Thứ Sáu, 2 tháng 6, 2023

Phải chăng tự học là hành trang quan trọng nhất để vững bước trên đường đời?

 Đề. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, học tập chính là một quá trình tiếp thu tri thức. Việc tự học suốt cuộc đời mỗi người là quan trọng, cần thiết và thường xuyên. Đây là cách tốt nhất để mỗi người làm giàu trí tuệ và nhân cách, để ngày càng tiến bộ…

Em hãy viết một bài văn ngắn (khoảng 500 chữ) trả lời câu hỏi: Phải chăng tự học là hành trang quan trọng nhất để vững bước trên đường đời?

1. Mở bài: 

Xã càng hiện đại thìnhu cầu về trí tuệ của con người cũng ngày càng tăng. Để đáp ứng nhu cầu của xã hội, mỗi con người cần chuẩn bị cho mình một hành trang kiến thức thật vững chắc để bước vào đời. Và muốn nắm vững tri thức, không có gì quan trọng bằng tinh thần tự học. Vậy phải chăng tự học là hành trang quan trọng nhất để vững bước trên đường đời?

2. Thân bài: 

* Giải thích:

- Tự học là tự mình lựa chọn, tiếp cận và tiếp nhận tri thức mà không cần ai nhắc nhở hay dạy bảo.

- Hành trang, hiểu theo nghĩa đen, là những đồ dùng cần thiết mang theo khi đi xa. Theo nghĩa ẩn dụ, đó là những yếu tố tinh thần cần thiết như  tri thức, kỹ năng, thói quen, sự trải nghiệm,... để mỗi người vững vàng bước đi trên hành trình đời mình.

=> Tự học là hành trang cơ bản, tiên quyết giúp chúng ta yên tâm, chủ động, làm chủ cuộc đời cũng như rút ngắn khoảng cách đến vạch đích thành công một cách nhanh nhất.

* Biểu hiện:

- Người biết tự học tích cực, chủ động trong học tập, làm chủ và tự quản lý việc học của mình.

- Người biết tự học là biết tự xác định động cơ học, chọn mục tiêu học, tự vạch kế hoạch đi đến mục tiêu, điều chỉnh và đeo đuổi nó, chọn thời gian và nhịp điệu học, biết tự đánh giá mức độ lĩnh hội các kiến thức, kỹ năng cần có của mình một cách độc lập hoặc kết hợp với người, sách hay thiết bị học tập.

* Phân tích:

- Cuộc sống là một cuộc hành trình với những bài học thú vị. Hãy không ngừng học hỏi từ sách vở, từ cuộc sống để tự hoàn thiện bản thân mỗi ngày. Liên tục học hỏi trau dồi kiến thức hoặc các kỹ năng và cải thiện mình là cách để ta trưởng thành và tự tin hơn.

- Có câu “Càng hiểu biết, con người càng tự do”, hay “Đầu tư vào tri thức đem lại lợi nhuận cao nhất”. Tri thức chính là sức mạnh, là tấm vé vạn năng mở đường để mỗi người khám phá những món quà kỳ diệu của cuộc đời mình. Tự học là kĩ năng vô cùng quan trọng góp phần nắm bắt kiến thức sâu rộng, vững chắc và con đường duy nhất giúp bạn vững bước trong cuộc sống.

+  Tự học chính là hành trình của sự tìm kiếm và sáng tạo. Tự học giúp ta có tính chủ động học tập, là con đường dẫn tới sáng tạo, khơi nguồn lòng đam mê, tìm tòi những điều mới lạ.

+ Tự học giúp ta rèn luyện tính kiên trì. Cuộc sống là một quá trình dài  nhiều khúc cua, ngã rẽ,... đòi hỏi con người phải thật cô gắng, không ngại khó khăn, thử thách trên con đường chiếm lĩnh tri thức, những giá trị tốt đẹp thì mới cho kết quả tốt như mong muốn.

+ Biết tự học ta sẽ có nhận thức tốt để làm chủ bản thân, cuộc sống; sẽ biết đem những điều mình học hỏi được đóng góp cho xã hội.

- Tự học là một kỹ năng rất quan trọng và có ích cho cuộc sống. Nhưng ngoài ra còn có nhiều yếu tố khác cũng ảnh hưởng đến sự thành công và hạnh phúc của bạn như: sức khỏe, gia đình, bạn bè, đam mê và niềm vui…

* Phê phán:

- Không ai không học hỏi mà có thành công. Thực tế cuộc sống có nhiều bạn trẻ chưa nhận thức được tầm quan trọng của việc tự học; lười biếng trong học tập hoặc học tủ, học vẹt, học đối phó với thầy cô. Lại có những bạn trẻ chỉ mải mê học lí thuyết, học theo người khác mà không có định hướng rõ ràng cho bản thân,… Những bạn trẻ cần xem xét lại thái độ và hành vi học tập của mình nếu muốn thành công trong cuộc sống sau này.

* Bài học:

- Thành công không phải là thứ hễ bạn cứ muốn là được mà đòi hỏi phải trải qua một quá trình nuôi dưỡng, rèn luyện những thói quen tốt. Và tự học là kĩ năng quan trọng nhất trong thế kỷ 21, giúp ta vững bước trong cuộc sống.

* Bài học bản thân:

- Để tự học có hiệu quả, ta cần tích cực suy nghĩ, ghi chép, sáng tạo khi nghe giảng, đọc sách hay làm bài tập nhằm rút ra những kiến thức cần thiết, hữu ích cho bản thân.

- Tận dụng mọi điều kiện, phương tiện thuận lợi (internet, các phần mềm, đĩa, băng, truyền hình, sách, báo…), bằng nhiều hình thức khác nhau: học chính quy, từ xa, trực tuyến… để học tập.

- Rèn luyện tốt các kỹ năng như đọc, cập nhật thông tin trên sách, báo, các phương tiện thông tin; xây dựng kế hoạch học tập một cách khoa học, sắp xếp hợp lý thời gian để tự học.

- Cần áp dụng kiến thức học được vào thực tế cuộc sống, vào công việc đang làm, có như vậy mới khắc sâu cũng như kiểm nghiệm giá trị đích thực của lý thuyết;

3. Kết bài: 

Trình độ học vấn mở ra những con đường mới, kinh nghiệm mở ra những con đường mới, tài năng mở ra những con đường mới… Hầu hết các con đường chỉ rộng mở cho những ai hội đủ những “tài sản” thích hợp và luôn có động cơ phấn đấu. Hãy rèn luyện cho bản thân mình một tinh thần tự học để để vững bước trên đường đời.

 

Thứ Năm, 1 tháng 6, 2023

Phân tích Hai khổ đầu Viếng lăng Bác_Vẻ đẹp lối sống nghĩa tình của người Việt Nam

 Đề. Hãy chọn phân tích một đoạn thơ hay một nhân vật truyện giúp em cảm nhận được Vẻ đẹp lối sống nghĩa tình của người Việt Nam. Trình bày những tác động của đoạn thơ hay nhân vật truyện đó đối với bản thân em.

Bài làm

"Mỗi khi lòng ta xao xuyến rung rinh

Môi ta thầm kêu Bác: Hồ Chí Minh!" ( Sáng tháng năm - Tố Hữu )

Bác Hồ - tiếng gọi trìu mến trên môi mọi người, tiếng gọi thân thương đã hoà vào dòng máu của những người con đất Việt. Người là nguồn cảm hứng bất tận trong làng văn học nước nhà, "tên Người là cả một niềm thơ". Mỗi thi phẩm viết về Bác tựa như một ô cửa mở ra cảm xúc dạt dào, lòng kính yêu cùng niềm rung động khôn nguôi. Bài thơ Viếng lăng Bác là một nén hương thơm mà Viễn Phương dâng lên Bác Hồ kính yêu. Nhà thơ đã chấp bút viết nên một "Viếng lăng Bác" với hết thảy những tình cảm kính trọng, yêu quý và niềm thương nhớ dành cho người cha già của dân tộc. Ta có thể cảm nhận rõ ràng được vẻ đẹp lối sống nghĩa tình của người Việt Nam qua tấm lòng thành kính và biết ơn vô hạn của nhà thơ cũng như đồng bào miền Nam đối với vị lãnh tụ vĩ đại, người cha già kính yêu của dân tộc trong  cấc câu thơ sau:

Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác

Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát

Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam

Bão táp mưa sa, đứng thẳng hàng.

 

Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng

Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ

Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ

Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân...

Bác Hồ là người có công rất lớn đối với đất nước và con người Việt Nam. Sự ra đi của Bác để lại niềm tiếc thương chung cho toàn nhân loại. Bao năm trời kể từ lúc Bác ra đi, đồng bào ta vẫn luôn nhớ về Bác với những tình cảm chân thành nhất. Để bày tỏ tình yêu thương với người, nhà thơ Viễn Phương đã sáng tác bài thơ Viếng lăng Bác nhân chuyến ra Hà Nội thăm lăng của Người. Cả bài thơ chứa đựng bao nỗi niềm đau xót, sự xúc cảm chân thành dành cho vị Cha già của dân tộc của một người con nơi phương xa được trở về thăm.

Mang theo lòng tiếc thương vô hạn của cả dân tộc đối với Bác, nhà thơ đang thực hiện cuộc hành hương của mình sau bao năm chờ đợi được trở về bên người cha già kính yêu:

Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác

Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát

Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam

Bão táp mưa sa, đứng thẳng hàng.

Nhà thơ đã khéo léo giới thiệu được vị trí không gian quãng đường từ miền Nam xa xôi ra viếng lăng Bác:

Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác

Tiếng “con” cất lên thật gần gũi, thân thương. Đó là cách xưng hô rất mật thiết của người dân Nam Bộ, đã bộc lộ sâu sắc lòng ngậm ngùi thương nhớ của nhà thơ của đồng bào miền Nam đối với Bác. Tình cảm giữa miền Nam và Bác Hồ luôn luôn là tình cảm ruột thịt “Bác nhớ miền Nam nỗi nhớ nhà” (Tố Hữu) và tình cảm của miền Nam đối với Bác cũng là tình cảm nhớ mong da diết “Miền Nam mong Bác nỗi mong cha” (Tố Hữu). Tự đáy lòng của người con đến thăm cha, Viễn Phương nói với Bác: Con ở miền Nam…. Câu thơ giản dị nhưng bao hàm một ý nghĩa lớn. Trong tim Bác và trong tim miền Bắc, Miền Nam luôn luôn là nỗi đau chia cắt, nỗi nhớ thương, là niềm tự hào, là biểu tượng anh hùng, bất khuất, dũng cảm, kiên cường, là thành đồng Tổ Quốc… Giờ đây con mang theo cả niềm tự hào đó của đồng bào miền Nam đến với Bác nói rằng “Con ở miền Nam” – nơi vừa được giải phóng, vừa giành thắng lợi vẻ vang – đến đây để nói với cha rằng: “Con cảm ơn cha”. Hơn thế nữa, trong câu thơ này, ta còn nhận thấy một sự khác thường. Bác Hồ đã vĩnh viễn đi xa, thế nhưng tác giả không dùng từ “viếng” mà lại dùng từ “thăm”, bởi với nhà thơ Viễn Phương, Bác Hồ vẫn mãi sống trong trái tim, trong nỗi nhớ mỗi người dân Việt Nam. Đây hẳn là lí do mà tác giả sử dụng từ "thăm", một cách nói giảm nói tránh đầy tinh tế. Chuyến thăm từ mảnh đất "đi trước về sau", chịu bao nỗi đau chia cắt dưới gót giày của kẻ xâm lấn. Mang theo cả trái tim miền Nam đang từng ngày mong mỏi, thiết tha hướng về Bác Hồ, mang theo nỗi niềm của một người con dành cho cha.

Trong niềm vui, niềm hân hoan, rạo rực vì được viếng lăng Bác đang dào dạt dâng lên, nhà thơ xúc động ngắm nhìn quang cảnh trước lăng Bác:

Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát

Ôi hàng tre xanh xanh Việt Nam

Bão táp, mưa sa, đứng thẳng hàng.

Hàng tre bát ngát cuốn hút cảm xúc của nhà thơ. Hiện lên trong sương khói quảng trường Ba Đình lịch sử là hình ảnh hàng tre xanh bát ngát. Hàng loạt từ láy  "xanh xanh", "bát ngát" kết hợp thán từ “Ôi!” đã bộc lộ cảm xúc mãnh liệt, tha thiết của tác giả khi nhìn thấy hàng tre đĩnh đạc, uy nghiêm không khác gì những anh chiến sĩ trung kiên ngày đêm đứng gác, canh giữ cho giấc ngủ an lành, bình yên của Bác Hồ kính yêu. Hàng tre xanh xanh trong vườn Bác gợi cho người đọc nhiều liên tưởng. Chắc rằng, cũng như mọi người Việt Nam, trong tâm khảm nhà thơ, cây tre là hình ảnh giản dị, thân thuộc, đời đời gắn bó với quê hương làng xóm. Tre  có mặt xung quang trong cuộc sống của người dân, tre tham gia vào cuộc kháng chiến cùng người dân “tre xung phong vào xe tăng đại bác, tre giữ làng giữ nước giữ mái nhà tranh giữa đồng lúa chín” (Thép Mới). Tre mang bao phẩm chất của con người Việt Nam: mộc mạc, thanh cao, ngay thẳng bất khuất. Hàng tre ấy cũng như những con người VN ta dù phải trải qua bao “bão táp mưa sa” thì vẫn “đứng thẳng hàng”.  Dáng dấp tre hiên ngang, bất khuất, thách thức cả “bão táp mưa sa” gợi tư thế quật cường, mạnh mẽ của một đất nước nhỏ bé trên bản đồ thế giới. Chính quốc gia ấy đã ghi tạc tên mình trong những trang sử chói lọi, hùng tráng, như một thần thoại oanh liệt. Tre không cao lớn, tre chẳng phải loài cây đáng giá ngàn vàng, nhưng tre mãi vững vàng trước bão giông. Như Bác Hồ ta suốt đời sống giản dị, chẳng khoa trương mà cứ lặng lẽ, kiên cường tranh đấu vì độc lập tự do của dân tộc.

Có thể thấy rằng, khổ thơ đầu tiên đã để lại rất nhiều ấn tượng trong lòng bạn đọc. bằng những từ ngữ và hình ảnh chọn lọc, lời thơ cho ta nhận ra niềm xúc động của nhà thơ khi được ra lăng viếng Bác. Đồng thời cũng qua đó ta cảm nhận được lòng thành kính và niềm biết ơn vô hạn của Viễn Phương dành cho Bác Hồ kính yêu.

Mạch cảm xúc của Viễn Phương ngày càng xao động khi hoà nhập trong dòng người vào thăm lăng Bác:

Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng

Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ

Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ

Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân...

Viễn Phương mượn hình ảnh thực kết hợp với sử dụng nghệ thuật ẩn dụ sóng đôi để so sánh Bác Hồ tượng trưng như mặt trời soi sáng cả nước Việt:

Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng

Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ.

Ai đã từng một lần đi viếng lăng Bác mới hiểu hết hàm ý trong câu thơ của Viễn Phương. Ngày ngày, mặt trời - chúa tể của thiên nhiên - thán phục một mặt trời trong lăng rất đỏ. Mặt trời rất đỏ, hình ảnh tượng trưng cho Bác Hồ - là mặt trời cách mạng, là nguồn ánh sáng rực rỡ không bao giờ tắt, mãi mãi chiếu rọi con đường đi tới của dân tộc Việt Nam. Nhiều nhà thơ đã sử dụng hình ảnh mặt trời để thể hiện ánh sáng của lý tưởng cách mạng, nhưng đối sánh hai hình ảnh mặt trời của Viễn Phương quả là rất độc đáo. Đây là một sáng tạo nghệ thuật có tác dụng bộc lộ nội dung rất hiệu quả. Không nhiều lời, chỉ một hình ảnh mặt trời rất đỏ, nhà thơ đã khái quát được hình ảnh Bác Hồ vĩ đại. Nhà thơ đã nói hộ chúng rằng: Bác Hồ là mặt trời cách mạng đẹp nhất, rực rỡ nhất, chói lọi nhất luôn luôn toả sáng trong tâm hồn người Việt Nam. Điệp ngữ “ngày ngày” được tác giả khéo léo sử dụng như để thể hiện sự nối tiếp lặp đi lặp lại hằng ngày. Điều đó chính là sự vô tận, là lời khẳng định Bác sẽ còn mãi, sẽ trường tồn bất diệt trong lòng mỗi người dân đất Việt. Lời thơ thật đơn giản nhưng chứa đựng trong đó là cả một tấm lòng. Chúng ta nhận ra trong những câu thơ ấy là tình yêu thương và niềm biết ơn vô hạn của nhà thơ đối với Bác

Cùng với mặt trời ngày ngày đi qua trên lăng là dòng người đi trong thương nhớ:

Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ

Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân...

Nhịp thơ chầm chậm như bước chân của dòng người lặng lẽ đi trong suy tưởng, bao trùm một một không khí thương nhớ Bác không nguôi, thành kính kết tràng hoa tình yêu dâng bảy mươi chín mùa xuân của Người. Viến Phương  tiếp tục sáng tạo một hình ảnh ẩn dụ vô cùng đẹp đẽ. Đó là hình ảnh “tràng hoa”. Hình ảnh ấy gợi lên trong ta biết bao nhiêu liên tưởng thú vị. Nó khiến ta nghĩ đến những vòng hoa tươi thắm mà mỗi đoàn viếng thăm đều dâng lên người. Tuy nhiên không chỉ có thế, hình ảnh này còn là ẩn dụ cho những dòng người đang nối nhau vào lăng viếng Bác. “Người ta là hoa của đất”, nhà thơ thật sâu sắc và tinh tế khi tôn quí nhân dân. Mỗi người dân là một bông hoa và dòng người đi trong thương nhớ chính là tràng hoa dâng lên Bác.   Những cánh hoa được kết lại từ niềm tiếc thương thẫm đẫm vào dòng máu, từ lòng thành kính khắc ghi mãi tên Người vào trái tim. Đó cũng chính là sự biết ơn công lao to lớn của Bác. "Bảy mươi chín mùa xuân" của một đời người, một kiếp sống, Bác đã cống hiến vì toàn dân, đã đem ánh sáng của chân lí, của cách mạng lan toả từ rừng sâu hẻo lánh đến đỉnh đồi xa xâm, từ thị thành phố huyện đến đồng nội xanh rì. Bác vẫn sống như mỗi mùa xuân của đất nước Việt NamNgày ngày… ngày ngày …, thời gian không ngừng trôi và lòng người Việt Nam không bao giờ nguôi tình cảm nhớ thương, yêu quí, kính trọng đối với Bác.

Có thể nói, khổ thơ này chính là khổ thơ cảm động nhất và thể hiện rõ sự vĩnh hằng và trường tồn của Bác Hồ trong lòng mỗi con dân Việt Nam. Ông đã dùng những từ ngữ trân trọng và tôn kính nhất kết hợp cùng những biện pháp tu từ đặc sắc để ca ngợi và thể sự biết ơn, kính trọng nhất dành cho Bác Hồ, đã giúp người đọc cảm nhận được trọn vẹn nỗi xúc động nghẹn ngào, lòng thành kính và niềm biết ơn vô hạn của nhà thơ đối với Bác. Và cũng qua những vần thơ ấy ta nhận ra Bác vẫn còn mãi trong trái tim của mỗi con người, và của cả dân tộc Việt Nam.

"Viếng lăng Bác" ngời sáng trong vườn địa đàng thơ ca nhờ giọng điệu nhẹ nhàng, tha thiết mà lắng đọng nơi hồn người cùng hình ảnh, ngôn ngữ chọn lọc, giản dị, trang trọng và giàu cảm xúc. Xuyên suốt hai khổ thơ là những cảm nhận rất thực và vô cùng tinh tế của Viễn Phương. Cảm xúc ấy khi thì bồi hồi, xúc động, tự hào, khi lại vô cùng biết ơn, thành kính. Hai khổ thơ cũng đã đưa ta về với hình ảnh rực rỡ của vị cha già vĩ đại, kính yêu ngàn đời còn sống mãi theo năm tháng, theo thời gian.

Lòng thương nhớ, biết ơn Bác của Viễn phương, của nhân dân miền Nam giúp em hiểu rõ “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, “Uống nước nhớ nguồn” là truyền thống lâu đời của con người Việt Nam. Nét đẹp ân tình, chung thuỷ là truyền thống tốt đẹp của dân tộc, truyền thống ấy bao trùm cách sống, cách ứng xử của con người Việt Nam trong mọi quan hệ qua hàng nghìn năm lịch sử. Bài thơ như một lời nhắc, gợi trong em bao suy nghĩ, chiêm nghiệm về một lẽ sống ân nghĩa thủy chung cao quý trong cuộc đời. Chẳng ai hạnh phúc nếu không biết trân trọng, tri ân và chung thuỷ với quá khứ. Lối sống ân nghĩa thủy chung  níu giữ con người khỏi bị trôi trượt đi bởi những lo toan tất bật hằng ngày, nó bảo vệ con người khỏi những cám dỗ tầm thường. Và trên hết, nó luôn hướng con người đến những giá trị bền vững của cuộc sống. Lối sống ân nghĩa thủy chung nhắc nhở em cần biết ơn tổ tiên, ông bà, cha mẹ, những anh hùng vĩ đại đã hi sinh, lấy thân mình, mồ hôi xương máu để bảo vệ nền độc lập cho đất nước, giữ vững bình yên vùng trời Tổ quốc. Lối sống ân nghĩa thủy chung nhắc em phải biết sống vui, sống khoẻ và có ích cho xã hội, phần để thực hiện đúng trách nhiệm, bổn phận của mình, phần vì không hổ thẹn với những người đi trước mang lại cho mình cuộc sống tốt đẹp.

Lối sống ân nghĩa thủy chung không chỉ được khắc sâu trong tâm hồn mà còn phải được thể hiện bằng hành động cụ thể. Là con cháu vua Hùng, thuộc dòng dõi Lạc Hồng, em cũng như các bạn trẻ phải biết tự hào về truyền thống đấu tranh anh dũng của dân tộc, phải ý thức quý trọng giữ gìn những giá trị mà quá khứ đã tạo nên bằng mồ hôi, nước mắt và xương máu, tiếp tục phát triển các thành quả của quá khứ. Là một người con em sẽ chăm học chăm làm, sống tốt đẹp làm vẻ vang cho cha mẹ gia đình, biết hiếu thảo, săn sóc ông bà cha mẹ khi già yếu. Là một học sinh em rèn và luôn thể hiện đạo lý tôn sư trọng đạo. Hoàn thiện bản thân và trở thành người có ích đem tài năng của mình ra xây dựng quê hương đất nước trở nên giàu đẹp hơn. Sống nghĩa tình để cảm nhận được tình yêu thương.

Dù Bác đã ra đi nhưng Bác sẽ còn sống mãi trong trái tim của Viễn Phương nói riêng, nhân dân Việt Nam ta nói chung. Tỏ lòng thành kính với Bác cũng là động lực giúp mọi người sống và làm việc tốt hơn. Bài thơ  “Viếng lăng Bác” với giọng điệu tâm tình nhẹ nhàng sâu lắng mà chất chứa suy tư day dứt nhắc nhở mỗi chúng ta hãy biết sống ân tình chung thuỷ với quá khứ, với lịch sử, với nhân dân và đất nước. Và ngay hôm nay, được sống trong yên vui hoà bình, thế hệ trẻ chúng ta cần phải ghi nhớ công ơn trời biển của Bác, truyền thống uống nước nhớ nguồn mà ra sức học tập tốt để góp phần xây dựng quê hương, đất nước giàu đẹp như Bác đã từng mong ước. 

Phân tích hình ảnh ông Sáu làm chiếc lược ngà - Vai trò của cha

 Đề. Hãy chọn phân tích một đoạn thơ hay một nhân vật truyện giúp em cảm nhận được vai trò của cha. Trình bày những tác động của đoạn thơ hay nhân vật truyện đó đối với bản thân em.

Bài làm

Chiến tranh có thể tàn phá những gì trên đường nó đi qua, duy nhất tình cảm gia đình không bom đạn nào có thể hủy diệt được. Điều này thể hiện rõ tác phẩm “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng. Đến với truyện ngắn “Chiếc lược ngà” ta sẽ cảm nhận được vẻ đẹp, sự hi sinh của người cha - người cha lúc nào cũng hi sinh vì gia đình, yêu thương con và đặc biệt trong thời chiến thì tình cảm ấy càng quý giá hơn bao giờ hết. Tình yêu thương con mãnh liệt của ông Sáu gửi gắm trong chiếc lược ngà mà anh làm tặng cho con khiến người đọc vừa yêu mến vừa xót xa.

Tác phẩm “Chiếc lược ngà” được Nguyễn Quang Sáng viết vào năm 1966. Khi ấy, tác giả đang hoạt động ở chiến trường Nam Bộ, đó là những năm cuộc kháng chiến chống Mỹ ác liệt. Đây là một truyện ngắn giản dị nhưng chứa đầy sức bất ngờ. Truyện ngắn chỉ xoay quanh tình cha con của một người lính nhưng lại vô cùng cảm động. Trong đó, nhân vật chính - ông Sáu là một nhân vật đã tạo nên mạch cảm xúc dạt dào xuyên suốt tác phẩm. Ông là một người lính vừa yêu nước lại vừa yêu gia đình, nhưng khi trở về thăm con gái nhỏ sau tám năm ròng xa cách lại không được con đón nhận. Tình huống tuy éo le nhưng lại mở ra sự gắn kết giữa hai con người vô cùng sâu sắc.

Ông Sáu xa nhà đi kháng chiến, mãi đến khi con gái ông lên tám tuổi, ông mới có dịp về thăm nhà, thăm con. Bé Thu không chịu nhận cha vì vết thẹo trên mặt làm ba em không giống với người chụp chung với má trong bức ảnh mà em đã biết. Thu đối xử với ba như người xa lạ, đến lúc hiểu ra, tình cảm cha con thức dậy mãnh liệt trong em thì cũng là lúc ông Sáu phải lên đường. Ở khu căn cứ, bao nỗi nhớ thương con, ông dồn vào việc làm cho con cây lược. Ông hi sinh trong một trận càn của Mỹ nguỵ. Trước lúc nhắm mắt, ông còn kịp trao cây lược cho một người bạn. Cốt truyện tuy ngắn gọn nhưng lại chất chứa đầy nỗi niềm xúc động.

Sau bao năm tháng mong chờ, đau khổ, ông Sáu đã được đón nhận một niềm vui vô bờ khi bé Thu gọi tiếng “Ba”. Ông trở lại khu căn cứ với một yên tâm lớn rằng ở quê nhà có một đứa con gái thân yêu luôn chờ đợi ông, từng giây từng phút mong ông quay về. Tình cảm của ông Sáu dành cho bé Thu trở nên mãnh liệt hơn, cao cả, thiêng liêng và cảm động hơn bao giờ hết là việc ông tự tay làm chiếc lược ngà cho con.

Ba về! Ba mua một cây lược cho con nghe ba!”- lời nói vô tư của trẻ con ấy lại khiến ông khắc cốt ghi tâm. Đó là mong ước đơn sơ của đứa con gái bé bỏng trong giây phút cha con tạm biệt. Nhưng đối với người cha ấy, đó là mong ước đầu tiên và cũng là duy nhất cho nên nó cứ thôi thúc trong lòng. Ao ước của con dần dần cũng trở thành ước nguyện của ông. Kiếm cho con cây lược trở thành bổn phận của người cha, thành tiếng gọi cầu khẩn của tình phụ tử trong lòng. Ông bật dậy như bỗng loé lên một sáng kiến lớn: làm cây lược cho con bằng ngà voi. Có lẽ không đơn thuần vì ở rừng rú chiến khu, ông không thể mua được cây lược nên làm lược từ ngà voi là một cách khắc phục khó khăn. Mà cao hơn thế, sâu hơn thế, ngà voi là thứ quí hiếm - chiếc lược cho con của ông phải được làm bằng thứ quý gía ấy. Và ông không muốn mua, mà muốn tự tay mình làm ra. Ông sẽ đặt vào trong đấy tất cả tình yêu thương con của mình. Ông quả là một người cha chiều con và luôn biết giữ lời hứa với con, đó là biểu hiện tình cảm trong sáng và rất sâu nặng. Kiếm được ngà voi, mặt ông “hớn hở như một đứa trẻ được quà”. Vậy đấy, khi người ta hoá thành con trẻ lại chính là lúc người ta đang hiện lên cái tư cách người cha cao quý của mình.

Tình cảm sâu sắc của người cha dành cho con được thể hiện ngay trong việc làm cho con cây lược. Những lúc rỗi, ông “ngồi cưa từng chiếc răng lược, thận trọng tỉ mỉ và khổ công như người thợ bạc”. Làm chiếc lược cho con đúng là một cuộc hành trình, bởi người cha chiến sĩ ấy vừa đối mặt với đạn bom, với đói rét, hiểm nguy, lại vừa tỉ mỉ mài từng chiếc răng lược. Trong từng chiếc răng lược có nỗi nhớ thương con, có sự ân hận vì đã đánh con, có niềm mong đợi ngày trở về. Bụi ngà mỗi ngày rơi một nhiều làm người đồng đội cũng cảm thấy vui cho ông. Trên sống lưng cây lược, ông đã tẩn mẩn khắc một dòng chữ nhỏ: “Yêu nhớ tặng Thu con của ba”. Dòng chữ nhỏ mà chứa bao tình cảm lớn lao. Chiếc lược xét về vật chất không đáng giá nhưng xét về tình cảm tinh thần thì nó vô cùng quý giá không gì có thể thay thế được bởi vì nó được làm từ tình yêu thương vô bờ bến của người cha dành riêng cho con. Hình ảnh ông ngồi khắc chữ lên chiếc lược có lẽ là hình ảnh đẹp tuyệt vời nhất của mẩu truyện.

Việc làm chiếc lược vừa là cách ông giải tỏa tâm trạng mong nhớ, ân hận vừa là cách gửi vào đó những yêu thương khao khát cháy bỏng dành cho đứa con gái yêu của mình. Chiếc lược ngà giờ đây đã trở thành một vật quí giá thiêng liêng với ông Sáu. Nó làm dịu đi nỗi ân hận và chứa đựng bao nhiêu tình cảm yêu mến, nhớ thương, mong đợi của của người cha đối với đứa con xa cách. Cây lược ấy chưa chải được mái tóc của con nhưng nó như gỡ rối được phần nào tâm trạng của ông. Những lúc nhớ con, ông “lấy cây lược ra ngắm nghía rồi mài lên tóc cho cây lược thêm bóng thêm mượt”. Lòng yêu con đã biến người chiến sĩ trở thành một nghệ nhân - nghệ nhân chỉ sáng tạo ra một tác phẩm duy nhất trong đời. Ông gửi vào đó bao lời nhắn nhủ thiêng liêng, gửi vào đó bao nỗi nhớ mong con. Chiếc lược ngà là kết tinh tình phụ tử mộc mạc mà đằm thắm, đơn sơ mà diệu kì, là hiện hữu của tình cha con bất hủ giữa ông Sáu và bé Thu. Tình thương ông dành cho con cháy bỏng, như một dòng sông chảy mãi từ suối nguồn, như dòng máu chảy sâu vào tim ông, vào tâm hồn ông đến phút cuối vẫn bùng cháy chẳng nguôi.

Làm được cây lược cho con, ông Sáu mong được gặp con, được tận tay chải mái tóc con. Nhưng rồi, một tình cảnh đau thương lại đến với cha con ông Sáu: trong một trận càn lớn của quân Mỹ ngụy, ông Sáu bị một viên đạn bắn vào ngực và ông đã hi sinh. “Trong giờ phút cuối cùng, không còn đủ sức trăng trối lại điều gì, hình như chỉ có tình cha con là không thể chết được”, tất cả tàn lực cuối cùng chỉ còn cho ông làm một việc “đưa tay vào túi, móc cây lược” đưa cho người bạn chiến đấu. Đó là điều trăng trối không lời nhưng nó thiêng liêng hơn cả những lời di chúc. Nó là sự ủy thác, là ước nguyện cuối cùng, ước nguyện của tình phụ tử. Lời kể như nấc nghẹn, người cha đã không thể thực hiện trọn vẹn lời hứa với con – trở về và trao cho con cây lược. Chiếc lược ngà như là biểu tượng của tình thương yêu, săn sóc của người cha dành cho con gái, cho dù đến khi không còn nữa anh chưa một lần được chải tóc cho con. Người kể chuyện, đồng đội của ông Sáu đã bộc lộ một sự đồng cảm và xúc động thực sự khi kể lại câu chuyện. Có lẽ, không ai hiểu nhau hơn những người đồng đội, gần nhau hơn những người đồng đội. Cho nên, sau này, khi trao tận tay Thu chiếc lược, giữa Thu và người đồng đội của cha mình nảy nở một tình cảm giống như tình cha con.

Những dòng cuối cùng của đoạn trích khép lại trong nỗi buồn mênh mang mà chứa chan ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Chiến tranh là hiện thực đau xót của nhân loại. Chiến tranh đã làm cho con người phải xa nhau, chiến tranh làm khuôn mặt ông Sáu biến dạng, chiến tranh khiến cuộc gặp gỡ của hai cha con vô cùng éo le,bị thử thách,rồi một lần nữa chiến tranh lại khắc nghiệt để ông Sáu chưa kịp trao chiếc lược ngà đến tận tay cho con mà đã phải hi sinh trên chiến trường. Nhưng những đau thương mất mát mà chiến tranh tàn bạo gây ra không thể nào giết chết những tình cảm đẹp đẽ của con người Việt Nam. “Chiếc lược ngà” như một truyện cổ tích hiện đại dẫn người đọc dõi theo số phận của nhân vật. Người còn, người mất nhưng kỉ vật gạch nối giữa cái mất mát và sự tồn tại là chiếc lược ngà nói với chúng ta nhiều điều về tình người, tình đồng chí, tình cha con. Cảm động nhất, để lại ấn tượng nhiều nhất cho người đọc là tình phụ tử thiêng liêng, sâu đậm – tình yêu thương mà ông Sáu dành cho đứa con gái.

Người đọc đã không thể cầm được nước mắt khi nghe tiếng khóc thét của đứa con gọi cha buổi chia tay hồi nào, giờ bỗng không thể cầm lòng khi chứng kiến cái cử chỉ cầm cây lược và ánh mắt nhìn của người cha vào giây phút lâm trung. Từng có bao nhiêu áng văn nói về tình mẹ cực kì xúc động nhưng có lẽ đây là một trang văn rất hiếm hoi mô tả đến tận cùng sâu thẳm trái tim yêu thương của người cha dành cho con.

Có thể nói nhân vật ông Sáu được nhà văn xây dựng bằng những nét nghệ thuật đặc sắc. Nguyễn Quang Sáng đã đặt nhân vật vào cảnh ngộ éo le của đời sống để từ đó ngòi bút miêu tả tâm lí tinh tế đã phát hiện bao cung bậc cảm xúc của tình phụ tử. Ngoài ra, ngôn ngữ kể chuyện vừa truyền cảm, vừa mang đậm chất địa phương Nam Bộ đem đến cho người đọc nhiều xúc động. Đặc biệt, nhà văn đã lựa chọn được một số chi tiết nghệ thuật rất đắt giá như lời dặn mua cho con cây lược của bé Thu,ông Sáu hớn hở khi kiếm được chiếc ngà voi… Tất cả đã góp phần tô đậm vẻ đẹp của người chiến sĩ Cách mạng, của người cha yêu con nồng thắm.

Ông Sáu là đại diện tiêu biểu về một người chiến sĩ anh dũng đồng thời còn là một người cha có tình yêu thương con vô bờ bến. Qua tác phẩm, em nhận ra tình cha con thiêng liêng sâu sắc biết nhường nào. Tình phụ tử cũng như những tình cảm gia đình khác đều trở thành mạch nguồn của tình yêu quê hương đất nước. Hình ảnh ông Sáu gợi nhắc cho em câu ca dao ngàn đời:

“Công cha như núi Thái Sơn

Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.”

“Nghĩa mẹ”, “công cha” là thế đó. Cha lúc nào cũng vẫn là cha, là nguồn sức mạnh tinh thần vô biên cho con cái. Dù ở bất cứ hoàn cảnh nào, thời điểm nào cha vẫn là điểm tựa cho con, đều yêu thương con cái dạt dào sâu sắc. Họ cũng sãn sàng hy sinh vì con cái, họ cũng quặn trong lòng cùng nỗi đau của  con cái. Càng ở trong cảnh ngộ khó khăn thì tình cha con càng được tỏa sáng, thiêng liêng và cao quý. Ông Sáu giúp em nhận ra tầm quan trọng của cha trong cuộc đời mình. Cha chính là chỗ dựa tinh thần; là người định hướng tương lai; là người luyện tập cho em những kĩ năng đầu tiên để trở thành một con người bản lĩnh; là người rèn luyện cho em ý chí và nghị lực để khi vấp ngã có thể tự mình đứng dậy; là người tập cho em tính tự tin khi đứng trước đám đông , tập cho em tính tự lập từ khi còn bé,giúp em vững tin bước vào đời.

Đường đời thường nhiều gian truân, giữa cha và con đừng tạo cho nhau thêm những khoảng cách về vật chất lẫn tinh thần, vì thế em sẽ cố gắng yêu thương họ, để thấy rõ hơn được công sức mà cha đã bỏ ra để thực hiện tốt vai trò của một người cha tốt trong gia đình. Em lưu giữ trong trái tim mình hình ảnh một người cha, trân trọng tình yêu và sự hi sinh vô điều kiện mà cha đã dành cho mình và biết phải nâng niu hơn hạnh phúc gia đình mình đang có… Em phải nỗ lực học tập, rèn luyện đạo đức, tu bổ bản thân của mình thật tốt, trở thành người tốt để cha mẹ được vui lòng. Em sẽ cố gắng giúp đỡ cha mẹ những công việc trong khả năng của mình, không làm cho cha mẹ phiền lòng, nghĩ ngợi về mình.

“Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng là áng văn bất hủ ca ngợi tình phụ tử giản dị mà thiêng liêng, với những con người giàu tình cảm và đẹp đẽ. Tác phẩm là xây dựng được hình tượng người cha mẫu mực. Trong mỗi tình cảnh éo le, tình cha con càng thắm thiết, sâu nặng, để lại trong lòng người đọc những xúc động sâu xa, những giá trị nhân bản đẹp đẽ, cao cả, thiêng liêng biết mấy. Vì thế mà ta càng quí trọng cuộc sống mình có ngày hôm nay, quí trọng tình cha cao thượng và vĩ đại. Vòng đời ngắn ngủi lắm, đừng mãi sống ích kỉ - chỉ biết nhận tình cảm yêu thương từ cha mẹ mà chẳng bao giờ đền đáp lại. Nếu bạn còn cha, và một người cha đúng nghĩa thì hãy cảm ơn thượng đế vì bạn đã được sinh ra trong cuộc sống này!