Hiển thị các bài đăng có nhãn Bài làm HS. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Bài làm HS. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Năm, 24 tháng 6, 2021

Đồ nhựa dùng một lần “tiện” nhưng không “lợi”

 

Sự tiện dụng của sản phẩm nhựa dùng một lần và túi nilon từ lâu đã trở thành một vật dụng vô cùng quen thuộc trong hầu hết các gia đình Việt. Tuy nhiên, mặt trái của sự tiện dụng ấy chính là những nguy cơ tiềm ẩn, ảnh hưởng đến sức khỏe con người và môi trường. Nó thực sự “tiện” nhưng không “lợi” khi con người đã quá lạm dụng.

Em hãy viết bài văn ngắn (khoảng 500 chữ) với nhan đề: Đồ nhựa dùng một lần “tiện” nhưng không “lợi”

Bài làm của Nguyễn Thị Bảo Hân (HS 9a2 trường THCS Phan Bội Châu Q12)

Sự tiện dụng của sản phẩm nhựa dùng một lần và túi nilon từ lâu đã trở thành một vật dụng vô cùng quen thuộc trong hầu hết các gia đình Việt, cũng như các nước khác trên toàn thế giới. Tuy nhiên, ngày nay chúng ta đang phải đối mặt với những nguy cơ tiềm ẩn, ảnh hưởng đến sức khỏe con người và môi trường do chính sự lạm dụng quá mức đồ dùng nhựa. Đồ nhựa dùng một lần “tiện” nhưng không “lợi”.

Đồ nhựa dùng1 lần là những sản phẩm được làm bằng nhựa, sản xuất ra với mục đích chỉ dùng một lần rồi vứt bỏ. Các sản phẩm này có thế là túi ni lông, muỗng nhựa, chai nhựa, hộp xốp, màng bọc thực phẩm,… được sử dụng một lần trong thời gian ngắn, phục vụ cho sinh hoạt và sản xuất của con người. Các sản phẩm này thường có giá thành rẻ và khó phân hủy, gây ô nhiễm môi trường.

Hiện nay, người dân có thể bắt gặp các sản phẩm nhựa dùng 1 lần như cốc, dĩa, hộp xốp, túi ni lông, … ở bất kì đâu, ở quán cơm, chợ, quán nước hoặc có thể dễ dàng mua trên thị trường với mức giá rất rẻ. Hàng nghìn cốc nước mía, trà sữa hay cốc chè được bán ra mỗi ngày cũng là chừng ấy những chiếc cốc nhựa, ống hút và túi nilon bị vứt ra ngoài môi trường. Theo thống kê, mỗi năm, Việt Nam sử dụng hơn 30 tỷ túi ni lông nhưng chỉ có 17% số đó được tái sử dụng. Với thực trạng trên, chẳng mấy chốc nước ta sẽ chìm trong biển rác nhựa và có phải đối mặt với nguy cơ “ô nhiễm trắng” trầm trọng.

Vậy nguyên nhân của tình trạng trên là do đâu? Do người dân chưa ý thức được tác hại ghê gớm của rác thải nhựa, thói quen sử dụng đồ nhựa 1 lần rồi bỏ, xả rác bừa bãi. Dù cho có hiểu được thì ở đồ dùng nhựa còn có rất nhiều ưu điểm: bền chắc, tiện dụng, giá thành thấp, dễ tìm mua, đa dạng mẫu mã. Cuộc sống hiện đại bận rộn, con người có xu hướng ưa chuộng những thứ nhanh-gọn-lẹ, thì đồ dùng nhựa là lựa chọn hàng đầu. Việc xử lí, tái chế rác thải nhựa còn nhiều yếu kém, lạc hậu và có nhiều hạn chế khi phần lớn được xử lí theo cách chôn, lấp, đốt, chỉ có số ít phần còn lại là được tái chế. Trong khi đó, các sản phẩm này rất khó phân hủy trong môi trường tự nhiên, tùy theo loại mà có thời gian phân hủy lên đến hàng trăm, hàng nghìn năm. Trường học, gia đình cũng chưa chú trọng giáo dục con em về rác thải nhựa.Một số gia đình còn trở thành tấm gương xấu cho con trẻ khi có thói quen xả rác bừa bãi, không phân loại rác tại nguồn.

Đồ nhựa dùng một lần vô cùng tiện lợi nhưng đi kèm với nó là những mối nguy hại cực lớn, ảnh hưởng đến chính sức khỏe và đời sống con người. Các đồ dùng làm bằng nhựa chất lượng kém thường chứa những chất hóa học, nếu sử dụng trong thời gian dài có thể gây các bệnh, ảnh hưởng đển sức khỏe con người. Rác thải nhựa không được xử lí đúng cách sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến không khí, môi trường đất và nước. Khi đốt, rác thải nhựa sẽ sinh ra chất độc đi-ô-xin, furan gây ô nhiễm không khí, gây ngộ độc, ảnh hưởng đến tuyến nội tiết, làm giảm khả năng miễn dịch, gây ung thư,… Khi chôn lấp, theo thời gian thì rác thải nhựa làm cho đất không giữ được nước, dinh dưỡng và ngăn cản quá trình khí oxy đi qua đất, gây tác động xấu đến sự sinh trưởng của cây trồng. Hơn nữa, nó có thể làm ô nhiễm nguồn nước. Rác thải nhựa không được thu gom, thải ra ngoài môi trường, các loài động vật khi ăn phải có thể chết, dẫn đến nguy cơ tuyệt chủng, gây mất cân bằng hệ sinh thái. Đặc biệt là các sinh vật biển khi mỗi năm có hàng ngàn, hàng triệu tấn rác thải nhựa thải ra môi trường biển. Thêm nữa, rác thải nhựa còn làm xấu mỹ quan, ảnh hưởng đến không gian sống của con người.

 

Những hiểm họa từ rác thải nhựa mang lại là rất lớn. Tuy nhiên, cho đến nay con người chưa có các loại vật liệu khác để thay thế hoàn toàn. Để giảm thiểu rác thải nhựa, mỗi người cần nâng cao ý thức bản thân về rác thải nhựa. Nên hạn chế tối đa việc sử dụng đồ nhựa, thay thế bằng các nguyên liệu tự nhiên như thủy tinh, vải, gỗ,… để có thể tái sử dụng lại nhiều lần. Nếu bắt buộc phải sử dụng đồ dùng 1 lần, hãy lựa chọn các vật dụng thân thiện với môi trường như ống hút giấy, hộp đựng bằng bã mía,…thay cho đồ làm từ nhựa. Vứt rác đúng nơi quy định, chủ động phân loại rác thải tại nguồn. Cha mẹ nên chủ động làm gương cho con trong việc xử lí rác thải. Chính phủ nên có thêm nhiều hoạt động thực tế, tích cực tuyên truyền vận động người dân hạn chế sử dụng đồ nhựa, phân loại rác. Các công ty, doanh nghiệp nên chủ động sử dụng và sản xuất các sản phẩm thân thiện với môi trường thay thế cho nhựa.

Đồ nhựa dùng một lần- thứ chúng ta chỉ dùng một lần nhưng những hậu quả mà nó mang lại là vô cùng to lớn. Hiểu được điều đó, bản thân em là một người học sinh, em sẽ hạn chế yêu cầu các đồ dùng nhựa, chủ động mang theo các hộp đựng, bình nước cá nhân khi mua đồ ở các hàng quán. Thay thế các đồ dùng nhựa sử dụng một lần thành các đồ dùng có thể tái sử dụng, các đồ dụng có nguồn gốc thiên nhiên. Không xả rác, tập thói quen phân loại rác tại nguồn. Tái chế các đồ dụng nhựa thành các vật dụng phục vụ cho đời sống,...Đồng thời, em cũng sẽ kêu gọi, nhắc nhở gia đình, mọi người xung quanh nâng cao ý thức về việc sử dụng đồ nhựa một cách hợp lí, không xả rác ra môi trường.

Đồ nhựa dùng một lần thực sự “tiện” nhưng không “lợi” khi con người đã quá lạm dụng. Mặc dù còn nhiều khó khăn nhưng chỉ cần mỗi người dân tăng cường ý thức, kết hợp chặt chẽ với chính quyền thì hiện tượng ô nhiễm do rác thải nhựa cũng sẽ bị đẩy lùi. Chúng ta hãy cùng chung tay vì một môi trường sống lý tưởng, một Trái Đất xanh-sạch-đẹp

 

Thứ Năm, 17 tháng 6, 2021

Hi sinh phải chăng là nguồn sức mạnh tinh thần to lớn để ta sống và hành động?


     Dịch bệnh COVID-19 còn diễn biến phức tạp và nhiều hiểm nguy, thế nhưng “những chiến sĩ” áo trắng vẫn không hề nao núng, họ vẫn luôn vững vàng, kiên cường nơi tuyến đầu chống dịch. Những hi sinh thầm lặng của họ đã và đang thắp lên niềm tin về ngày chiến thắng đại dịch COVID-19 không còn xa ở phía trước.

Hi sinh phải chăng là nguồn sức mạnh tinh thần to lớn để ta sống và hành động?

Bài làm của Đỗ Mỹ Phương ( 9A2 Trường THCS Phan Bội Châu)

Có những mất mát thường tình vốn là lẽ được mất trong đời sống chảy trôi, cũng có những hi sinh hoá thành bất tử khi điều mà người ta dâng hiến thật lớn lao, cao cả. Trong cơn đại dịch nguy hiểm, đáng sợ khi gây ra nhiều tổn thất về vật chất, sinh mạng, cũng thể ngăn cản được những con người sẵn sàng hi sinh lợi ích bản thân vì cuộc sống tốt đẹp của cộng đồng. Họ xông pha, chịu đựng gian khổ đến vô cùng. Phải chăng hi sinh là nguồn sức mạnh tinh thần to lớn để ta sống và hành động.

 Hi sinh là sẵn sàng chịu tổn thất hoặc từ bỏ những lợi ích riêng tư của chính mình để nhường nhịn, san sẻ cho người khác, để hướng đến lợi ích của toàn thể và cộng đồng. Hi sinh tức là chấp nhận chịu thiệt thòi về mình, nhưng cũng chính điều này là động cơ để ta sống có ý nghĩa và sẵn sàng hành động, đương đầu với những khó khăn, hướng về những mục đích lớn lao, lợi ích của cộng đồng. Bớt đi một chút niềm vui mà san sẻ cho người khác, có thể sẽ được công nhận, cảm phục có thể không, nhưng suy cho cùng mọi sự hi sinh trên đời điều đáng quý!

 Trong cơn đại dịch toàn cầu có lẽ người ta sẽ chỉ quan tâm đến sức khoẻ, sự an nguy của bản thân và gia đình mình, nên mỗi hi sinh thời này đều thật sự cao cả. Đó có thể là cô bé Phi Yến dành toàn bộ thời gian rảnh rỗi của mình trong vòng 3 ngày liền để cùng mẹ làm ra 500 chiếc “tai giả” xinh xắn để các bác sĩ đỡ đau khi phải đeo khẩu trang nhiều giờ liền. Đó có thể là những sinh viên trẻ, thậm chí là bác sĩ 78 tuổi đã nghỉ hưu, sẵn sàng viết thư tình nguyện vào tuyến lửa để hỗ trợ, dẫu họ hiểu rõ rằng phía trước là vô vàn thử thách, là những ca làm việc dài dằng dặc, là giấc ngủ chỉ tính từng giây, là những giọt mồ hôi ướt đẫm vai áo, là vết hằn đau trên gương mặt, là mỗi ngày thức dậy xoay cuồng trong cuộc chiến với kẻ thù vô hình, và là những nỗi nhớ, nỗi sợ hãi họ chôn giấu trong lòng.

 Đức hi sinh vốn xuất phát từ sự thôi thúc của một tâm hồn tử tế, biết lo nghĩ cho người khác, và lời mách bảo của trái tim thì luôn có mãnh lực to lớn giục giã ta làm mọi điều có thể, thậm chí là phá bỏ giới hạn, vượt qua nỗi sợ hay quên đi chính bản thân mình để giúp đỡ, hi sinh cho người khác. Hi sinh là biểu hiện của quá trình trưởng thành từ trong suy nghĩ và nhận thức, từ đó nảy sinh ra những hành động, nghĩa cử cao đẹp để chia sẻ lợi ích của mình và mang lại điều tốt đẹp cho người khác. Để rồi khi bớt đi đôi chút niềm vui của mình, có thể ta sẽ không buồn như ta đã nghĩ khi thấy người mình yêu thương có thêm động lực, sức mạnh để phục hồi, tiến về phía trước. Nếu không có những hi sinh tận hiến thầm lặng của những tấm lòng cao cả, có thể cả xã hội sẽ không thể vượt qua hoạn nạn đầy thách thức. Nó là yếu tố để ta hoàn thiện và nâng cao giá trị phẩm chất của mình, làm nâng cao năng lực, khả năng của mỗi con người.

Thế nhưng không nên để cảm tính làm chủ sự hi sinh,  bởi lẽ đôi khi ta sẽ vô tình làm tổn thương lòng tự trọng của người khác, cũng có khi sự thiếu hiểu biết, kĩ năng của ta lại làm hỏng việc, nếu gắn chặt cuộc đời mình vào người khác ta dễ trở nên mù quáng, đánh mất bản thân mình.

 Thật đáng buồn khi trong đời sống hiện nay vẫn còn tồn tại những người hời hợt với những người xung quanh, chỉ tất bật lo nghĩ cho niềm vui, lợi ích của mình, buông thả bản thân theo những cuộc chơi, sự hưởng thụ mà không biết lo toan, san sẻ cho người khác. Lại có những người coi rẻ sự hi sinh của người khác, hay cho rằng đó là trách nhiệm tất yếu của riêng cá nhân đó. Đây là những biểu hiện đáng buồn và đáng chê trách.

 Một mảnh hồn nhỏ của sự hi sinh đều là phương tiện để ta sống có ý nghĩa và vươn lên từng ngày. Bản thân là học sinh, trong thời đại dịch, điều nhỏ bé em có thể làm chỉ là dành nhiều thời gian cho việc học tập để phát huy, trau dồi năng lực, những kĩ năng sống của mình. Em sẽ góp tiền tiết kiệm mình gìn giữ vào Quỹ Vắcxin, tuy không nhiều nhưng đã đủ cho những cá nhân đang cần đến. Em sẽ bỏ ra thời gian để quan tâm, tâm sự với cha mẹ nhiều hơn trong quãng thời gian khó khăn này.

 Hi sinh là tấm lòng, là một mảnh khoét trong lợi ích riêng tư của mình nhưng cũng là một dấu cộng nâng cao nhận thức, để ta tạo ra những giá trị tươi đẹp giành cho người khác, những mục tiêu cao cả vượt lên sự mưu cầu của chính mình. Không ai có quyền ép buộc người khác phải hi sinh, nó nhất thiết phải đến từ sự tự nhận thức và thôi thúc của bản thân. Thế nhưng khi thật sự trao đi vì nghĩ cho người khác, ta chợt nhận ra chính mình cũng được trao tặng lại những món quà trân quý ta không chưa từng nghĩ đến.

 

Không khí lao động vui tươi, nhịp nhàng cùng thiên nhiên (Khổ 3,4 Đoàn thuyền đánh cá)

 

Cảm nhận Không khí lao động vui tươi, nhịp nhàng cùng thiên nhiên qua đoạn thơ :

                        Thuyền ta lái gió với buồm trăng

Lướt giữa mây cao với biển bằng

Ra đậu dặm xa dò bụng biển

Dàn đan thế trận lưới vây giăng

 

Ta hát bài ca gọi cá vào

Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao

Biển cho ta cá như lòng mẹ

Nuôi lớn đời ta tự buổi nào.

(Đoàn thuyền đánh cá, Huy Cận)

 

Bài làm của Đỗ Mỹ Phương ( 9A2 Trường THCS Phan Bội Châu)

Có lẽ sức hút khó cưỡng toát ra từ thơ Huy Cận xuất phát từ ngón bút thấm đẫm cảm hứng vũ trụ của ông. Theo chân từng vần thơ của bài thơ
Đoàn thuyền đánh cá
” là
cảm nhận về hình ảnh con thuyền huyền ảo như song hành cùng biển cả bao la, như phiêu bạt cùng đất trời và những tinh tú của vũ trụ. Cảnh đánh cá trong đêm tranh hóa thành một bức tranh đầy màu sắc cùng những làn điệu tươi mưới, nhịp nhàng của không khí lao động tươi mới, mê say của người ngư dân dưới cái nhìn thi vị và tâm hồn lãng mạn của thi nhân :

“Thuyền ta lái gió với buồm trăng

Lướt giữa mây cao với biển bằng

Ra đậu dặm xa dò bụng biển

Dàn đan thế trận lưới vây giăng

 

Ta hát bài ca gọi cá vào

Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao

Biển cho ta cá như lòng mẹ

Nuôi lớn đời ta tự buổi nào.

Đời thơ Huy Cận dường như được chia thành hai phần khác nhau. Trước Cách mạng tháng 8, Huy Cận triền miên trong nỗi buồn thương, thơ ông đượm trong nỗi sầu nhân thế, dồn tụ nhiều cảm xúc nặng trĩu. Thế nhưng, nhà thơ không bị cuốn vào vòng tròng lẩn quẩn của cảm xúc như những hồn thơ đương thời. Sau Cách mạng tháng 8, tiếng thơ ông phấn chấn theo hơi thở thời đại mới khi cả đất nước đang bắt tay xây dựng và phát triển quê hương, xứ sở. Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá ra đời vào năm 1958 như sự khẳng định của thi nhân về sự chuyển biến trong cảm hứng chủ đạo: Giọng điệu thơ cất lên trong sự phấn chấn, khoáng đạt của cuộc sống mới; hình ảnh thơ huyền ảo, tuyệt đẹp để ngợi ca sức lao động và nâng tầm giá trị con người đến ngang tầm vũ trụ.

Cảm hứng vũ trụ chính là đôi cánh nâng lên tầm vóc vĩ đại của con thuyền, sánh ngang sự vĩ đại, lớn lao của vũ trụ trong nhịp cuộc chinh phục thiên nhiên trường kì, sôi nổi của con người miền biển :

Thuyền ta lái gió với buồm trăng

Lướt giữa mây cao với biển bằng.

Nghệ thuật sử dụng từ ngữ và nhịp thơ nhanh như bệ phóng để con thuyền sung mãn lao về phía trước trong đêm trăng đánh cá huyền ảo, song hành cùng các hình ảnh thiên nhiên, vũ trụ : “gió, trăng, mây, biển. Con thuyền hóa thành chủ thể trữ tình đẹp đẽ và nổi bật nhất trang thơ, thi nhân sử dụng đại từ “ta” để khẳng định tâm thế chủ động, đường hoàng, làm chủ tay lái, làm chủ cuộc đời của con người trước thiên nhiên, của bản thể trước một vũ trụ lớn lao, vĩ đại. Bước tiến mạnh mẽ của con thuyền có lẽ không chỉ là nhờ vào động cơ, bánh lái hay sức người, mà còn nương nhờ vào sức mạnh của thiên nhiên, vào sức gió cuồn cuộn của biển đêm. Trong bóng tối ngút ngàn ôm trọn cảnh vật ấy, đôi mắt tinh tế của nhà thơ đã thu trọn ánh trăng bàng bạc dội xuống làm sáng rực một vùng trời, cánh buồm giờ đây là “buồm trăng”, lấy những tinh tú rực rỡ nhất của đất trời làm chất liệu cho cuộc hành trình vạn dặm của mình. Sức vóc con thuyền càng được nâng tầm qua hình ảnh mây trời và mặt biển. Từ “lướt” cho ta mường tượng ra được tốc độ con thuyền lao đi rất nhanh trong đêm tĩnh. Chủ thể trữ tình còn được đặt trong sự đối chiếu với các vật thể xung quanh. Việc sử dụng giới từ “giữa” kết hợp với từ “lướt” không chỉ cho thấy tốc độ, mà còn cho thấy sự hòa điệu của con thuyền và cảnh vật xung quanh. Hình ảnh “mây cao” và “biển bằng” đã làm không gian được mở rộng đến mức tối đa, thể hiện hình ảnh con thuyền không hề đơn độc, yếu thế trong không gian to lớn ấy mà thực sự hòa điệu và song hành với tạo hóa, cảnh vật. Trong sự kết hợp đồng điệu giữa con người và thiên nhiên, sức mạnh hăng hái của con người và đoàn thuyền trở thành trọng tâm khắc nên bức tranh đánh bắt cá tràn đầy năng lượng, vui tươi trong đêm trăng.

Bằng những trải nghiệm và sự cảm nhận thực tế từ chuyến đi sáng tác, khung cảnh đánh bắt cá được nhà văn khắc họa và tái hiện trong sự so sánh thú vị với cảnh đánh trận phấn chấn nhưng cũng không kém phần căng thẳng, đòi hỏi nhiều sức lực và trí tuệ :

Ra đậu dặm xa dò bụng biển

Dàn đan thế trận lưới vây giăng.

Cụm từ “ra đậu dặm xa” đã mở ra cho ta một khoảng cách xa xăm, một khung trời mới mẻ mà chỉ có những ngư dân lành nghề, với đôi mắt tinh tường và sự dũng cảm, đột phá mới dám đặt chân đến để khai phá, đánh bắt. Hoạt động “dò bụng biển” đã làm nổi bật lên tính chất công việc người ngư dân với những hiểm họa khôn lường nhưng vô hình, nằm ẩn sâu trong lòng đại dương thăm thẳm, khó đoán biết. Và trong đại dương bao la, to lớn ấy, phần thưởng quý giá vô ngần của tạo hóa chỉ ban cho những chủ nhân xứng đáng nhất, những con người mẫn cán, chịu khó tìm tòi và khai phá. Từ “dàn đan” cũng thể hiện sự điêu luyện, khéo léo, vận dụng toàn bộ sức mạnh trí tuệ và thể chất của con người để làm sao làm chủ được tình hình, thu trọn được mẻ cá. Cuộc đánh bắt cá phức tạp, chằng chịt bởi những tấm lưới “vây giăng” để đánh bắt, cũng nguy hiểm và gian truân như một “thế trận” thực thụ. Tài hoa Huy Cận đã làm sáng tỏ tính chất công việc nguy hiểm, khó lường của người ngư dân và sự khéo léo, dũng cảm của con người trên sàn đấu sòng phẳng với thiên nhiên và trời đất.

Khung cảnh đánh bắt cá cứ tiếp diễn trong không khí sôi nổi, vui tươi và hừng hực của sức lao động con người, với từ câu hát đẩy mạnh tinh thần và sự hòa điệu của thiên nhiên :

Ta hát bài ca gọi cá vào

Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao.

Đại từ “Ta” được sử dụng kết hợp với từ “hát” để làm nổi bật tình cảm gắn bó của người ngư dân đối với biển khơi, để cất lên tiếng hát gọi mời, dẫn cá vào những mẻ lưới đã được trang bị sẵn sàng. Ánh trăng trong tâm hồn nhà thơ được cảm nhận bằng âm thanh chứ không phải ánh sáng. Nhưng có lẽ vì ánh trăng lan tỏa đến chói lòa nên nhà thơ cảm nhận nó đã chạm vào mạn thuyền, tạo nên những âm thanh vang động để định hướng luồng cá tươi ngon. Vầng trăng khảm trên nền trời cao một lần nữa lại vươn ra đôi tay tối thượng của mình làm nhịp nâng đỡ và hòa điệu với những nỗ lực bền bỉ, mạnh mẽ của những con người miền biển. Tiếng hát chan chứa trong tấm thân tình của những mảnh hồn gắn bó và nhịp gõ thuyền của tạo hóa một lần nữa đã siết chặt sợi dây nối liền con người và thiên nhiên, qua đó tạo ra bức tranh đánh bắt cá trong đêm khuya với sự sống động đầy sôi nổi.

Giọng thơ đến đây trầm lắng chảy trôi như lời tri ân sâu sắc của những người con đến với biển mẹ bao dung, ấm áp. Tấm chân thành nồng đượm tình yêu biển tha thiết và sự ngợi ca, biết ơn to lớn được tỏ bày mạnh mẽ trên từng vần thơ :

Biển cho ta cá như lòng mẹ

Nuôi lớn đời ta tự buổi nào.

Biện pháp nghệ thuật so sánh “biển” với “lòng mẹ” làm ta liên tưởng đến sự dịu hiền, khoan dung và ơn nuôi dưỡng cùng trời vô tận của tình cảm mẫu tử. Đối với người ngư dân, biển không phải là một vật vô tri mà là một sinh thể có trí tuệ và tâm hồn. Câu thơ “Nuôi lớn đời ta tự buổi nào” bật ra như lời tri ân chân thành nhất của những người ngư dân đối với biển mẹ, đó là nơi bao bọc và cung cấp dưỡng chất để họ lớn lên, trưởng thành, để rồi nuôi dưỡng khát khao cháy bỏng của những người con hướng biển. Dòng chảy âm ỉ của triết lí ân nghĩa, thủy chung trong trái tim người Việt Nam luôn chảy trôi âm trầm trong lòng đời, trong nhịp sống, nhịp lao động hăng say và tươi vui.

Ngón bút nổi trội nhất có lẽ là cảm hứng vũ trụ bất tận và đặc trưng trong thơ Huy Cận. “Đoàn thuyền đánh cá” được viết theo thể thơ bảy chữ, cách gieo vần biến hóa linh hoạt. Từng câu thơ đều hàm chứa năng lựa riêng, khi bật ra thể hiện sự phấn chấn, khỏe khoắn và phơi phới của sức sống lao động luôn trỗi dậy. Bút pháp phóng đại khoa trương của thi nhân đã tạo ra một dấu ấn đáng kể, có tác dụng nâng tầm sức vóc của con người ngang hàng với vũ trụ. Hình ảnh trong bài thơ đầy kì ảo, mang sức gợi và sức hấp dẫn mới mẻ cho tác phẩm.

Bằng tâm hồn tinh tế và tài năng thi ca đặc trưng, mới lạ, Huy Cận đã mở ra trước tầm mắt người đọc khung cảnh hoành tráng, lung linh của một chuyến ra khơi đánh cá trong đêm trăng. Năng lượng tươi mới, hân hoan của nhịp lao động khỏe khoắn có lẽ không chỉ tồn tại trên trang thơ mà tràn đầy ra cuộc sống. Để rồi dòng chảy ấy thấm đượm trong tâm hồn ta, để ta có thêm tinh thần và sức mạnh để vững tâm lèo lái cuộc đời của chính mình.