nhỏ cưa khúc ngà thành từng miếng nhỏ. Những lúc rảnh rỗi, ông cưa từng chiếc răng lược, thận trọng, tỉ mỉ và cố công như người thợ bạc. Hình ảnh ông ngồi khắc chữ lên chiếc lược có lẽ là hình ảnh đẹp nhất của câu chuyện. Không bao lâu, cây lược hoàn thành, ông tỉ mẩn khắc từng nét: "Yêu nhớ tặng Thu con của ba". Dòng chữ cô đọng nhưng đã thể hiện sâu sắc tình cảm của ông dành cho bé Thu. Chiếc lược xét về vật chất không đáng giá nhưng xét về tình cảm tinh thần thì nó vô cùng quý giá không gì có thể thay thế được bởi nó được làm từ tình yêu thương vô bờ bến của người cha dành cho con.

 Nhưng chiến tranh ác nghiệt đã cướp mất mạng sống của ông Sáu, cướp đi cơ hội được gặp lại con lần nữa. Ông Sáu lại hi sinh. Trước lúc hi sinh, "hình như chỉ có tình cha con là không thể chết được", anh đưa tay vào túi, móc cây lược, đưa cho bác Ba và nhìn một hồi lâu. Chỉ đến khi bác Ba hứa sẽ mang về trao tận tay cho con gái thì ông mới nhắm mắt đi xuôi. Di nguyện trước khi chết của ông Sáu chính là có thể trao chiếc lược ấy đến tay Thu. Đến phút cuối của cuộc đời ông vẫn luôn nhớ vẫn luôn yêu thương bé Thu. Bom đạn giết chết thân xác ông chỉ có tình yêu thương chân thành, cao cả của ông Sáu là bất tử.

Dù ông Sáu có hi sinh nhưng tình yêu ông dành cho bé Thu vẫn vẹn nguyên tuyệt đẹp. Tình cảm ấy cũng chính là động lực cho bé Thu cố gắng hơn và tiếp nối sự nghiệp cách mạng của ông. Tác phẩm không chỉ đề cao tình cảm cha con mà còn lên tiếng phê phán tố cáo chiến tranh phi nghĩa đã làm cho biết bao gia đình tan vỡ, chia lìa.

Tác phẩm đã khắc họa thành công tình cảm thiêng liêng cao quý của ông Sáu và bé Thu. Việc lựa chọn ngôi kể, điểm nhìn trần thuật phù hợp với tình huống truyện tự nhiên, kịch tính bất ngờ có tính chất đảo ngược tình thế đã tạo nên hiệu ứng hấp dẫn cho câu chuyện. Câu chuyện qua lời kể của Bác Ba trở nên xúc động hơn, chân thật hơn. Ngôn ngữ kể chuyện mang đậm màu sắc Nam Bộ có sự chắt lọc giản dị nhưng thấm đẫm hơi thở cuộc sống. Đặc biệt là chi tiết chiếc lược ngà có thể nói là chi tiết đắt nhất của câu chuyện đã chuyển tải thành công vẻ đẹp của tình cha con thiêng liêng cao cả.

Ông Sáu là đại diện tiêu biểu về một người chiến sĩ anh dũng đồng thời còn là một người cha có tình yêu thương con vô bờ bến. "Chiếc lược ngà" là câu chuyện cổ tích thời hiện đại: tác phẩm vừa giúp ta thêm trân trọng tình cảm gia đình vừa khiến ta hiểu sâu sắc hơn về những người lính cách mạng, họ không chỉ dũng cảm, kiên cường mà họ còn giàu tình cảm yêu thương. Ta nhận ra tình cha con thiêng liêng sâu sắc biết nhường nào. Tình phụ tử cũng như những tình cảm gia đình khác đều trở thành mạch nguồn của tình yêu quê hương đất nước. Đó là nơi dựa, là điểm tựa tinh thần cho mỗi người…

Cảm nhận về nhân vật bé THU

 


Cha là bóng cả ngã che con

Là suối tình thương không bao giờ vơi cạn. (Ca dao)

Quả thật, nếu tình mẫu tử ngọt ngào, bao la như biển khơi, ôm ấp và vỗ về thì tình phụ tử càng thiêng liêng và cao cả gấp bội. Đề tài về tình cảm gia đình, cụ thể là về tình phụ tử luôn chiếm một vị trí quan trọng và ý nghĩa đối với bản thân người sáng tác lẫn độc giả. Trong văn học Việt Nam hiện đại, nhà văn Nguyễn Quang Sáng đã thể hiện thành công tình phụ tử cao cả, đặt nó trong thời khắc bùng nổ của chiến tranh và từ đó biết bao cảm xúc được cất lên thành lời, làm lay động biết bao bạn đọc. Tác phẩm ấy đi theo cùng tháng năm có tên: Chiếc Lược Ngà. Có thể nói, “Chiếc lược ngà” là một lát cắt nho nhỏ của đời sống, nó viết về tình phụ tử sâu nặng của cha con ông Sáu sau chiến tranh. Đây là một truyện ngắn giản dị nhưng chứa đầy sức bất ngờ như ta thường thấy ở văn của Nguyễn Quang Sáng. Và nhân vật bé Thu trong truyện ngắn này sẽ giúp người đọc cảm nhận rõ nét về tình phụ nữ thiêng liêng cao cả biết bao…

Nguyễn Quang Sáng là nhà văn, là chiến sĩ trưởng thành trong kháng chiến chống Pháp. Có lẽ vì sinh ra, lớn lên và hoạt động chủ yếu ở chiến trường miền Nam nên các tác phẩm của ông hầu như chỉ viết về cuộc sống và con người Nam Bộ trong hai cuộc kháng chiến cũng như sau hoà bình. Đặc biệt, một truyện ngắn xúc động và giản dị về tình cảm gia đình được in vào sách giáo khoa và đã trải qua bao lần kiến giải, tiếp nhận từ các bạn đọc trẻ tuổi đó chính là truyện ngắn “Chiếc lược ngà”.

Đoạn trích trong sách giáo khoa đã cho thấy một khoảnh khắc nhỏ mà trong đó có sự cao cả thiêng liêng về tình phụ tử. Ông đã thể hiện trọn vẹn vẻ đẹp của tình cha con trong hoàn cảnh éo le của chiến tranh. Kể về mối quan hệ cha con giữa ông Sáu và bé Thu. Tác giả đã làm nổi bật lên hình ảnh bé Thu – một cô bé đầy cá tính, có tình yêu thương cha thật thắm thiết, mãnh liệt. Nhân vật bé Thu đã gieo vào lòng mỗi người về nỗi đau, sự mất mát và khát vọng yêu thương của tuổi thơ.

Nhân vật bé Thu được khắc họa trong một tình huống truyện thật độc đáo, sau tám năm dài xa cách, ngày hội ngộ bé Thu đã không chịu nhận ông Sáu là ba. Bé Thu còn có những phản ứng quyết liệt, xa lánh ông Sáu, thậm chí là biểu hiện vô lễ với ông. Nhưng bất ngờ đến lúc chia tay, bé Thu lại cất tiếng gọi ba cùng với những cử chỉ quyến luyến, không muốn xa ba. Những biểu hiện của bé Thu đã làm cho mọi người xung quanh phải xót xa, thương cảm cho một đứa bé sống trong chiến tranh thiếu vắng tình cha con. Có lẽ ai trong chúng ta khi đọc tác phẩm cũng đều không thể quên được hình ảnh của bé Thu vừa ương bướng, hồn nhiên, đáng yêu, vừa có tình yêu thương cha thắm thiết.

Đọc tác phẩm, điều mà người đọc cảm nhận được ở bé Thu chính là một người con yêu thương cha sâu sắc và mãnh liệt được thể hiện trong giây phút em gặp cha. Tình yêu thương vô bờ bến ấy được cô bé cất giữ trong trái tim bé nhỏ của mình. Từ nhỏ, bé Thu đã phải sống trong hoàn cảnh đất nước có chiến tranh, hết chống Pháp rồi đến chống Mỹ. Chưa đầy một tuổi thì em phải xa cách người cha suốt tám năm dài, chưa hề được gặp cha một lần. Nỗi nhớ cha chỉ được lưu giữ lại qua tấm ảnh trắng đen nhỏ bé mà em có được.Bé Thu khao khát tình cảm của người cha biết bao nhiêu. Đến khi gặp lại, em hụt hẫng vì cái vết sẹo dài trên mặt, em như lại phải xa ba thêm một lần nữa. Niềm hạnh phúc cứ xa mãi trong tầm tay của em vì chiến tranh, ba lại phải lên đường theo tiếng gọi của non sông trong kháng chiến chống Mỹ. Nỗi khao khát được gần ba theo ngày tháng vẫn cứ nồng nàn, cháy bỏng, mãnh liệt. Mọi lời lẽ, cử chỉ của bé Thu đều gợi lên trong người đọc nỗi nhức nhối xen lẫn sự yêu thương, sự đồng cảm.

Bé Thu là một đứa bé ương bướng nhưng hồn nhiên, đáng yêu. Chính vì thế, đang lúc chơi đùa gần nhà, nhìn thấy một người đàn ông tự nhiên chạy đến gần nó, bé Thu trong giây phút gặp “người lạ” thì em hoảng sợ, “bỏ chạy và kêu thét lên”. Hành động đó cho thấy tài năng miêu tả diễn biến tâm lí con người của nhà văn Nguyễn Quang Sáng thật tinh tế. Hành động của bé Thu ta không trách được bởi lẽ đó là phản xạ tự nhiên của một đứa bé khi gặp một người xa lạ, bé Thu không hề biết người đàn ông đang đứng gần bên nó chính là người cha trong tấm ảnh, người cha mà nó mong nhớ bao ngày. Lúc này đây, người cha hiện thời khác hẳn với người cha mà nó hình dung qua ảnh bởi vết sẹo dài trên khuôn mặt. Vết sẹo ấy vô tình làm khuôn mặt ông Sáu trông rất đáng sợ và dữ tợn. Hẳn là người đọc cũng sẽ đồng cảm với bé Thu bởi em chỉ là một đứa trẻ chỉ bảy, tám tuổi. Đối với một đứa bé như thế, em chưa hiểu sự khốc liệt của đời sống chiến tranh thời ấy. Trong tâm hồn non nớt của trẻ thơ, nó chỉ ghi khắc hình ảnh của người ở trong tấm ảnh chụp chung với má nó. Bé Thu nghĩ về cha nó đẹp, phải lành lặn, khỏe mạnh như trong bức ảnh. Vết sẹo dài ửng đỏ trên khuôn mặt của người đàn ông kia trong cái nhìn của một đứa trẻ như nó thì hình ảnh đó thật đáng sợ. Ba nó có khuôn mặt đẹp không có vết sẹo. Ngay phút đầu tiên, bé Thu đã không công nhận ông Sáu là cha. Bởi trong tâm hồn của em chỉ là nỗi ám ảnh về quá khứ, cảm giác sợ hãi dường như vây quanh em mà ngay cả chính em cũng không hề mong muốn. Chính cái nghĩ hồn nhiên ấy càng làm rõ hơn tình yêu cha thắm thiết của cô bé

Tình yêu thương cha da diết và mãnh liệt được bộc lộ khi bé Thu kiên quyết bảo vệ tình thương mà nó dành cho cha “trong bức ảnh” dù chỉ ba ngày ngắn ngủi ở gần ông Sáu. Nó ương bướng không chịu gọi tiếng ba và luôn tìm cách xa lánh ông Sáu trong ba ngày phép của ông ở nhà. Cô bé là một thái độ kiên quyết không gọi ông Sáu là “ba”, con bé chỉ muốn dành tiếng “ba” cho người cha trong bức ảnh kia. Nó nói trổng, nó hất tung cái trứng cá khi ông Sáu muốn thể hiện sự yêu thương, chăm sóc đối với con gái. Ông Sáu càng muốn gần gũi nó thì nó càng lùi xa, ông càng tỏ ý chiều thương thì nó lại càng lảng tránh. Nó không chấp nhận sự chăm sóc của người đàn ông mà nó cho là xa lạ, nhất định không phải là cha.

Người đọc không thể rời mắt khỏi trang giấy bởi các tình tiết truyện đan xen với nhau, ta hồi hộp theo dõi sự chuyển biến trong nhận thức và hành động của bé Thu khi nó trông nồi cơm giúp mẹ. Người đọc tưởng rằng, khó khăn hay một việc nào quá sức, bé Thu sẽ kêu một tiếng “ba” để nhờ ông Sáu “chắt nước” khi nấu cơm nhưng đằng này, trái lại con bé chọn cách nói trổng. Lời nói cộc lốc, lạnh lùng làm sao: “Cơm sôi rồi, chắt nước dùm cái”. Lời nói này khiến ta nghĩ đây là một cô bé thiếu lễ phép khi nói chuyện với người lớn, nhưng cách cư xử ấy có lí do khiến chúng ta thông cảm. Đó là bé Thu bướng bỉnh, muốn dành  riêng tiếng “ba” thiêng liêng cho một người cha duy nhất mà thôi. Nếu với người khác, trong tình huống khác, tiếng “ba” thật bình thường nhưng đối với một cô bé thiếu thốn tình cảm quan tâm, chăm sóc của người cha thì tiếng “ba” đó thật thiêng liêng và cao quý hơn cả. Tiếng gọi đó, tình cảm đó, nó đã ấp ủ suốt tám năm trời mà chưa có dịp gọi “ba”.

Kế đến, hành động của bé Thu lấy vá múc từng vá nước đổ ra ngoài, khi mà ông Sáu phớt lờ đi lời nói trổng đã cho thấy tính cách mạnh mẽ, bướng bỉnh của cô bé này. Bé Thu cũng nhanh tay, thông minh khi sử dụng cách khác, đúng như lời nhận xét của nhân vật Ba: “Con bé đáo để thật”. Sự bướng bỉnh và ương ngạnh của bé Thu ngày càng tiếp tục khi nó hất văng cái trứng cá ra khỏi chén cơm. Hành động đó như muốn từ chối, phủ nhận hết sự quan tâm, chăm sóc của ông Sáu trong những ngày qua. Quả là:

“Tấm lòng cha một đời con đâu hiểu

Bởi tình cha luôn lắng dịu ngọt ngào.” (Ca dao)

Rồi khi bị ông Sáu đánh, nó bỏ sang nhà ngoại mét với ngoại, nó như trút tất cả sự giận dỗi vào hành động khua sợi dây lò tói, xô mạnh chiếc xuồng ra… Những hành động ương bướng của Thu có thể làm cho người đọc nghĩ rằng nó ngỗ nghịch, nhiễu sách. Thế nhưng, nếu hiểu sâu xa hơn thì tất cả mọi biểu hiện ấy đều xuất phát từ tình yêu thương cha quá đỗi thắm thiết. Điều đó càng khiến cho người đọc vừa giận, vừa thương bé Thu. Giận vì bé Thu cứng đầu, cố chấp và bướng bỉnh đến mức ương ngạnh và có hành vi thiếu lễ phép với ông Sáu. Song,  người đọc cũng vừa thương vì bé Thu thiếu thốn tình cảm của cha từ nhỏ nhưng vẫn giữ trọn một tình thương sâu sắc nhất dành cho người cha duy nhất trong tấm ảnh. Tiếng ba đối với nó rất quan trọng, nên nó rất phân vân và nó rất chắc lòng, chắc dạ khi quyết định không gọi tiếng ba. Em đã kiên quyết đến mức cố chấp để bảo vệ tình yêu trong sáng mà bấy lâu nay Thu vẫn tin tưởng và trân trọng. Có lẽ, đó cũng là một nét đẹp đáng quý trong tâm hồn của em.

Độc giả có thể nhìn thấy rõ tài năng tự sự kết hợp với miêu tả tâm lí nhân vật của nhà văn. Có hiểu được hoàn cảnh gia đình thời chiến, hiểu được khát vọng yêu thương của trẻ thơ thì mới cảm nhận được tình yêu cha của bé Thu nồng nàn đến dường nào. Ông dường như năm rõ và thấu hiểu từng giây phút chuyển biến trong tâm lí trẻ thơ thể hiện qua những hành động và thái độ của bé Thu. Bé Thu có sự so sánh giữa người trong ảnh với người ở ngoài đời khác nhau ở vết sẹo, đó là nguyên nhân nó không nhận ông Sáu là ba. Tâm hồn, trái tim nó ấp ủ một hình ảnh duy nhất và không muốn ai thay thế. Nó chối từ cái dang tay của ông Sáu trong lần hội ngộ đầu tiên khiến ông Sáu bàng hoàng. Nó không gọi tiếng ba bởi vì tiếng ba ấy rất thiêng liêng, chỉ dành cho người ba đích thực. Đối với nó, ông Sáu là ba “giả”, những đau buồn, khổ tâm của ông Sáu không làm nó bận tâm. Không ai có thể tháo gỡ được những vướng mắc thầm kín trong lòng của cô bé. Tại sao phải gọi người đàn ông xa lạ kia là ba? Nó là đứa bé có lập trường, chính tình cảm yêu thương cha mãnh liệt đã khiến cho cô bé rất kiên định, quyết liệt. Và đây cũng chính là cái mầm sâu kín để làm nên tính cách cứng cỏi, ngoan cường của một cô giao liên mưu trí, dũng cảm sau này.

Tưởng chừng như tình cảm cha con không thể nối kết được. Trước lúc ông Sáu đi xa, tình cảm thiêng liêng giữa con với cha bỗng cháy bùng lên.

Khi Thu được nghe bà ngoại giải thích nguyên nhân vết sẹo trên má ông Sáu thì bé Thu hoàn toàn thay đổi thái độ, từ xa lánh nó lại khao khát được gần gũi, từ hờn giận nó chuyển sang yêu kính, tự hào. Cả đêm, bé Thu nằm trằn trọc, thao thức, trở mình qua lại. Rõ ràng, bé Thu không phải thuộc kiểu một người thiếu suy nghĩ, vô tư, hồn nhiên mà trái lại chín chắn như người lớn. Có vẻ như, cô bé đang hối hận về việc đối xử tệ với cha mình trong những ngày qua. Giờ đây, ngoài việc hối hận, có lẽ bé Thu còn cảm thấy tiếc nuối khi nó không gặp cha, không còn được cha quan tâm, chăm sóc. Vết sẹo trên mặt ba nó là vết tích chiến tranh bị Tây bắn, vết thương chắc làm ba nó đau đớn lắm, thái độ lạnh lùng, xa cách của nó trong mấy ngày nay chắc làm ba nó đau lòng lắm. Nó đã gây ra vết sẹo trong trái tim của người cha.Thời gian quá ngắn ngủi, bao yêu thương và sự quan tâm của ông Sáu dành cho Thu từng ngày ấy em không nhận lấy để rồi khi đến thời khắc gần chia tay, cô bé ấy mới thấy quý giá và tiếc nuối vô cùng. Chắc hẳn, sau lời vỗ về và giải thích từ phía ngoại, bé Thu hiểu ra và mong trời mau sáng, để em chạy về nhà mình thật nhanh, để có thể ôm lấy cha lần cuối, để rồi em được gọi tiếng “ba” sau ngần ấy năm qua.

Mạch truyện vẫn cứ chảy trôi, không hề bị gián đoạn mà cứ lần lượt đẩy tâm thế người đọc từ phía hồi hộp này đến hồi hộp khác. Đỉnh điểm của cảm xúc con người vỡ tung khi nhà văn mô tả giây phút bịn rịn, chia tay của ông Sáu với hàng xóm, cảnh chia tay của ông với đứa con gái yêu duy nhất của mình.

Trong buổi chia tay, nó đứng lặng lẽ ở góc nhà hướng về người cha với “đôi mắt không còn ngơ ngác lạ lùng…ánh mắt xa xăm, mông lung” như đang chờ đợi, đang muốn bộc lộ tình cảm dữ dội, mãnh liệt. Gương mặt ngây thơ “sầm lại buồn rầu trông rất dễ thương”, ấy chắc là có biết bao xúc động, ý nghĩ, tình cảm. Khi ông Sáu khoát ba lô lên đường, nói lời từ biệt, tiếng kêu ba của bé Thu vang lên chất chứa sự hối lỗi “Ba… a… a… ba!”, tiếng kêu xé lòng, “xé sự im lặng và xé cả ruột gan mọi người, nghe thật xót xa” cùng cử chỉ nhảy thót lên, ôm chặt lấy cổ ba, “hôn ba nó cùng khắp. Nó hôn tóc, hôn cổ, hôn vai và hôn cả vết sẹo dài trên má của ba nó nữa”. Dường như ngay lúc đó, nó muốn cho ba hiểu là nó yêu thương ba biết nhường nào. Bé Thu muốn cho ông Sáu hiểu nó rất thương cha và đó cũng chính là lời xin lỗi muộn màng, sự cảm thông chia sẻ nỗi đau, nỗi tổn thương mà cha nó phải gánh chịu suốt tám năm và cả ba ngày ngắn ngủi vừa qua. Giờ đây, bé Thu yêu luôn cả những gì đáng sợ trên khuôn mặt cha của nó. Đó là biểu hiện tình yêu ruột thịt nồng nàn của đứa con đối với cha, bé Thu muốn chuộc lại lỗi lầm và muốn thỏa tình cảm nhớ thương sau tám năm xa cách.

Và khi nghe ông Sáu hứa hẹn “Ba đi rồi ba về với con” thì cô bé lại hét lên “Không!”, hai tay nó xiết chặt lấy cổ ba nó, rồi nó dang cả hai chân câu chặt lấy ba nó và đôi vai nhỏ bé của nó run run. Những dòng chữ trong câu chuyện đến đây chắn đã làm xốn xang trái tim bao bạn đọc. Mọi người lặng đi, con tim thổn thức, dường như nước mắt không thể doảng ra được mà chỉ có thể chảy ngược vào tim. Thương cho bé Thu trong cảnh ngộ éo le, tình yêu thương cha của bé Thu dường như đã xóa đi vết sẹo trong trái tim của người cha, để lại niềm vui trong hành trang người chiến sĩ khi ông Sáu lên đường. Tình cảm cha con thật thiêng liêng, vượt lên sự hủy diệt của chiến tranh.

Rời khỏi vòng tay cha với lời nhắn nhủ trong nước mắt về một cây lược làm quà tặng mà nó mong nhận được, nhưng thực chất, con bé chỉ hi vọng một ngày không xa, đất nước được thống nhất, ba nó trở về và gia đình lại được sum họp. Cứ tưởng cái viễn cảnh gia đình hạnh phúc sẽ không còn xa nữa nhưng cả bé Thu lẫn ông Sáu đều không biết rằng đó là lần gặp mặt cuối cùng của cha và con bởi trong chiến tranh không thể nói trước được điều gì.

Tìm hiểu về tác phẩm, ta càng cảm phục và trân trọng trước tình cảm của cha con ông Sáu, càng thấm thía hơn tình phụ tử thiêng liêng, bất diệt trong chiến tranh.Truyện có giá trị mạnh mẽ trong việc tố cáo tội ác của chiến tranh. Nó đã gieo rắc bao đau thương khiến gia đình li tán, con xa cha, chồng xa vợ. Chiến tranh và tội ác chính là kẻ thù của nhân loại. Tình huống truyện được nhà văn xây dựng độc đáo, kịch tính giữa không nhận và nhận ba là cả một quá trình diễn biến tâm lý đầy phức tạp. Nhưng thông qua đó, tác giả đã làm nổi bật vẻ đẹp tâm hồn trẻ thơ hồn nhiên, vô tư và cả sự ương ngạnh, đáng yêu nhất là tình cha con thắm thiết. Kết hợp với phương thức biểu đạt tự sự, miêu tả, biểu cảm, ngôn ngữ đối thoại, độc thoại, độc thoại nội tâm… Tác giả đã khắc họa nhân vật bé Thu là một đứa trẻ điển hình cho biết bao đứa trẻ trong chiến tranh phải trải qua những đau thương, mất mát, phải sống trong những năm dài xa cách người thân. Qua truyện ngắn “Chiếc lược ngà”, ta có thể thấy Nguyễn Quang Sáng đã rất thành công trong việc miêu tả tâm lý trẻ thơ.

Chiếc lược ngà của nhà văn Nguyễn Quang Sáng là một nhân vật thú vị, gần gũi và có những nét tính cách riêng: vừa ngây thơ, vừa giàu tình cảm nhưng cũng kiên quyết mạnh mẽ. Bên cạnh hình ảnh ông Sáu thì hình ảnh bé Thu được tác giả miêu tả sâu sắc và chân thật. Hai nhân vật này song hành cùng nhau làm cho câu chuyện về tình phụ tử thêm đẹp và ý nghĩa. Nhân vật bé Thu đã để lại một dấu ấn đậm nét trong tâm hồn của bạn đọc. Càng yêu thương bé Thu bao nhiêu, chúng ta càng cảm thấy căm ghét chiến tranh bấy nhiêu. Chúng ta cần biết yêu hơn và trân quý hơn những giây phút bên gia đình, bởi lẽ thời gian lướt trôi vội vã nhưng đời người thì hữu hạn biết bao…

Thứ Ba, 19 tháng 1, 2021

Cảm nhận vẻ đẹp nhân vật Vũ Nương - Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ

 

Thân em vừa trắng lại vừa tròn

Bảy nổi ba chìm với nước non

Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn

Mà em vẫn giữ tấm lòng son.” (Bánh trôi nước – Hồ Xuân Hương)

Bà chúa thơ Nôm đã từng viết về thân phận người phụ nữ dưới chế độ phong kiến ngày xưa như thế. Họ xinh đẹp, tài năng, có những phẩm chất tốt nhưng lại bị cuộc đời chà đạp. Để bênh vực số phận của họ đã có rất nhiều những nhà văn, nhà thơ lên tiếng qua các sáng tác, trong đó có Nguyễn Dữ với Chuyện người con gái Nam Xương, trích trong Truyền kì mạn lục, một tác phẩm văn xuôi viết bằng chữ Hán của ông. Tác phẩm kể về bi kịch cuộc đời của nhân vật Vũ Nương- một người con gái tư dung tốt đẹp, tính thuỳ mị nết na nhưng lại có một số phận oan trái.

Chuyện người con gái Nam Xương là tiếng nói đồng cảm, trân trọng, ngợi ca của tác giả đối với con người, đặc biệt là người phụ nữ. Nhân vật chính là Vũ Nương, người con gái quê Nam Xương, vốn con kẻ khó nhưng có một khát khao bao trùm cả cuộc đời – đó là “thú vui nghi gia nghi thất”. Nàng vừa có nhan sắc, vừa có đức hạnh, mang đầy đủ vẻ đẹp của một người phụ nữ lý tưởng “Tính đã thuỳ mị nết na, lại thêm có tư dung tốt đẹp. Khi xây dựng nhân vật này, Nguyễn Dữ không mấy chú trọng đến “tư dung” – ngoại hình mà ông quan tâm nhiều đến những phẩm chất tốt đẹp của nàng. Vậy, sự thuỳ mị nết na ấy của Vũ Nương được biểu hiện như thế nào?

Trước hết, Vũ Nương là một người phụ nữ khát khao hạnh phúc gia đình, không màng công danh và thuỷ chung, yêu thương chồng hết mực.

Trong những ngày đoàn viên ngắn ngủi, dù Trương Sinh “có tính đa nghi, phòng ngừa quá sức” nhưng nàng đã “giữ gìn khuôn phép, không từng để lúc nào vợ chồng phải đến thất hoà”. Thế rồi chiến tranh xảy ra, người chồng yêu dấu của nàng phải đi lính. Mong ước lớn nhất của nàng không phải là công danh phú quý mà nàng chỉ khát khao ngày chồng mình trở về “mang theo hai chữ bình yên, thế là đủ rồi”. Mong ước ấy thật là bình dị. Vũ Nương đã khát khao và coi trọng hạnh phúc gia đình hơn mọi công danh phù phiếm ở trên đời.

Và rồi, người chồng yêu dấu của nàng đã ra đi. Trong xa cách, Vũ Nương luôn thương nhớ chồng khôn xiết, nỗi nhớ ấy cứ dài theo năm tháng: “Mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi thì nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào ngăn được”. Người thiếu phụ trẻ trung xinh đẹp ấy một lòng một dạ chờ chồng, nuôi con. Thế mà khi Trường Sinh trở về, nhân vật chính của chúng ta lại bị nghi oan là thất tiết. Đây là một cái án quá lớn đối với nàng. Trước sự đối xử tệ bạc: mắng nhiếc, đánh đập, đuổi đi của người mà suốt ba năm xa cách nàng luôn đằng đẵng nhớ thương ấy, Vũ Nương vẫn cố phân trần, khẳng định sự thuỷ chung của mình và cầu xin “Mong chàng một mực đừng nghi oan cho thiếp”. Nghĩa là người con gái này vẫn hết lòng tìm cách hàn gắn cái hạnh phúc gia đình đang có nguy cơ tan vỡ. Thế nhưng mong ước bình dị, “cái thú vui nghi gia nghi thất” ấy đã vỡ tan. Tổ ấm mà nàng đã dày công gây dựng nên đã bị Trương Sinh phá vỡ nhưng người thiếu phụ này vẫn luôn nhớ đến chồng nên khi sống dưới thuỷ cung, nghe Phan Lang nhắc đến gia đình, nàng cũng “ứa nước mắt” và muốn được trở về. Dưới ngòi bút của Nguyễn Dữ, nhân vật Vũ Nương hiện lên rất đỗi dịu dàng, đằm thắm, thiết tha với hạnh phúc gia đình, không hư danh và thương chồng hết mực.

Không những thế, nhân vật này còn là một con dâu hiếu thảo, một người mẹ yêu thương con hết mực. Một mình nàng phải chịu bao gian lao, vất vả; nào là khi sinh đẻ không ai đỡ đần, nào là một thân vừa nuôi con thơ, vừa chăm sóc mẹ chồng già yếu. Thế nhưng nàng đã lo tròn chu tất lo thuốc thang cầu khẩn thần phật và lúc nào cũng dịu dàng ân cần lấy lời ngọt ngào, khôn khéo khuyên lơn. Rồi khi mẹ chồng mất, nàng lại một mình lo việc ma chay, tế lễ chôn cất như đối với cha mẹ đẻ của mình. Ngòi bút của Nguyễn Dữ thật già dặn khi để cho chính người mẹ chồng ấy nhận xét về tấm lòng hiếu thảo của nàng trước khi bà qua đời: “Sau này trời xét lòng lành, ban cho phúc đức, giống giòng tươi tốt, con cháu đông đàn. Xanh kia quyết chẳng phụ con cũng như con đã chẳng phụ mẹ.”. Rõ ràng, trong mắt của bà, nàng là một “người lành”.

Còn đối với bé Đản thì sao? Nàng luôn yêu thương và chăm sóc con chu đáo. Và cũng có lẽ vì yêu thương con, vì muốn con lúc nào cũng có cha ở bên, không cảm thấy thiệt thòi về mặt tình cảm nên Vũ Nương đã chỉ bóng mình ở trên tường mà bảo là cha nó để dỗ dành con. Cuộc đời Vũ Nương tuy ngắn ngủi nhưng nàng đã làm tròn nghĩa vụ của một người phụ nữ: làm con dâu, làm vợ, làm mẹ.

Qua cách xử thế cũng như qua lời nói, thái độ, hành động, ta còn thấy hiện lên một Vũ Nương coi trọng nhân phẩm. Trước sự nghi oan của chồng, nàng đã tìm đến cái chết với lời than: “Nếu thiếp đoan trang giữ tiết trinh bạch gìn lòng thì vào nước xin làm ngọc Mị Nương, dưới đất xin làm cỏ Ngu Mĩ”. Lời than như một lời nguyền xin thần sông chứng giám nỗi oan khuất và tiết sạch giá trong của mình. Hành động tự trẫm mình của nàng là một hành động quyết liệt để bảo toàn danh dự, có nỗi tuyệt vọng đắng cay nhưng cũng có sự chỉ đạo của lý trí “tắm gội chay sạch, ra bến Hoàng Giang ngửa mặt lên trời than” không phải là một hành động bột phát trong cơn nóng giận như truyện cổ tích miêu tả. Và khi không còn ở dương gian, sống ở cõi âm, nàng vẫn muốn trở về, muốn khát khao được phục hồi danh dự. Dường như Nguyễn Dữ đã tập trung những nét điển hình của người phụ nữ Việt Nam vào nhân vật Vũ Nương. Đó là hình ảnh người phụ nữ lý tưởng trong xã hội phong kiến ngày xưa.

Lẽ ra, với sự dịu dàng, đảm đang, tháo vát, hiểu nghĩa, tận tụy và chung tình đó, người phụ nữ này phải được đền bù xứng đáng bằng một gia đình yên ấm. Nhưng oái oăm thay, Vũ Nương lại phải nhận lấy một số phận đau thương – nàng phải chết. Đó chính là bi kịch về số phận con người. Ngày sum họp cũng là ngày nàng lìa xa tổ ấm. Và đau đớn hơn, kẻ đẩy nàng vào cái chết bi thảm không phải ai xa lạ mà chính là người chồng nàng hằng thương nhớ “cách biệt ba năm giữ gìn một tiết” và đứa con trai duy nhất của nàng. Chỉ vì tin lời con trẻ và do ghen tuông mù quáng mà Trương Sinh đã nghi ngờ và gán cho vợ là thất tiết. Chàng ta đã hành hạ, đánh đập, nhiếc móc Vũ Nương không tiếc lời, không nghe lời “biện bạch mà bênh vực cho nàng” của hàng xóm cũng như những lời phân trần, giãi bày của vợ để Vũ Nương phải lấy cái chết để bày tỏ lòng mình. Một cái chết thật đớn đau và oan uổng. Cái chết đó khác nào bị bức tử mà kẻ bức tử lại hoàn toàn vô can. Qua thân phận của nhân vật này, nhà văn muốn tố cáo xã hội phong kiến và bày tỏ niềm cảm thương của tác giả đối với số phận oan nghiệt của người phụ nữ. Vũ Nương cũng như bao người con gái khác, họ đều phải chịu một số phận đau thương như thế. Một cung nữ trong “Cung oán ngâm khúc” của Nguyễn Gia Thiều mòn mỏi trong cung cấm để tuổi xuân phải trôi qua trong nỗi tiếc nuối, đợi chờ. Một Thuý Kiều tài sắc vẹn toàn mà phải mười lăm năm lưu lạc, dang dở tình duyên, hai lần vào lầu xanh, trải qua những tháng ngày nhục nhã… Những người phụ nữ đức hạnh này không được che chở, bênh vực mà còn bị đối xử một cách bất công, vô lý.

Để xây dựng thành công hình tượng nhân vật Vũ Nương, một yếu tố mà ta không thể không nhắc đến, ấy là nghệ thuật kể truyện. Truyện có rất nhiều lời thoại và lời tự bạch của nhân vật được sắp xếp rất đúng chỗ làm cho câu chuyện trở nên sinh động, góp phần không nhỏ vào việc khắc hoạ tính cách nhân vật. Qua lời nói của Vũ Nương với Trương Sinh, với mẹ chồng và những lời tự bạch của nàng trước khi chết bao giờ cũng chân thành, dịu dàng, mềm mỏng, có lý có tình ngay cả trong lúc đang tức giận nhất đã cho ta thấy được sự nết na, hiền thục trong trắng, không có gì đáng khuất tất của nhân vật này. Nguyễn Du đã đan xen những yếu tố kì ảo vào truyện: Vũ Nương không chết. Nàng ở dưới thuỷ cung, hiện lên ở bến sông với lời tạ từ ngậm ngùi: “Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng thể trở về dân gian được nữa” đã làm cho thế giới kì ảo lung linh, mơ hồ trở nên gần gũi với cuộc đời thực, hoàn thiện thêm nét đẹp của tính cách nhân vật Vũ Nương: dù ở thế giới khác vẫn nặng tình với cuộc đời, quan tâm đến chồng con và khát khao được phục hồi danh dự. Cũng qua chi tiết ảo này, người đọc thấy rõ hơn về số phận đau thương của nhân vật chính. Nỗi oan của nàng quá lớn nên không có đàn nào giải nổi.

Trên cơ sở cốt truyện có sẵn, nhà văn đã sắp xếp lại một số tình tiết, thêm bớt hoặc tô đậm những tình tiết có ý nghĩa: lời trăn trối của bà mẹ chồng đã khẳng định một cách khách quan nhân cách và công lao của Vũ Nương đối với gia đình chồng. Những lời phân trần, giãi bày của nàng khi bị nghi oan và hành động quyết liệt, bình tĩnh của nàng khi tìm đến cái chết làm cho hành động nhân vật trở nên đẹp hơn.

 Câu chuyện đã khép lại nhưng tấn bi kịch về cuộc đời của nhân vật Vũ Nương và những phẩm hạnh của nàng mãi để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc. Nguyễn Dữ đã vượt khỏi công thức thông thường về hình tượng người phụ nữ trong thể truyền kì để xây dựng nên hình tượng của một người phụ nữ bình thường như bao người vợ, người mẹ khác trong đời. Tuy mang yếu tố hoang đường nhưng Chuyện người con gái Nam Xương vẫn là một áng văn giàu giá trị nhân đạo, có sức hấp dẫn đối với người đọc ngày nay.

Nguồn giaibai5s.com

Phân tích số phận bi kịch của Vũ Nương – Chuyện người con gái Nam Xương

 

Phân tích số phận bi kịch của Vũ Nương – Chuyện người con gái Nam Xương

“Đau đớn thay phận đàn bà

Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.” (“Truyện Kiều” – Nguyễn Du)

Xuyên suốt chiều dài của triền đê mang tên “Văn học”, ta bắt gặp hình ảnh người phụ nữ dẫu có “quốc sắc thiên hương” đến đâu, có phẩm hạnh hoàn mỹ và tài năng hơn người đi chăng nữa thì số kiếp và hạnh phúc của họ vẫn bị vùi dập tả tơi bởi những định kiến của một xã hội hoen ố và mục ruỗng, những tục lệ “trọng nam khinh nữ”. Bằng ngòi bút mang cái “hồn” của riêng mình, Nguyễn Dữ đã khiến trái tim người đọc muôn đời không khỏi tiếc thương khi nhớ về số phận bi ai của Vũ Nương.

Từ thế kỷ XVI, chế độ phong kiến Việt Nam đã bắt đầu có những biểu hiện suy thoái, Nguyễn Dữ bất mãn và bất lực trước thời cuộc, chán ghét cảnh quan trường điên đảo nên lui về ở ẩn. Theo Nguyễn Đăng Na nhận xét: “Ông là cha đẻ của loại hình truyền kì Việt Nam”, là người “phóng thành công con tàu văn xuôi tự sự vào quỹ đạo văn chương nghệ thuật”. “Chuyện người con gái Nam Xương” là câu chuyện thứ 16 của “Truyền kì mạn lục”. Từ một sự tình có thật trong dân gian, Nguyễn Dữ đã thể hiện thật tài tình, trọn vẹn vẻ đẹp của Vũ Nương. Nàng thật sự là một người phụ nữ hoàn mỹ, đẹp người đẹp nết, làm tròn bổn người vợ, người mẹ và nàng dâu thảo. Vũ Nương là khuôn vàng, thước ngọc của người phụ nữ, nàng xứng đáng sống trong hạnh phúc và vui vẻ. Thế nhưng “Hạnh phúc trong cuộc đời Vũ Thị Thiết là một thứ hạnh phúc vô cùng mong manh, ngắn ngủi. Mong manh như sương như khói, ngắn ngủi như kiếp sống của đoá phù dung sớm nở, tối tàn.”. (Đồng Thị Sáo).


Vũ Nương phải gánh chịu nỗi dày vò cả về thể xác lẫn tinh thần. Trước cảnh đất nước binh đao loạn lạc, phu quân phải đi đến nơi biên ải xa xôi, cả giang sơn nhà chồng đè nặng trên đôi vai nhỏ bé của người thiếu phụ. Ta có thể  cảm nhận được nỗi vất vả của nàng qua những vần điệu ca dao cổ:   

Có con phải khổ vì con

Có chồng phải gánh giang sơn nhà chồng.

Nàng thầm lặng mà sinh con ra, rồi lại một mình tần tảo nuôi nấng, dạy dỗ con thơ. Biết mẹ chồng đau ốm vì nhớ thương con, nàng tận tâm tận tụy chăm sóc, “hết sức thuốc thang, lễ bái và lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn”. Khi mẹ chồng vĩnh biệt thế gian nàng cũng hết lòng xót thương, lo liệu ma chay tế lễ như đối với cha mẹ ruột. Một mình Vũ Nương đảm đương tất cả, nàng vừa là mẹ, là dâu con. Nàng lo toan mọi việc lớn nhỏ như “một đấng nam nhi” duy nhất trong gia đình. Những ngày sống trong cảnh “chăn đơn gối chiếc”, sự cô đơn, lẽ loi cùng nỗi nhớ kéo dài theo năm tháng cứ cứa từng vết khiến trái tim nàng rỉ máu. Nàng khắc khoải nhớ nhung Trương Sinh “thổn thức tâm tình thương người đất thú”. Vũ Nương ngày ngày đợi chờ, ngóng trông đến thổn thức. Hình ảnh “bướm lượn đầy vườn” vốn gợi cho ta một khung cảnh đẹp, cũng rất mơ hồ hay “mây che kín núi” thơ mộng nhưng cũng man mác. Giống như tâm trạng của nàng bấy giờ, lệ sầu phủ kín tâm can, nỗi buồn “không thể nào ngăn được”. Quả là lấy cảnh mà lột tả đươc cái tình của con người. Nỗi nhớ triền miên của người thiếu phụ cũng được nhắc đến trong thi phẩm “Chinh Phụ Ngâm” – Đoàn Thị Điểm:

Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu

Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong.”

Vì thương con, lo cho con thiếu thốn hình bóng người cha và cũng để nàng gửi gắm nỗi nhớ thương, mong mỏi chồng, Vũ Nương đã nghĩ ra trò cái bóng.Đêm đêm, nàng thường trỏ bóng mình trên vách và nói với con đó là cha của bé. Chiếc bóng chính là hiện thân của sự cô đơn của Vũ Nương. Cùng với chiếc bóng của mình trên vách, Vũ Nương vừa làm mẹ, vừa làm cha. Và mối oan của Vũ Nương được buộc bởi chính hành động của nàng mỗi ngày, bởi lời của đứa con đứt ruột đẻ ra và bởi sự tàn nhẫn của người chồng đầu gối tay ấp. Nàng rơi vào bi kịch bởi chính cái bóng của mình, hạnh phúc bao lâu nay luôn cố gắng vun đắp, “giữ gìn khuôn phép” đã tan vỡ không thể cứu vãn. Hạnh phúc với người phụ nữ thật mong manh, ngắn ngủi, luôn có những những bất trắc, rủi ro, nghịch lý vận vào cuộc đời họ, đẩy họ tới bước đường cùng.

Vũ Nương phải chịu sự ràng buộc của lễ giáo khắc khe, ngặt nghèo, chấp nhận cuộc hôn nhân với Trương Sinh. Nàng đã có quyền lựa chọn đâu khi xã hội phong kiến vẫn có đó tư tưởng “cha mẹ đặt đâu con ngồi đó”. Trương Sinh lấy Vũ Nương không phải vì tình yêu mà chỉ vì cảm mến dung hạnh, để rồi không có sự chan hòa, bình đẳng trong cuộc hôn nhân đó. Chàng xin mẹ trăm lạng vàng để cưới nàng bởi thế đồng tiền đã phát huy uy lực của nó khiến Vũ Nương luôn sống trong mặc cảm “con kẻ khó, được nương tựa nhà giàu”. Nàng là người con gái hiền lành, chất phác, cưới chàng Trương, nàng không hề mong danh lợi hay vinh hoa, phú quý mà chỉ vì một mong ước rất bình thường mà người phụ nữ nào cũng muốn "thú vui nghi gia, nghi thất". Mặc dù sống với người chồng lạnh lùng, lại đa nghi quá mức  nhưng vì khát khao hạnh phúc gia đình, mong muốn êm ấm thuận hòa nên nàng luôn giữ gìn khuôn phép, ăn nói chừng mực vì thế mà vợ chồng chẳng khi nào bất hòa. Vũ Nương sống trong một cuộc hôn nhân không chứa chan ái tình và cũng chẳng có âm hưởng của sự rung động cất lên từ hai trái tim chân thành. Chính bức tường vô hình mang tên “giàu – nghèo” đã đàn áp quyền lợi của người phụ nữ và là cái thế để Trương Sinh mặc nhiên đối xử vũ phu, tàn bạo với nàng.

Trở về sau ba năm cách biệt, ngỡ đâu vị thần hạnh phúc sẽ gõ cửa gia đình nàng. Thế nhưng, chính vì thói đa nghi và ghen tuông che mờ lí trí, Trương Sinh mù quáng tin vào những lời nói ngây thơ của bé Đản mà đinh ninh phán cho Vũ Nương cái danh “vợ hư”. Trương Sinh bỏ ngoài tai những lời khuyên can của mọi người và cũng chẳng thèm đếm xỉa tới lời biện bạch của nàng. Rồi từ chỗ “la um lên cho hả giận”, chàng đã nhẫn tâm mắng nhiếc và đánh đuổi vợ đi. Phải chăng xã hội phong kiến với chế độ nam quyền độc đoán, bất công và tàn bạo, với thói “trọng nam khinh nữ” bám chặt vào huyết quản đã dung túng cho phép người người đàn ông được quyền coi thường, rẻ rúng, mặc nhiên định đoạn thậm chí giẫm đạp lên quyền sinh, quyền tử và phẩm giá cao quý của người vợ. Vũ Nương đức hạnh, ngoan hiền vậy mà lại phải mang bản án ô nhục, nhuốc nhơ “hư thân mất nết”. Thuở xưa, nàng Thị Kính còn biết ngọn nguồn nỗi oan khuất của mình. Còn Vũ Nương, đến khi gieo mình xuống đáy sông nàng vẫn chẳng hiểu vì sao lại bị người từng đầu ấp tay gối với mình mắng nhiếc và đánh đuổi đi. Nỗi oan của nàng thấu tận trời xanh vậy mà nàng cũng chẳng được quyền phản kháng, bảo vệ chính mình.

Với Vũ Nương, “cái thú vui nghi gia nghi thất” chính là lí tưởng, mục đích sống và tồn tại của nàng. Để rồi khi điểm tựa ấy bị vùi dập tả tơi bởi nỗi oan thất tiết “Nay đã bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió, khóc tuyết bông hoa rụng cuống, kêu xuân cái én lìa đàn, nước thẳm buồn xa, đâu còn có thể lại lên núi Vọng Phu kia nữa.”. Với hàng loạt những hình ảnh ước lệ ngụ ý chỉ sự lụi tàn, thê lương của mối nhân duyên đổ vỡ đã lột tả thành công nỗi thất vọng, ê chề, đau đáu xâm chiếm cõi lòng của nàng. Vũ Nương quyết định trầm mình xuống sông Hoàng Giang để rửa sạch nỗi oan khuất, giải bày tấm lòng ngay thẳng, tấm thân trinh bạch của mình. Cái chết của Vũ Nương thực chất là do bị chồng bức tử vậy mà Trương Sinh cũng chẳng một chút động lòng hay ân hận, day dứt. Hãn hữu lắm trong cái xã hội ấy, một hành lang đạo lí hay một ai đó đứng ra bảo vệ, chở che cho thân phận bèo dạt mây trôi của Vũ Nương nói riêng và những người phụ nữ trong xã hội phong kiến nói chung. Rõ ràng chính xã hội cũ đã sinh ra bao Trương Sinh với thói độc đoán là nguyên nhân của những khổ đau mà người phụ nữ phải gánh chịu.

Nỗi oan khuất tột cùng của Vũ Nương đã vượt ra ngoài phạm vi gia đình, là một trong muôn vàn oan khốc trong xã hội phong kiến vùi dập con người, nhất là người phụ nữ. Có lẽ bi kịch của Vũ Nương không phải là trường hợp cá biệt mà khủng khiếp thay là số phận của bao chị em phụ nữ, là kết quả của bao nhiêu nguyên nhân mà chế độ phong kiến đã sản sinh ra làm số phận của họ thật bi đát. Từ những kiếp đời bac mệnh ấy Nguyễn Dữ đã góp phần khái quát nên thành lời kiếp đau khổ của người phụ nữ. Thân phận của người phụ nữ bị vùi dập, bị sỉ nhục, bị đày đến bước đường cùng của cuộc đời, họ chỉ biết tìm đến cái chết để bày tỏ tấm lòng trong sạch. Điều này chứng tỏ xã hội phong kiến suy tàn đã sinh ra những Trương Sinh đầu óc nam quyền, độc đoán, sống thiếu tình thương đối với người vợ hiền thục của mình, để rồi gây ra cái chết bi thương đầy oan trái cho Vũ Nương.Đớn đau thay số phận của nàngTấm bi kich về cái đẹp bị chà nát phũ phàng. Và người đời sẽ lưu truyền thêm một tấm bi kịch về số phận người phụ nữ. Thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến cũng đều giống như Vũ Nương. Số phận của họ như đã được định đoạt từ trước. Sinh ra mang kiếp đàn bà thì dù giàu nghèo sang hèn không trừ một ai, lời “bạc mệnh” cũng đã trở thành “lời chung” – như Nguyễn Du đã viết trong Truyện Kiều:

Đau đớn thay phậh đàn bà,

Lời rằng bậc mệnh cũng là lời chung.

Vũ Nương còn là nạn nhân của chiến tranh phi nghĩa, “sum họp chưa thỏa tình chăn gối, chia phôi vì động việc lửa binh”. Chiến tranh loạn lạc đã đẩy gia đình nàng vào cảnh li tán, vợ chồng xa cách đôi người hai ngả. Ngày qua ngày, niềm tin dành cho nhau cứ thế mà kiệt quệ, dẫn đến hiểu lầm. Có lẽ, trận chiến chính là cửa ải thử thách tình yêu và niềm tin của Trương Sinh dành cho vợ. Và chàng đã thất bại, mù quáng nghĩ oan và vu khống cho Vũ Nương. Rõ ràng, chiến tranh phong kiến chính là ngòi nổ tiếp tay cho những bi kịch, giông bão trong cuộc đời người phụ nữ bất hạnh ấy.

Ở phần sau của câu chuyện, ta thấy Vũ Nương được sống sung sướng dưới Thủy cung. Nhưng làm sao có thể hưởng thụ hạnh phúc cho được khi quyền làm mẹ,làm vợ của nàng vĩnh viễn không còn? Chốn “làng mây cung nước” nàng được sống một cuộc đời bất tử và sung mãn, một cuộc đời mà biết bao người trần mắt thịt mong ước. Thế nhưng, Vũ Nương chẳng hề tận hưởng kiếp sống ấy và nàng cũng chẳng thể chạm tay đến thứ hạnh phúc thật sự. Bởi nàng “bất tử” nên nỗi nhớ gia đình cứ đeo đẳng nàng mãi. Nỗi đau đáu ấy trở thành một vết sẹo trong tim nàng mà chẳng có một hào nhoáng xa hoa nào có thể chữa khỏi. Bên cạnh đó, sự trở về của Vũ Nương trên sông Hoàng Giang rất lộng lẫy nhưng lại ở rất xa, rất mơ hồ “lúc ẩn lúc hiện” và “chỉ trong phút chốc”. Cảnh đoàn tụ chỉ là ảo ảnh nhanh chóng tan biến. Còn việc Vũ Nương “chẳng thể trở về nhân gian được nữa”, nỗi khổ đau li biệt cho cả gia đình nàng, lứa đôi chia lìa hai cõi âm – dương là sự thật, là mãi mãi. Hạnh phúc bị tan vỡ khó lòng hàn gắn lại được. Kết thúc câu chuyện bi đát này là một khoảng vắng mênh mông, mờ mịt…Với kết thúc không trọn vẹn, Nguyễn Dữ đã cho thấy một quan niệm rằng hạnh phúc khó có, khó giữ mà đã đổ vỡ rồi thì sẽ chẳng thể nào hàn gắn lại được, như bát nước đã đổ đi thì chẳng thể vớt lại cho đầy.

Khép lại những trang viết thăng trầm của “Chuyện người con gái Nam Xương”, ta không khỏi thán phục trước những đặc sắc nghệ thuật của tác phẩm. Tác giả xây dựng tình huống truyện bất ngờ là lời nói ngây thơ của bé Đản, hình ảnh “chiếc bóng” vô tri vô giác đã đẩy đưa số kiếp của Vũ Nương rơi vào vực sâu bi kịch, gia đình chịu cảnh chia lìa tang thương.Tác phẩm không kể lại chuyện đời một cách khô khan và cứng nhắc mà là sự chung hòa giữa tự sự và trữ tình kết hợp với những yếu tố kì ảo hoang đường. Đây là cách thức kể chuyện độc đáo, dẫn lối người đọc dấn thân vào các tình tiết.

“Chuyện người con gái Nam Xương” thấm đẫm giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc. Qua số phận và cuộc đời của Vũ Nương, tác giả đã phản ánh kiếp sống bi thương của những người phụ nữ trong xã hội cũ. Đồng thời, tác phẩm còn là tiếng kêu đanh thép lên án chế độ phong kiến với thói trọng nam khinh nữ, chồng chúa vợ tôi đầy bất công. Truyện còn tố cáo chiến tranh loạn lạc, phi nghĩa gây ra bao đau thương, tan vỡ cho những mái ấm gia đình. Truyện đã cho ta thấy cái tài cái tâm của người nghệ sĩ, niềm cảm thương sâu sắc của tác giả trước những phận đời “hồng nhan đa truân”, quẫn quanh trong bi kịch nối tiếp bi kịch.

Nguồn: thichvanhoc