Hiển thị các bài đăng có nhãn Nói với con. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Nói với con. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Sáu, 24 tháng 5, 2024

ĐỀ LUYỆN TẬP TUYỂN SINH 10_2023-2024_ Chủ đề TÌNH CẢM GIA ĐÌNH

 

ĐỀ LUYỆN TẬP TUYỂN SINH 10_2023-2024_ Chủ đề TÌNH CẢM GIA ĐÌNH

Câu 1. Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu:

Anh chồng vừa ôm cái điện thoại trong tay chơi điện tử vừa ngước mắt lên nhìn vô tuyến bỗng nghe thấy tiếng sụt sịt, quay sang thấy vợ nước mắt lăn dài trên má  trong khi đang chấm bài tập về nhà của học trò.

Thấy thế anh vội hỏi vợ:

- Này em, có chuyện gì à? Sao tự nhiên em lại khóc?

Vẫn nước mắt ngắn dài, người vợ thổn thức:

- Hôm qua,… em giao bài tập làm văn về nhà cho tụi nhỏ, chủ đề là “Ước mơ của con…”…. (Nói đến đây người vợ khóc nấc mà không nói lên lời tiếp được.)

- Anh hiểu rồi, nhưng vì sao em khóc? – Người chồng vẫn tiếp tục gặng hỏi trong khi mắt và tay đang mải miết chơi trò chơi vì đang đến hồi gay cấn.

- Bài văn cuối cùng này…đã làm em khóc!

- Bài văn của một đứa trẻ con mà cũng khiến em khóc được sao? – Không giấu nổi sự tò mò, anh chồng bèn ngẩng mặt lên hỏi vợ đầy ái ngại.

- Anh nghe này…. – Người vợ vừa đọc chậm rãi mà nước mắt vẫn không ngừng rơi.

“Mong ước của con là trở thành một chiếc điện thoại thông minh (smartphone). Bố mẹ của con yêu thích smartphone. Họ quan tâm đến nó rất nhiều và đôi khi họ quên cả con. Khi bố về nhà sau một ngày làm việc mệt mỏi, ông ấy dành thời gian cho chiếc điện thoại đó chứ không phải con. Khi bố mẹ đang làm một việc gì đó quan trọng, nếu điện thoại reo, họ sẽ ngay lập tức cầm lấy nó. Điều đó không bao giờ xảy ra với con dù là lúc con khóc. Họ chơi trò chơi trên điện thoại mà không phải với con. Khi đang nói chuyện điện thoại, họ không bao giờ lắng nghe con dù đó là vấn đề quan trọng đến thế nào đi chăng nữa. Vì vậy, ước muốn của con là trở thành một chiếc điện thoại thông minh”.

Sững người vài giây khi nghe xong bài văn, người chồng e dè hỏi vợ:

- Trò nào đã viết bài văn này vậy em?

Ngước đôi mắt nhạt nhòa nước mắt lên nhìn chồng, cô nghẹn ngào nói:

- Con trai của chúng ta.

(Theo Ước biến thành điện thoại để được bố mẹ yêu hơn,tuoitre.vn, 29/01/2016 10:05)

a. Trong văn bản đứa trẻ đã thể hiện điều ước gì trong bài tập của mình?

b. Tìm 01 Thành phần biệt lập có trong đoạn trích in đậm trong văn bản.

c. Theo em vì sao điều ước của đứa trẻ đã khiến cô giáo bật khóc?

d. Từ văn bản trên, em hãy nhắn gửi tới các bậc làm cha mẹ một thông điệp có ý nghĩa nhất và lí giải vì sao? Trả lời trong khoảng 4-6 dòng.

Câu 2. Từ việc hiểu nội dung Ngữ liệu trên và từ trải nghiệm cuộc sống, hãy viết bài văn khoảng 500  chữ trả lời câu hỏi: Phải chăng điện thoại thông minh (smartphone) đang làm cho tình cảm trong gia đình dần dần nhạt phai?

 Câu 3.

Học sinh được chọn 1 trong 2 đề sau:

Đề 1.

Chân phải bước tới cha

Chân trái bước tới mẹ

Một bước chạm tiếng nói

Hai bước tới tiếng cười

[…]

Người đồng mình thô sơ da thịt

Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con

Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương

Còn quê hương thì làm phong tục

Con ơi tuy thô sơ da thịt

Lên đường

Không bao giờ nhỏ bé được

Nghe con.

( Trích Nói với con, Y Phương, SGK Ngữ Văn 9, Tập 2, NXBGDVN, 2023, Tr. 72,73)

Hãy phân tích đoạn thơ trên. Sau đó nêu những tác động của đoạn thơ đối với em.

Đề 2.

Tình huống: Điện thoại thông minh có thể khiến cuộc sống của chúng ta trở nên dễ dàng hơn nhưng nó không thể thống trị chúng ta. Đừng để chúng ta bị chi phối bởi những thứ vật chất thay vì gia đình và các mối quan hệ. Không bao giờ là quá muộn để nhận ra rằng thời gian cùng gia đình cần thiết đến mức nào.

Nhiệm vụ: Hãy chọn giới thiệu một tác phẩm văn học để giúp em nhận ra thời gian cùng gia đình cần thiết đến mức nào và viết bài văn nghị luận lý giải cho sự lựa chọn của em.

GỢI Ý

GỢI Ý

Câu 1.

a. Đứa trẻ đã thể hiện điều ước: trở thành một chiếc điện thoại thông minh (smartphone) trong bài tập của mình

b. 01 Thành phần biệt lập có trong đoạn trích in đậm trong văn bản.

Thành phần phụ chú: (smartphone)

Thành phần tình thái: ngay

c. Điều ước của đứa trẻ đã khiến cô giáo bật khóc

- Điều ước có vẻ ngây thơ, nhưng thực chất nó nói lên rằng đứa bé đang rơi vào trạng thái cô đơn, lạc lõng, thiếu sự quan tâm của bố mẹ, nó cô đơn ngay trong chính ngôi nhà của mình. Điiều đặc biệt là, đứa trẻ đó chính là con trai cô giáo.

- Qua điều ước đó cô giáo nhận ra sai lầm và sự hờ hững của chính mình với con mình mà bấy lâu cô không nhận ra.

d. Từ văn bản trên, em hãy nhắn gửi tới các bậc làm cha mẹ một thông điệp có ý nghĩa nhất và lí giải:

- thông điệp muốn gửi tới các bậc cha mẹ:

+ Cha mẹ hãy dành thêm nhiều thời gian bên chúng con

+ Cha mẹ cần quan tâm đến cảm xúc và suy nghĩ của con nhiều hơn chút nữa

+ Cha mẹ nên đặt mình vào vị trí của của con để chúng ta hiểu nhau nhiều hơn…

Câu 2. Phải chăng điện thoại thông minh (smartphone) đang làm cho tình cảm trong gia đình dần dần nhạt phai?

1. Mở bài

- Công nghệ và những thiết bị thông minh giúp người dùng kết nối và trở nên gần nhau hơn. con người dường như quá chú trọng vào các thiết bị công nghệ mà không còn để ý đến những người xung quanh hay đang ở ngay trước mắt ta.

- Phải chăng điện thoại thông minh (smartphone) đang làm cho tình cảm trong gia đình dần dần nhạt phai?

2. Thân bài

* Giải thích

- Điện thoại thông minh hay smartphone là khái niệm để chỉ các loại thiết bị di động kết hợp điện thoại di động các chức năng điện toán di động vào một thiết bị.

- Điện thoại thông minh có thể giúp các thành viên trong gia đình kết nối với nhau dễ dàng hơn, dù họ ở xa nhau nhưng dành quá nhiều thời gian cho nó có thể khiến sự gắn kết giữa các thành viên trở nên lỏng lẻo, rời rạc.

=> Smartphone đã ảnh hưởng không hề nhỏ tới mối quan hệ cha mẹ và con cái.

* Biểu hiện

- Hình ảnh Bố mẹ và con cái mỗi người một góc sử dụng một thiết bị thông minh để xem phim, lướt facebook, chơi game đã trở nên quen thuộc.

- Các cuộc trò chuyện sau bữa ăn, cùng nhau xem một bộ phim hay một trận bóng đá, bình phẩm chuyện nọ chuyện kia lúc rảnh rỗi... không còn “chất lượng” như trước do nhiều người chỉ biết cắm mắt vào smartphone

* Nguyên nhân

- Điện thoại thông minh đã trở thành một phần quan trọng trong cuộc sống ngày nay, ngày càng trở nên thiết yếu với con người thì con người ngày càng ỷ lại vào nó để làm mọi việc.

- Nhiều gia đình lạm dụng quá nhiều vào các thiết bị di động. Nếu có thời gian rỗi các thành viên đều “mò mẫm” trên smartphone.

- Nhiều bố mẹ không còn nhiều thời gian cho con, sử dụng smartphone để quản lý và theo dõi con cái thay vì trực tiếp chỉ dạy và nói chuyện với con. Con cái vì vậy sẽ không được trò chuyện, chia sẻ với bố mẹ nhiều.

-   Nhiều bạn trẻ lạm dụng các thiết bị điện tử, điện thoại với nhiều hình thức giải trí như mạng xã hội, chơi game, nghe nhạc… khiến thời gian cho gia đình ngày càng ít đi.

* Tác hại

- Sự lạm dụng Điện thoại thông minh, chìm đắm trong thế giới mạng đã vô tình tạo điều kiện cho nó âm thầm phá vỡ các giá trị truyền thống, sự kết nối trong mỗi gia đình.

+ Cuộc sống gia đình cũng trở nên lạnh nhạt. Các thành viên trong gia đình mất dần kỹ năng giao tiếp, thấu hiểu nhau trong cuộc sống, trở nên thờ ơ, lạnh nhạt và xa lánh nhau. Ở mức độ nghiêm trọng hơn, nó khiến tình cảm dần lạnh nhạt, khô cứng, con người cô đơn trong chính tổ ấm của mình, hoàn toàn có thể làm tan vỡ hạnh phúc gia đình.

- Điện thoại thông minh khiến ta dễ bị phân tâm bởi các thông báo, tin nhắn, mạng xã hội,... Điều này có thể khiến chúng ta lơ là việc trò chuyện, quan tâm và chia sẻ với những người xung quanh. Thường xuyên lên mạng có thể khiến chúng ta so sánh bản thân với người khác và nảy sinh cảm giác ghen tị, tự ti. Điều này có thể ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình.

- Việc sử dụng điện thoại quá mức có thể dẫn đến nghiện, khiến chúng ta bỏ bê các công việc, học tập và các hoạt động khác trong cuộc sống. Điều này có thể ảnh hưởng đến mối quan hệ và chất lượng cuộc sống.

* Giải pháp

- Hay vì tập trung sự quan tâm thế giới mạng, cha mẹ cần chuyển sự quan tâm sang con cái; dành nhiều thời gian cho các hoạt động chung với gia đình như ăn cơm tối, cùng nhau đi mua đồ, tập thể dục, vui chơi...

- Cha mẹ cần hướng con cái đến việc sử dụng mạng an toàn, lành mạnh; chia sẻ với con cái những cạm bẫy, nguy hại trên không gian mạng

- Tăng cường trò chuyện, chia sẻ với nhau giữa các thành viên trong gia đình để thấu hiểu và yêu thương nhau hơn.

* Bài học

- Tắt các thiết bị công nghệ trong khoảng thời gian dành cho gia đình, trò chuyện, chơi đùa với cha mẹ, người thân.

- Biết sử dụng smartphone đúng mức, biết hạn chế nó sao cho nó không choán hết thời gian trò chuyện, giao lưu tình cảm giữa các thành viên trong gia đình.

3. Kết bài

Đừng cho phép Điện thoại thông minh ảnh hưởng đến sự giao tiếp của mỗi thành viên trong gia đình. Tình cảm gia đình là yếu tố thiêng liêng và nó luôn cần sự vun đắp bằng những yêu thương, kết nối thật.

Câu 3.

Đề 1.

( Trích Nói với con, Y Phương, SGK Ngữ Văn 9, Tập 2, NXBGDVN, 2023, Tr. 72,73)

Hãy phân tích đoạn thơ trên. Sau đó nêu những tác động của đoạn thơ đối với em.

A. Mở bài

- Y Phương là người dân tộc Tày. Thơ ông thể hiện tâm hồn mạnh mẽ, chân thực và trong sáng, cách tư duy giàu hình ảnh của người dân tộc miền núi, mang đậm bản sắc vùng cao.

- Bài thơ “Nói với con” là lời tâm sự, động viên chính mình đồng thời nhắc nhở con cái sau này của nhà thơ. Mong con khôn lớn nên người, luôn yêu quê hương, tự hào về dân tộc mình. 

- Tình cha nồng nàn và  niềm hi vọng, mong mỏi lớn lao nhất trong cuộc đời người cha: Mong con khôn lớn nên người, luôn yêu quê hương, tự hào về dân tộc mình được diễn đạt đầy màu sắc trong các câu thơ sau:

Chân phải bước tới cha

Hai bước tới tiếng cười

[…]

Người đồng mình thô sơ da thịt

..

Nghe con.

 

B. Thân bài

1. Khái quát

Có thể nói, tình cảm gia đình, nhất là tình cha con, luôn thiêng liêng, là tiền đề, cơ sở cho tình yêu Tổ quốc phát triển. Y Phương lại khắc họa tình cảm ấy nhẹ nhàng mà không kém phần nồng nàn, ấm nóng, là tình cảm tự nó đến, từ những rung cảm chân thật nhất. Y Phương mộc mạc, chân chất  nói với con những lời tâm tình thiết tha, những lời dặn dò ân cần, chia sẻ  của người cha đối với con lòng tự hào về con người và quê hương yêu dấu của mình. Nhờ đó mà tác phẩm thấm thía như một bài ca quý giá.

2. Phân tích

a. Trong những lời tâm tình, Y Phương đã nói với con, gia đình chính là cội nguồn sinh thành và nuôi dưỡng con

“Chân phải bước tới cha

Chân trái bước tới mẹ

Một bước chạm tiếng nói

Hai bước tới tiếng cười”

- Sử dụng hệ thống từ ngữ giàu giá trị tạo hình: “chân phải”, “chân trái”, “một bước”, “hai bước” gợi cho chúng ta liên tưởng đến những bước chân chập chững đầu tiên của một em bé trong sự vui mừng của cha mẹ.

+ phép đối “Chân phải- chân trái”, “một bước- hai bước” tạo âm điệu vui tươi, tạo không khí đầm ấm, hạnh phúc, mỗi nhịp bước của con đều có cha mẹ dang rộng vòng tay che chở.

Thủ pháp liệt kê thứ nhất qua hình ảnh “tiếng nói”, “tiếng cười”:

+ Tái hiện được hình ảnh của một em bé đang ở lứa tuổi bi bô tập nói.

+ Gợi đến khung cảnh của một gia đình đầm ấm, hòa thuận luôn tràn đầy niềm vui, hạnh phúc, tràn đầy tiếng nói, tiếng cười.

Thủ pháp liệt kê thứ hai qua hình ảnh “tới cha”, “tới mẹ”.

+ Tái hiện hình ảnh em bé đang chập chững tập đi, lúc thì sà vào lòng mẹ, khi lại níu lấy tay cha.

+ Gợi lên ánh mắt như đang dõi theo và vòng tay dang rộng đón đợi của cha mẹ.

Nhịp thơ 2/3 với cấu trúc đối xứng lời thơ khoan thai, chậm rãi, đều đều đã tạo nên một âm điệu, không khí tươi vui và gợi đến một mái ấm gia đình đề huề, hạnh phúc ấm êm đến vô bờ.

Hình ảnh ấm lòng này muôn thuở vẫn là khát vọng hạnh phúc của con người. Đó là tình cảm thiêng liêng mà con luôn phải khắc cốt ghi tâm.

=> Lời thơ giản dị như một lời tâm tình thủ thỉ, Y Phương đã nói với con, gia đình chính là cội nguồn sinh thành và nuôi dưỡng con. Vì thế, trên hành trình vạn dặm của cuộc đời, con không được phép quên.

b. Từ phẩm chất của người đồng mình, Y Phương nói với con về ý chí và vẻ đẹp truyền thống của người vùng cao mong con phải tiếp tục phát huy:

“Người đồng mình thô sơ da thịt

Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con

Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương 

Còn quê hương thì làm phong tục”

- Họ từ bao đời luôn có ý thức tự lập, tự cường, tự tôn bản sắc riêng biệt của mình, chẳng bao giờ nhỏ bé.

Hình ảnh ẩn dụ “thô sơ da thịt” đối lập “chẳng…nhỏ bécàng làm toát thêm vẻ đẹp mạnh mẽ không chỉ ở bên ngoài mà còn tiềm ẩn bên sâu trong tinh thần của con người miền núi:

+ Hình ảnh “thô sơ da thịt” đã tả thực vóc dáng, hình hài nhỏ bé của “người đồng mình”.

+ Cụm từ “chẳng mấy ai nhỏ bé” gợi ý chí, nghị lực phi thường, vượt lên hoàn cảnh khó khăn, thiếu thốn của “người đồng mình”

=> Họ từ bao đời luôn có ý thức tự lập, tự cường, tự tôn bản sắc riêng biệt của mình, chẳng bao giờ nhỏ bé.

-  Người đồng mình khát vọng xây dựng quê hương giàu đẹp:

+ Hình ảnh “tự đúc đá kê cao quê hương” vừa mang ý nghĩa tả thực, vừa mang ý nghĩa ẩn dụ sâu sắc: thần tự lực tự cường của người đồng mình.

_ Tả thực quá trình dụng nhà, dựng bản của người vùng cao, được kê trên những tảng đá lớn để tránh mối mọt.

_ Ẩn dụ cho tinh thần tự lực cánh sinh, họ đã dựng xây và nâng tầm quê hương.Trong quá trình dựng làng, dựng bản, dựng xây quê hương ấy, chính họ đã làm nên phong tục, bản sắc riêng cho cộng đồng.

+ Các từ “đục đá, kê cao” một cách gần gũi và bình dị, đậm chất sử dụng ngôn ngữ của người dân tộc Tày.  Cách nghĩ cách làm nâng niu và trân quý bao giá trị văn hóa ngàn đời.

+ “Còn quê hương thì làm phong tục” là lời nhắc kiên trì xây dựng quê hương và gìn giữ phong tục riêng. Và đó cũng là giá trị mà mỗi con người phải trân trọng và gìn giữ đến suốt cuộc đời.

Người cha dạy con sống rộng mở, bao la, biết kiên trì và trân trọng những nét đẹp truyền thống của quê hương, nguồn cội.

c.  Điều cha mong muốn ở con

Khép lại bài thơ, là lời dặn dò vừa ân cần, trìu mến vừa nghiêm khắc của người cha:

“Con ơi tuy thô sơ da thịt

Lên đường

Không bao giờ được nhỏ bé

Nghe con”

Hai tiếng “lên đường, cho thấy người con đã khôn lớn, trưởng thành, có thể tự tin, vững bước trên đường đời.

- Hình ảnh thơ được lặp lại so sánh đối lập “thô sơ da thịt” nhưng “không nhỏ bé” như khẳng định niềm tin cha tin ở con sẽ phát huy được truyền thống quê hương, sẽ nhớ đến lời cha dạy, sẽ không bao giờ nhỏ bé dù đi bất cứ nơi đâu và hơn hết là không bao giờ quên đi nguồn cội.

- Các từ “con ơi”, “nghe con” sao mà ấm cúng, thân thương, ẩn chứa biết bao mong muốn của người cha.

lời thơ trang hoàng mà trở thành một tiếng gọi vang vọng từ tâm hồn sâu thẳm từ đáy lòng của cha.

=> Với giọng điệu thiết tha, tâm tình, trìu mến, người cha đã gửi gắm cho con những bài học quý giá, để trên suốt hành trình dài rộng của cuộc đời con mãi mãi khắc ghi.

3. Đánh giá:

- Nhà thơ sử dụng thành công thể thơ tự do, ngôn ngữ thân thuộc, gần gũi và giàu hình ảnh đậm chất vùng núi cao.  Bài thơ giản dị với cách nói giàu bản sắc của người miền núi và những hình ảnh vừa cụ thể vừa mang ý nghĩa biểu tượng liên quan đến nếp sống của người dân tộc tạo nên một giọng điệu riêng cho lời tâm tình mộc mạc mà sâu sắc của người cha đối với đứa con.

 Bài thơ đã thể hiện một cách độc đáo mà cũng thật thấm thía về tình cảm thiết tha sâu sắc nhất của con người : tình cảm gia đình và tình yêu quê hương xứ sở. Qua từng ý thơ ông còn gửi gắm con những bài học sâu sắc về ý chí nghị lực trong cuộc sống, về sự tiếp thu truyền thống, làm giàu thêm vốn văn hóa quê hương. Những tình cảm ấy không chỉ dành cho riêng đứa con gái bé nhỏ mà đó còn là mong mỏi của biết bao ông bố, bà mẹ ở khắp mọi nơi.

4. Tác động

Qua những lời thơ mộc mạc, giản dị tràn đầy tình yêu thương vô bờ bến và niềm tin tưởng của người cha dành cho conem rút ra cho mình nhiều bài học quý giá về tình yêu thương gia đình, lòng tự hào về quê hương và ý chí kiên cường, bất khuất của con người. Tình yêu thương gia đình là một trong những giá trị cao đẹp và quan trọng nhất trong cuộc sống mỗi con người. Nó là nguồn động lực to lớn giúp chúng ta vượt qua mọi khó khăn, thử thách và trưởng thành. Gia đình là nơi che chở, bảo vệ chúng ta khỏi những tác động tiêu cực của xã hội, là nơi ta tìm được sự bình yên, ấm áp và niềm vui trong cuộc sống. Ngoài ra em cũng hiểu rõ y êu thương gia đình mỗi người trẻ chúng em cần phải yêu thương, trân trọng quê hương, đất nước của mình cần phải có ý thức gìn giữ và bảo vệ những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc. Bài thơ như một lời nhắc nhở em dành thời gian trò chuyện, chia sẻ, lắng nghe và thấu hiểu các thành viên trong gia đình để gia đình gắn kết và yêu thương nhau hơn. Tình yêu thương gia đình là một món quà vô giá mà mỗi người cần trân trọng và gìn giữ. Em sẽ vun đắp tình yêu thương gia đình bằng những hành động thiết thực để xây dựng một gia đình hạnh phúc và viên mãn. Em  cần phải luôn lạc quan, tin tưởng vào bản thân và không ngừng nỗ lực để vượt qua mọi khó khăn, thử thách trong cuộc sống để không phụ lòng mong ước của mẹ cha.

C. Kết bài

Bài thơ Nói với con đã góp phần tạo nên một tiếng nói riêng độc đáo về tình cảm gia đình, tình cảm quê hương trong làng thơ Việt Nam. Bài thơ giúp chúng ta cảm nhận vẻ đẹp của một áng thơ về tình cha con cao quý, và càng thấm thía lời nhắn nhủ chứa đựng sự yêu thương, niềm tin tưởng mà người cha dành cho con: phải sống sao cho xứng đáng với cha mẹ, với người đồng mình.

Đề 2.

1. Nêu vấn đề:

-  Điện thoại thông minh có thể khiến cuộc sống của chúng ta trở nên dễ dàng hơn nhưng nó không thể thống trị chúng ta. Đừng để chúng ta bị chi phối bởi những thứ vật chất thay vì gia đình và các mối quan hệ. Không bao giờ là quá muộn để nhận ra rằng thời gian cùng gia đình cần thiết đến mức nào.

- Dẫn vào nội dung lựa chọn:

Đoạn trích "Và tôi vẫn muốn mẹ…" được lấy trong cuốn Nhân chứng cuối cùng - Solo cho giọng trẻ em của tác giả Xvét-la-na A-lếch-xi-ê-vích. Cuốn truyện được tác giả sử dụng như một hình thức phỏng vấn khi công việc của bà cũng chính là một nhà báo đã có kinh nghiệm trong việc hoạt động đời sống. Phỏng vấn những người có tên tuổi, có địa vị về cuộc chiến tranh thế giới thứ hai đầy gian khổ và khốc liệt từ khi còn nhỏ đến khi còn sống sót trưởng thành, cho thấy những mất mát khi cuộc chiến tranh xảy ra. Đoạn trích "Và tôi vẫn muốn mẹ…" thuộc phần đầu của cuốn truyện khi tác giả phỏng vấn các nhân vật, nhân chứng sau cuộc chiến tranh thế giới và thấy được hiện thực khốc liệt, những mất mát từ khi còn nhỏ của những đứa trẻ.

2. Giới thiệu tác phẩm và nêu ý nghĩa: (Theo https://loigiaihay.com/phan-tich-van-ban-va-toi-van-muon-me-a162987.html)
-    Trong tác phẩm “Và tôi vẫn muốn mẹ”, chúng ta được dẫn vào một thế giới của ký ức về chiến tranh, nhưng không phải qua lăng kính của người lớn, mà là qua góc nhìn của những đứa trẻ đầy ngây ngô. Bức tranh về thời thơ ấu của nhân vật chính được vẽ nên với những màu sắc tươi mới, với tất cả tình yêu thương và khao khát bên gia đình. Nhân vật chính, một cậu bé mới học xong lớp một và vừa xa gia đình, bị cuốn vào cuộc sống đầy khó khăn và mất mát khi chiến tranh ập đến. Cùng với những đứa trẻ khác, chúng phải rời xa tổ ấm và hành trình đi tìm một nơi nào đó không có chiến tranh, nhưng vẫn không thoát khỏi bóng đen của nó. Những đứa trẻ, ngây thơ và trong sáng, chứng kiến sự xuất hiện đầu tiên của máy bay mà không biết rằng nguy hiểm đang rình rập. Chỉ khi mọi thứ xung quanh tan tác, họ mới nhận ra sự khốc liệt và thảm khốc của cuộc sống này. Chúng phải đối mặt với những ngày lính bị thương, sẵn lòng đối mặt với mọi thử thách. Mắt đứa trẻ nhìn cha mẹ, nhưng thấy như cha mẹ đang phục vụ trong quân đội, biến họ thành những người cha anh dũng. Cuộc sống không có chiến tranh mang lại sự an lành, nhưng vẫn thiếu thốn. Chúng phải vùng vẫy với thiếu thốn thức ăn, nơi người giúp việc phải giết thú dã ngoại để cung cấp. Mỗi ngày, chúng phải đối mặt với nỗi lo sợ chết đói, ăn cả vỏ cây và những chồi non, nhưng vẫn không muốn buông xuôi. Thất bại không phải là sự kém may mắn trong việc tìm thức ăn, mà là việc phải xa gia đình, xa cha mẹ yêu thương. Những đứa trẻ này nhớ bố mẹ đến mức đêm nào cũng khóc, khiến người giáo viên không thể nhắc đến mẹ trước mặt chúng. Khi nhớ mãi, nhân vật chính quyết định bỏ trốn để tìm kiếm mẹ. Từ nơi này đến nơi khác, qua bao thời gian, mẹ vẫn không về. Cuộc chiến tranh kết thúc, nhưng cha mẹ vẫn không trở về. Có lẽ họ đã mất tích ở đâu đó, có thể họ đã chết trong cuộc chiến tranh. Nhưng nhân vật chính vẫn đợi, vẫn khao khát được gặp lại của mình.

- Trong con mắt của những đứa trẻ thơ, chúng chưa biết được chiến tranh là như thế nào. Nhưng thông qua những con chữ ta vẫn có thể thấy được những cảnh tượng tang thương, ám ảnh mà chiến tranh mang lại. Nhân vật tôi tự kể câu chuyện của mình, tự nhớ lại những ký ức tuổi thơ mà mình đã trải qua để thấy được cái hiện thực của chiến tranh và những giá trị của tình cảm gia đình. Nét đẹp đầu tiên của nhân vật tôi lúc bé đó chính là một đứa trẻ hồn nhiên, kiên cường. Nhân vật tôi reo hò khi lần đầu tiên thấy máy bay, chỉ biết ngồi lên xe đi và nghĩ mình đang được đi trại hè. Những đứa trẻ ngây thơ được chuẩn bị cho rất nhiều bánh kẹo, sẵn sàng sẻ chia số bánh kẹo đó cho những người lính bị thương. Chúng không biết rằng mai sau đây chúng sẽ không còn cái gì để ăn. Khi đói khát ngày một nhiều, cuộc sống của những đứa trẻ càng khổ cực hơn khi phải ăn cả cỏ, vỏ cây. Đọc những câu văn này khiến người đọc phải xót xa, thương cho tình cảnh khốn khó này. Nhưng khó khăn là thế nhưng nhân vật tôi vẫn rất là kiên cường, có gì ăn nấy thích nghi nhanh trước hoàn cảnh. Là một đứa trẻ nhưng có thể làm rất nhiều công việc để giúp đỡ người khác.

Nét tính cách thứ hai cũng là nét tính cách khiến người đọc ấn tượng nhất đối với nhân vật tôi. Nhân vật tôi có tình cảm sâu sắc với ba mẹ của mình, đó có lẽ là thứ tình cảm giúp nhân vật tôi vượt qua sự khốc liệt của chiến tranh. Lúc nào cũng muốn được tìm lại mẹ, không ngại khó khăn khổ cực. Những câu chuyện mà nhân vật tôi kể, không có những khung cảnh gia đình áp, ở đó toàn sự chia ly xa cách. Nhưng ta vẫn có thể cảm nhận được sự yêu thương của nhân vật tôi dành cho cha mẹ, cũng như của cha mẹ dành cho nhân vật tôi. Thứ tình cảm đó khắc sâu vào tâm trí của tác giả theo nhân vật tận đến sau này. Đó là thứ tình cảm khát khao dai dẳng đi theo suốt những năm tháng trưởng thành của nhân vật tôi. Tựa đề câu chuyện là “Và tôi vẫn muốn mẹ…” cho thấy thứ tình cảm mãnh liệt tình mẫu tử. Khi nhân vật tôi chỉ là một đứa trẻ, tình yêu lớn nhất là dành cho gia đình của mình. Dù có đói khát thì chúng vẫn không khóc lóc mà chỉ khóc khi nhớ đến mẹ của mình. Tận khi lớn lên thì thứ tình cảm đó vẫn không mất đi. Dù có không còn chiến tranh, cuộc sống đủ đầy thì thứ tình cảm đó vẫn ăn sâu nảy mầm trong tâm trí của nhân vật tôi. Viết về đề tài chiến tranh, các nhà văn Việt Nam cũng có rất nhiều tác phẩm nói về hiện thực chiến tranh và ca ngợi tình cảm gia đình trong thời kỳ đó. Như “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng. Cả hai nhà văn đều dùng những ngòi bút riêng của mình để lên án cái thảm khốc của chiến tranh và ca ngợi cái kiên cường, tình cảm con người trong thời kỳ đó.

3. Tác động:

Qua tác phẩm “Và tôi vẫn muốn mẹ…” của A-lếch-xi-ê-vích ta thấy được một bức tranh chiến tranh khốc liệt, nhưng ở đó vẫn có những đứa trẻ như nhân tôi hồn nhiên, ngây thơ nhưng mang những tình cảm thiêng liêng. Từ đó ta càng trân trọng cuộc sống hòa bình hiện nay và càng yêu thương gia đình hơn.

Thời gian cùng gia đình là vô cùng cần thiết đối với mỗi cá nhân và đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống của chúng ta. Dành thời gian cho gia đình giúp bạn tăng cường sức khỏe tinh thần và thể chất, phát triển các kỹ năng xã hội, giữ gìn giá trị văn hóa, tạo dựng những kỷ niệm đẹp và hỗ trợ lẫn nhau. Gia đình là nơi mang lại cho con người cảm giác an toàn, ấm áp và yêu thương. Gia đình là nền tảng cho những mối quan hệ tốt đẹp khác trong cuộc sống. Dành thời gian cho gia đình giúp ta học được những giá trị đạo đức, lối sống tốt đẹp, đồng thời phát triển các kỹ năng giao tiếp, hợp tác và giải quyết vấn đề; giúp con người gắn kết với nhau hơn, chia sẻ những niềm vui, nỗi buồn và cùng nhau vượt qua những khó khăn trong cuộc sống. Dành thời gian cho gia đình giúp ta học được cách quan tâm, chia sẻ và yêu thương người khác, từ đó xây dựng những mối quan hệ bền chặt và lâu dài. Mỗi người nên cố gắng dành thời gian cho gia đình nhiều nhất có thể, dù chỉ là những khoảnh khắc nhỏ bé trong cuộc sống hàng ngày. Mỗi người nên cố gắng dành thời gian cho gia đình nhiều nhất có thể, dù chỉ là những khoảnh khắc nhỏ bé trong cuộc sống hàng ngày.

Thứ Bảy, 4 tháng 5, 2024

ĐỀ LUYỆN TẬP TUYỂN SINH 10_2023-2024_ Chủ đề TỰ HÀO TRUYỀN THỐNG

 

ĐỀ LUYỆN TẬP TUYỂN SINH 10_2023-2024_ Chủ đề TỰ HÀO TRUYỀN THỐNG

Câu 1. Đọc 2 văn bản sau và thực hiện các yêu cầu:

Văn bản 1

Các giá trị văn hóa truyền thống của bất cứ dân tộc nào cũng đều bắt nguồn từ nền tảng xã hội và lịch sử của dân tộc đó. Các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc ta được kết tinh từ lịch sử hàng nghìn năm giữ nước và dựng nước trong điều kiện thiên tai, địch họa vô cùng khắc nghiệt, hiểm nguy, mà tiêu biểu là lòng yêu nước, ý thức tự lập, tự cường, lòng khoan dung, lòng vị tha, kính già, yêu trẻ, quý trọng gia đình, tinh thần lao động kiên trì, cần cù; đó còn là ý thức tôn sư trọng đạo, tính ham học hỏi, không chùn bước trước những khó khăn; sự linh hoạt, thích nghi và dễ hòa nhập với những đổi thay…[…] Chính những giá trị văn hóa cốt lõi được kết tinh qua lớp lớp thế hệ ấy đã làm nên sức mạnh lớn lao để dân tộc ta vượt qua vô vàn khó khăn, thử thách trong lịch sử hàng nghìn năm qua để đạt được những thắng lợi vẻ vang.

Trân trọng quá khứ, biết kế thừa có chọn lọc những giá trị văn hóa từ quá khứ là điều kiện quan trọng để các thế hệ sau bước tiếp. Tuy nhiên, quá khứ không phải là “quan tòa” để phán định hiện tại và quyết định tương lai. Do đó, con cháu không được ỷ lại vào quá khứ để dừng lại, bởi dừng lại tức là tụt hậu, là có lỗi với các thế hệ đi trước. Trong khi cả thế giới đang chuyển biến ngày càng mạnh mẽ đến khó lường; khoa học và công nghệ đang tạo nên những bước ngoặt mang tính cách mạng mà ít ai ngờ tới, thì trọng trách phát triển đất nước nhằm đuổi kịp và vượt lên hàng các nước tiên tiến đặt lên vai thế hệ trẻ là rất vẻ vang nhưng vô cùng nặng nề, khó khăn. Thế hệ trẻ có thể đảm nhận và hoàn thành được sứ mệnh đó hay không thì trước hết chính họ phải tự ý thức được việc cần thiết phải kế thừa những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tiếp nhận những giá trị tinh hoa của nhân loại, của thời đại. Thế hệ trẻ cũng cần ý thức và xác định họ có khả năng tạo ra những giá trị văn hóa mới nào, hay cần loại bỏ những giá trị gì không còn phù hợp và đang cản trở họ. 

(Trích Định hướng giá trị văn hóa cho thế hệ trẻ trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, Nguyễn Trọng Chuẩn,tapchicongsan.org.vn, 08:41, ngày 08-04-2024 )

Văn bản 2

CẢM ƠN ĐẤT NƯỚC

Tôi chưa từng đi qua chiến tranh

 Chưa thấy hết sự hi sinh của bao người ngã xuống

Thuở quê hương còn gồng gánh nỗi đau.

 

Tôi lớn lên từ rẫy mía, bờ ao

Thả cánh diều bay

Lội đồng hái bông súng trắng

Mẹ nuôi tôi dãi dầu mưa nắng

Lặn lội thân cò quãng vắng đồng xa.

 

Tôi lớn lên từ những khúc dân ca

Khoan nhặt tiếng đờn kìm

Ngân nga sáo trúc

Đêm Trung thu say sưa nghe bà kể

Chú Cuội một mình ngồi gốc cây đa.

 

Thời gian qua

Xin cám ơn đất nước

Bom đạn mấy mươi năm vẫn lúa reo, sóng hát

Còn vọng vang với những câu Kiều

Trong từng ngần ấy những thương yêu

Tiếng mẹ ru hời

Điệu hò thánh thót

Mang hình bóng quê hương tôi lớn thành người.

 

Đất nước của tôi ơi!

Vẫn sáng ngời như vầng trăng vành vạnh.

 (Trích Bến quê ,Huỳnh Thanh Hồng NXB Văn nghệ TPHCM, 2005)

a. Theo tác giả văn bản 1, các giá trị văn hóa truyền thống tiêu biểu của dân tộc ta là gì?

b. Xác định và ghi lại thành phần biệt lập trong 2 dòng thơ cuối văn bản 2.

c. Xác định 01 điểm chung và 01 điểm riêng về nội dung của hai văn bản trên.

d. Theo em, vì sao tác giả văn bản 2 nói “Tôi lớn lên từ những khúc dân ca”? Trả lời trong khoảng 4-6 dòng.

Câu 2. Từ việc hiểu nội dung Ngữ liệu trên và từ trải nghiệm cuộc sống, hãy viết bài văn khoảng 500  chữ trả lời câu hỏi: Phải chăng  giới trẻ Việt đang ngày càng thờ ơ với văn hóa truyền thống?

Câu 3.

Học sinh được chọn 1 trong 2 đề sau:

Đề 1.

Người đồng mình yêu lắm con ơi

Đan lờ cài nan hoa

Vách nhà ken câu hát

Rừng cho hoa

Con đường cho những tấm lòng

[…]

Người đồng mình thô sơ da thịt

Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con

Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương

Còn quê hương thì làm phong tục

( Trích Nói với con, Y Phương, SGK Ngữ Văn 9, Tập 2, NXBGDVN, 2023, Trg. 72)

Hãy phân tích đoạn thơ trên giúp em cảm nhận được giá trị của văn hóa truyền thống. Trình bày những tác động của đoạn thơ đối với bản thân em.

Đề 2.

Tình huống:  Thời đại 4.0 mở ra một kỷ nguyên mới, vô tình cuốn giới trẻ vào cơn lũ số hóa khiến họ quên mất những giá trị văn hóa truyền thống và trách nhiệm giữ gìn bản sắc dân tộc của chính mình. Đắm chìm trong thế giới công nghệ đã dẫn đến hệ lụy nhiều bạn trẻ không quan tâm đến văn hóa truyền thống, những luồng văn hóa ngoại lai theo hội nhập mà tràn vào không có chọn lọc đã làm mất đi vẻ đẹp của văn hóa truyền thống.

Nhiệm vụ: Hãy chọn giới thiệu một tác phẩm văn học để giúp các bạn nhận ra trách nhiệm của người trẻ trong việc giữ gìn bản sắc dân tộc và viết bài văn nghị luận lý giải cho sự lựa chọn của em.


GỢI Ý

Câu 1.

a. Theo tác giả văn bản 1, các giá trị văn hóa truyền thống tiêu biểu của dân tộc ta là: lòng yêu nước, ý thức tự lập, tự cường, lòng khoan dung, lòng vị tha, kính già, yêu trẻ, quý trọng gia đình, tinh thần lao động kiên trì, cần cù; đó còn là ý thức tôn sư trọng đạo, tính ham học hỏi, không chùn bước trước những khó khăn; sự linh hoạt, thích nghi và dễ hòa nhập với những đổi thay…

b. Thành phần biệt lập trong 2 dòng thơ cuối văn bản 2:

  Thành phần gọi đáp: ơi

c. 01 điểm chung và 01 điểm riêng về nội dung của hai văn bản:

Điểm chung: Cả hai văn bản đều thể hiện lòng yêu nước, tự hào về truyền thống văn hóa của dân tộc. Điểm riêng:

Văn bản 1: Nhấn mạnh giá trị của văn hóa truyền thống và vai trò của thế hệ trẻ trong việc kế thừa và phát huy những giá trị đó..

Văn bản 2: Bộc lộ tình cảm yêu mến, trân trọng quê hương, đất nước thông qua những hình ảnh cụ thể và bình dị.

d.    Tác giả nói “Tôi lớn lên từ những khúc dân ca”. Bởi tác giả được sinh ra và lớn lên tại vùng quê với những hình ảnh thân thuộc “rẫy mía, bờ ao”; “Những cánh diều”; “thân cò”. Cũng như bao đứa trẻ khác, tác giả cũng được nằm trong nôi, nghe mẹ ru ầu ơ những khúc dân ca. Tác giả lớn lên từ những câu hát đó, những câu hát dân ca nuôi dưỡng tình yêu gia đình, yêu đất nước trong tiềm thức của nhà thơ.

Câu 2. Phải chăng  giới trẻ Việt đang ngày càng thờ ơ với văn hóa truyền thống?

A. Mở bài

- Văn hóa truyền thống là yếu tố quan trọng tạo nên bản sắc riêng của mỗi dân tộc.Nhưng trong xã hội hiện đại, với sự bùng nổ của công nghệ và văn hóa ngoại lai, một số bạn trẻ có thể ít quan tâm đến những giá trị truyền thống.

- Phải chăng giới trẻ Việt đang ngày càng thờ ơ với văn hóa truyền thống?

B. Thân bài

* Giải thích:

+ Văn hóa truyền thống là những giá trị tinh thần, vật chất được lưu truyền và phát triển qua nhiều thế hệ, thể hiện bản sắc riêng của một dân tộc. Nó bao gồm các yếu tố như: tín ngưỡng, phong tục tập quán, nghệ thuật, kiến trúc, trang phục, ẩm thực,...

- Thờ ơ với văn hóa truyền thống thiếu sự quan tâm, trân trọng và ý thức gìn giữ những giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc

=> giới trẻ Việt đang ngày càng thờ ơ với văn hóa truyền thống là một vấn đề đáng quan ngại cần được giải quyết

* Thực trạng:

- Nhiều bạn trẻ dành nhiều thời gian cho internet, mạng xã hội và các hình thức giải trí hiện đại, không biết hoặc ít quan tâm đến lịch sử, phong tục tập quán, di sản văn hóa của dân tộc, ít hoặc không tham gia vào các lễ hội, sự kiện văn hóa, các hoạt động biểu diễn nghệ thuật truyền thống,...

- Một số bạn trẻ ưa chuộng văn hóa ngoại mà không hiểu rõ, thậm chí còn học theo những điều tiêu cực, và xem nhẹ văn hóa truyền thống của dân tộc. Lạm dụng tiếng lóng, ngoại ngữ, viết tắt,... trong giao tiếp, thiếu hụt vốn từ vựng và ngữ pháp tiếng Việt.

- Không quan tâm đến việc giữ gìn, bảo vệ các di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh,... Xả rác bừa bãi tại các di tích lịch sử, văn hóa, có hành vi thiếu tôn trọng với các giá trị văn hóa.

* Nguyên nhân:

- Sự bùng nổ của internet và mạng xã hội khiến giới trẻ tiếp xúc nhiều với văn hóa ngoại. Một số bạn trẻ tiếp thu một cách mù quáng, thiếu chọn lọc, dẫn đến việc xa rời văn hóa truyền thống.

- Một số bạn trẻ chưa thực sự hiểu rõ giá trị và ý nghĩa của văn hóa truyền thống, dẫn đến sự thờ ơ và thiếu trân trọng cho rằng văn hóa truyền thống khô khan, thiếu sức sống, không phù hợp với đời sống hiện đại.

- Các bạn  ít có cơ hội tham gia các lễ hội, nghi thức truyền thống, hoặc không được tiếp cận với các loại hình nghệ thuật dân gian như: tuồng, chèo, ca trù,... do nhiều yếu tố như: bận học tập, giải trí online, ít có không gian văn hóa cộng đồng,...

- Việc kết nối giới trẻ với văn hóa truyền thống chưa phù hợp, sáng tạo, cònh áp đặt hay gán ghép, chưa khơi gợi niềm đam mê, sự hứng thú cho giới trẻ tìm hiểu và khám phá văn hóa truyền thống một cách tự nhiên.

* Hậu quả:

- Có một bộ phận giới trẻ dành nhiều thời gian cho văn hóa ngoại lai, đặc biệt là văn hóa Hàn Quốc, Nhật Bản, Âu Mỹ dẫn đến sự ảnh hưởng nhất định đến phong cách sống, cách ăn mặc, sở thích cá nhân,.... đang dần xa rời các giá trị văn hóa truyền thống, làm những giá trị văn hóa quý báu sẽ dần bị mai một, phai nhạt theo thời gian.

+ Điều này dẫn đến nguy cơ đánh mất bản sắc văn hóa, khiến cho thế hệ trẻ không còn biết mình là ai, từ đâu đến và có trách nhiệm gì với dân tộc.

- Thiếu hiểu biết về văn hóa truyền thống dẫn đến những sai lệch về giá trị đạo đức, lối sống trong giới trẻ, dễ bị sa vào những tệ nạn xã hội, vi phạm pháp luật, dễ bị ảnh hưởng bởi những trào lưu văn hóa độc hại, thiếu ý thức trách nhiệm cộng đồng, gia đình,...

- Thiếu hiểu biết về văn hóa truyền thống khiến giới trẻ có những hành vi ứng xử trái với chuẩn mực đạo đức, pháp luật, gây xáo trộn, dẫn đến những hệ lụy tiêu cực cho sự phát triển kinh tế, văn hóa, giáo dục,... dẫn đến sự chia rẽ trong cộng đồng.

- Thờ ơ với văn hóa truyền thống, giới trẻ sẽ không quan tâm đến việc bảo vệ di sản văn hóa, dẫn đến nguy cơ di sản bị xuống cấp, hư hại, thậm chí bị phá hủy.

* Giải pháp:

- Mỗi cá nhân cần ý thức được trách nhiệm của bản thân trong việc gìn giữ và phát huy văn hóa truyền thống, tích cực tham gia vào các hoạt động văn hóa, học hỏi và tìm hiểu về văn hóa truyền thống thông qua các hoạt động như: tham gia các câu lạc bộ văn hóa, học các loại hình nghệ thuật truyền thống, chia sẻ kiến thức về văn hóa trên mạng xã hội,...

- Cha mẹ cần giáo dục con em về giá trị và ý nghĩa của văn hóa truyền thống ngay từ nhỏ, tạo môi trường để các em tiếp xúc và trải nghiệm văn hóa truyền thống.

- Nhà trường và xã hội tổ chức các hoạt động giới thiệu văn hóa truyền thống đến giới trẻ một cách hấp dẫn, sáng tạo, tránh áp đặt hay gán ghép. Cần khơi gợi niềm đam mê, sự hứng thú cho giới trẻ tìm hiểu và khám phá văn hóa truyền thống một cách tự nhiên.

- Nhà nước ban hành các chính sách, chương trình giáo dục về văn hóa truyền thống cho học sinh, sinh viên; hỗ trợ kinh phí cho các hoạt động bảo tồn và phát huy văn hóa.

- Bài học:

- Bản thân cần ý thức được vai trò và trách nhiệm của bản thân trong việc gìn giữ bản sắc dân tộc trong bối cảnh hội nhập quốc tế.

+ Tìm hiểu và khám phá văn hóa truyền thống theo cách riêng của mình, giữ gìn được những giá trị cốt lõi của văn hóa truyền thống trong đời sống hằng ngày.

+Luôn tự hào về bản sắc dân tộc và tham gia các lễ hội truyền thống, thưởng thức âm nhạc và nghệ thuật truyền thống

C. Kết bài

- Bản sắc văn hoá là cái riêng biệt của mỗi dân tộc. Giữ gìn cái riêng ấy là trách nhiệm của mỗi công dân, trong đó có một phần quan trọng của thế hệ trẻ.

Câu 3.

Đề 1.

A. Mở bài

- Y Phương là người dân tộc Tày. Thơ ông thể hiện tâm hồn mạnh mẽ, chân thực và trong sáng, cách tư duy giàu hình ảnh của người dân tộc miền núi, mang đậm bản sắc vùng cao.

- Bài thơ “Nói với con” là lời tâm sự, động viên chính mình đồng thời nhắc nhở con cái sau này của nhà thơ. Mong con khôn lớn nên người, luôn yêu quê hương, tự hào về dân tộc mình. 

- Người đọc có thể cảm nhận được  niềm tự hào của người cha và mong muốn con biết trân trọng, giữ gìn và phát huy những nét đẹp truyền thống của quê hương, nguồn cội trong các câu thơ sau:

- Người đồng mình yêu lắm con ơi

Con đường cho những tấm lòng

[…]

Người đồng mình thô sơ da thịt

Còn quê hương thì làm phong tục

B. Thân bài

1. Khái quát

Thơ Y Phương là một bức tranh thổ cẩm đan dệt nhiều màu sắc khác nhau, phong phú và đa dạng, nhưng trong đó có một màu sắc chủ đạo, âm điệu chính là bản sắc dân tộc rất đậm nét và độc đáo. Chúng ta bắt gặp trong bài thơ “nói với con” của tác giả Y Phương một cách diễn đạt mộc mạc, chân chất của người miền núi những lời tâm tình thiết tha, những lời dặn dò ân cần, chia sẻ  của người cha đối với con lòng tự hào về con người và quê hương yêu dấu của mình.

2. Phân tích

a. Niềm tự hào của người cha về vẻ đẹp thiên nhiên thơ mộng, nghĩa tình của quê hương. Quê hương chính là mạch nguồn không thể thiếu nuôi dưỡng con khôn lớn và trưởng thành:

Người đồng mình yêu lắm con ơi

Con đường cho những tấm lòng

- “Người đồng mình yêu lắm con ơi”- câu cảm thán bộc lộ cảm xúc, niềm xúc động mãnh liệt của người cha.

+ Cách giới thiệu hình ảnh ấy lại đi liền với hô ngữ “con ơi” khiến lời của cha với con thật trìu mến, thân thương.

- Người đồng mình sống rất đẹp. Cuộc sống lao động cần cù và tươi vui được gợi lên qua nhiều hình ảnh đẹp đẽ:

+ Đan lờ cài nan hoa: gợi công việc lao động cần cù, tỉ mỉ với đôi bàn tay tài hoa. Họ làm một cách nghệ thuật từ cá dụng cụ lao động để bắt cá thường ngày.

+ Vách nhà ken câu hát: gợi tâm hồn trong sáng, lạc quan yêu đời, cuộc sống hòa với niềm vui. Trong căn nhà của họ, lúc nào cũng vang lên  tiếng hát.

+ Các động từ “đan, ken,cài” vừa diễn tả những động tác cụ thể, khéo léo vừa nói lên cuộc sống gắn bó với niềm vui với quê hương, xứ sở.

- Quê hương không chỉ thơ mộng mà luôn tràn đầy tình nghĩa. Quê hương của “người đồng mình” với hình ảnh rừng, một hình ảnh gắn liền với cảnh quan miền núi.

+ “Rừng cho hoa”: rừng không chỉ cho gỗ, cho lâm sản mà còn cho hoa. Thiên nhiên đã che chở, nuôi dưỡng con người cả về tâm hồn và lối sống. Chính những gì đẹp đẽ của quê hương đã hun đúc nên tâm hồn cao đẹp của con người ở đó.

+ “Con đường cho những tấm lòng”: đâu chỉ dẫn lối mà còn cho những tấm lòng cao cả tấm lòng cao cả, thủy chung.

+ Cách nhân hoá “rừng”“con đường” qua điệp từ “cho”, người đọc có thể nhận ra lối sống tình nghĩa của “người đồng mình”.  Đất và người nuôi ta khôn lớn, cho con sức mạnh, tình yêu và sự sống; hình thành cho con nền văn hóa, tư tưởng và khát vọng chinh phục.

=> Quê hương mình là một vùng quê giàu truyền thống văn hoá mà cũng thật nghĩa tình.

=> Tác giả muốn qua những câu thơ này để gợi nhớ cho con phải biết yêu thương xóm làng, yêu thương những con người gắn bó với mình, những người tuy không cùng chúng dòng máu nhưng lại thân thiết hơn cả ruột thịt.

b. Người cha mong muốn trân trọng, giữ gìn và phát huy những nét đẹp truyền thống của quê hương, nguồn cội và dựng xây cuộc sống tốt đẹp của người vùng cao:

Người đồng mình thô sơ da thịt

Còn quê hương thì làm phong tục

- Người đồng mình giàu lòng tự trọng:

+ Hình ảnh ẩn dụ “thô sơ da thịt” đối lập “chẳng…nhỏ bé” càng làm toát thêm vẻ đẹp mạnh mẽ không chỉ ở bên ngoài mà còn tiềm ẩn bên sâu trong tinh thần của con người miền núi.

+ Hình ảnh “thô sơ da thịt” đã tả thực vóc dáng, hình hài nhỏ bé của “người đồng mình”.

+ Cụm từ “chẳng mấy ai nhỏ bé” gợi ý chí, nghị lực phi thường, vượt lên hoàn cảnh khó khăn, thiếu thốn của “người đồng mình”

=> Họ từ bao đời luôn có ý thức tự lập, tự cường, tự tôn bản sắc riêng biệt của mình, chẳng bao giờ nhỏ bé.

- Người đồng mình khát vọng xây dựng quê hương giàu đẹp:

+ Hình ảnh “tự đúc đá kê cao quê hương” vừa mang ý nghĩa tả thực, vừa mang ý nghĩa ẩn dụ sâu sắc: Tả thực quá trình dụng nhà, dựng bản của người vùng cao, được kê trên những tảng đá lớn để tránh mối mọt. Ẩn dụ cho tinh thần tự lực cánh sinh, họ đã dựng xây và nâng tầm quê hương.Trong quá trình dựng làng, dựng bản, dựng xây quê hương ấy, chính họ đã làm nên phong tục, bản sắc riêng cho cộng đồng.

+ Cụm từ “tự đục đá kê cao quê hương” thể hiện ý chí mạnh mẽ, tinh thần tự lực tự cường của người đồng mình. Việc “đục đá” là khó, là đòi hỏi nghị lực, nhưng người quê hương ta đã làm,vẫn làm để làm rạng rỡ quê hương.

+  Các từ “đục đá, kê cao” một cách gần gũi và bình dị, đậm chất sử dụng ngôn ngữ của người dân tộc Tày.  Cách nghĩ cách làm nâng niu và trân quý bao giá trị văn hóa ngàn đời.

_ “Còn quê hương thì làm phong tục” là lời nhắc kiên trì xây dựng quê hương và gìn giữ phong tục riêng. Và đó cũng là giá trị mà mỗi con người phải trân trọng và gìn giữ đến suốt cuộc đời.

Người cha dạy con sống rộng mở, bao la, biết kiên trì và trân trọng những nét đẹp truyền thống của quê hương, nguồn cội.

3. Đánh giá:

Bằng cách diễn đạt mộc mạc, thô sơ, bằng những hình ảnh cụ thể mà giàu sức khái quát bài thơ đã thể hiện một cách độc đáo mà cũng thật thấm thía về tình cảm thiết tha sâu sắc nhất của con người : tình cảm gia đình và tình yêu quê hương xứ sở. Qua từng ý thơ ông còn gửi gắm con những bài học sâu sắc về ý chí nghị lực trong cuộc sống, về sự tiếp thu truyền thống, làm giàu thêm vốn văn hóa quê hương. Những tình cảm ấy không chỉ dành cho riêng đứa con gái bé nhỏ mà đó còn là mong mỏi của biết bao ông bố, bà mẹ ở khắp mọi nơi.

4. Tác động

Đoạn thơ sử dụng ngôn ngữ thơ giản dị, mộc mạc, gần gũi với đời sống hàng ngày của người dân tộc thiểu số tạo nên sự đồng cảm và gắn bó cho người đọc, khơi gợi trong lòng người đọc tình yêu quê hương, yêu con người tha thiết, đặc biệt là tình yêu đối với những người dân tộc thiểu số ở miền núi. Đọc đoạn thơ em  học được bài học giáo dục quý giá về việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống. Văn hóa truyền thống là yếu tố cốt lõi tạo nên bản sắc riêng của dân tộc Việt Nam, là nguồn sức mạnh vô cùng mạnh mẽ, giúp dân tộc ta đoàn kết, vượt qua mọi khó khăn, thử thách trong suốt chiều dài lịch sử. Văn hóa truyền thống là những chuẩn mực đạo đức, giá trị sống tốt đẹp, giúp mỗi người trẻ Việt Nam chúng em định hướng hành vi và lối sống của mình.

Đoạn thơ gợi cho em suy nghĩ về trách nhiệm của bản thân đối với quê hương, đất nước: Mỗi người cần có ý thức gìn giữ và bảo vệ những giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc, đồng thời chung tay xây dựng quê hương, đất nước ngày càng giàu đẹp. Em hiểu rằng trong bối cảnh hội nhập quốc tế, việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết và mỗi cá nhân người Việt cần ý thức được trách nhiệm của bản thân trong việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống..  Em cần rèn luyện sống theo những giá trị đạo đức tốt đẹp của dân tộc, qua lời nói, hành động và ứng xử trong đời sống hàng ngày. Tham gia tích cực vào  các hoạt động văn hóa để học hỏi và gìn giữ truyền thống.

C. Kết bài

Bài thơ Nói với con đã góp phần tạo nên một tiếng nói riêng độc đáo về tình cảm gia đình, tình cảm quê hương trong làng thơ Việt Nam. Bài thơ giúp chúng ta cảm nhận vẻ đẹp của một áng thơ về tình cha con cao quý, và càng thấm thía lời nhắn nhủ chứa đựng sự yêu thương, niềm tin tưởng mà người cha dành cho con: phải sống sao cho xứng đáng với cha mẹ, với người đồng mình, không quên xứ sở, nguồn gốc, sống biết “uống nước nhớ nguồn” bởi đó là nguồn sức mạnh của ta.

Đề 2.

1. Nêu vấn đề:

Thời đại 4.0 mở ra một kỷ nguyên mới, vô tình cuốn giới trẻ vào cơn lũ số hóa khiến họ quên mất những giá trị văn hóa truyền thống và trách nhiệm giữ gìn bản sắc dân tộc của chính mình. Đắm chìm trong thế giới công nghệ đã dẫn đến hệ lụy nhiều bạn trẻ không quan tâm đến văn hóa truyền thống, những luồng văn hóa ngoại lai theo hội nhập mà tràn vào không có chọn lọc đã làm mất đi vẻ đẹp của văn hóa truyền thống.

- Dẫn vào nội dung lựa chọn:

 Vâng, chắc hẳn cái tên Nguyễn Vinh Phúc không còn xa lạ với đông đảo những người dân thủ đô, đặc biệt là những người yêu và gắn bó sâu sắc với mảnh đất Hà thành. Ông là ai ? Ông chính là tác giả của những công trình nghiên cứu nổi tiếng về Thăng Long – Hà Nội như Văn hiến Thăng Long, Hà Nội qua những năm tháng, Đường phố Hà Nội hay Lịch sử Thăng Long – Hà Nội....

Con người được nhân dân thủ đô yêu mến và gọi bằng cái tên thân thương  “nhà Hà Nội học” ấy, vào tháng 6 năm 2009 vừa qua, đã cùng với nhà xuất bản Trẻ cho ra mắt cuốn sách “1000 năm Thăng Long – Hà Nội”, như là một món quà mừng sinh nhật nghìn năm tuổi của vùng đất kinh kỳ dấu yêu. Vừa phát hành, cuốn sách đã được thành phố đặt hàng để làm quà tặng cho các đại biểu tham dự cuộc họp giữa thành phố và Liên hiệp các hội văn học, nghệ thuật Việt Nam. Chỉ một sự kiện nhỏ nhưng thế cũng đã đủ để nói lên giá trị của cuốn sách có một không hai này.

Với ông, được khám phá và tìm hiểu về dải đất Kinh kỳ chính là một niềm hạnh phúc. Bao năm gắn bó với nơi đây cũng là bấy nhiêu năm ông gom nhặt, chắt chiu nghiên cứu để tìm hiểu về Hà Nội. Chẳng vậy mà, khi nhắc đến tên Nguyễn Vinh Phúc, người ta vẫn ví ông là cuốn từ điển sống về thủ đô ngàn năm văn hiến. Cuốn sách "1000 năm Thăng Long - Hà Nội" có thể nói, chính là minh chứng cho sự ví von này.

2. Giới thiệu tác phẩm và nêu ý nghĩa: (Theo https://c2nguyentrai.badinh.edu.vn/chi-tiet/gioi-thieu-sach-1000-nam-thang-long-ha-noi-pmtd22sw10992)

- “1000 năm Thăng Long – Hà Nội” dày chính xác là 1066 trang, khổ 16x24 cm, bìa cứng, 2 lớp, trang trí giản dị. Nổi bật chính giữa bìa sách là hình ảnh của một bức phù điêu chạm khắc hình con rồng thời Lý tìm được ở Hoàng thành Thăng Long. Nét chạm khắc tinh xảo với những đường cong uốn lượn mềm mại đã thổi vào cuốn sách một không khí cổ kính, mà chưa cần mở sách ra, mỗi người dân thủ đô đều cảm thấy như rưng rưng một niềm tự hào. Ta đang cầm trên tay 1000 năm quê hương, ta đang cầm trên tay 1000 năm đất nước, ta đang cầm trên tay biết bao năm tháng hào hoa và oanh liệt của mảnh đất Tràng An.

Hơn 1.000 trang sách với trên 900 chuyên mục đề cập tới phần lớn các vấn đề của Thăng Long - Hà Nội ngàn năm. Sách đã cung cấp cho bạn đọc những tư liệu chính xác về những gì đã diễn ra trên mảnh đất "kinh sư" từ khi định đô cho tới ngày hôm nay.

- Mở “1000 năm Thăng Long – Hà Nội” ra, ta bắt gặp mỗi trang sách là một hình ảnh, được những nhiếp ảnh gia thủ đô chọn lựa đưa vào. Người đọc chỉ cần ngồi một chỗ mà có thể thấy được sương lãng đãng trên mặt Kiếm hồ vào buổi bình minh hay hoàng hôn đỏ rực cánh sâm cầm bên bờ Hồ Tây; Nét cổ kính linh thiêng của Thăng Long tứ trấn hay quang cảnh tấp nập, nhộn nhịp ở ô Quan Chưởng, Cầu Dền, Đống Mác...; Vừa được quan sát dấu tích tòa thành cổ nhất Việt Nam dựng lên từ thời An Dương Vương, lại vừa được quan sát vẻ năng động, hiện đại của khu đô thị mới Mỹ Đình.... Xưa và nay, cũ và mới cùng về đây hội tụ.

Bằng phương thức hỏi - đáp, nội dung cuốn sách được sắp xếp theo từng phần: Địa lý - Địa danh/ Lịch sử - Sự kiện/ Văn hóa - Giáo dục - Y tế/ Văn học - Nghệ thuật/ Danh nhân/ Bác Hồ với Thủ đô Hà Nội/ Kinh tế - Du lịch - Thể thao… Thầy cô và các em có thể dễ dàng tra cứu những chuyên mục mà mình quan tâm. Một Hà Nội với cả chiều rộng của không gian, chiều sâu của thời gian lịch sử, văn hóa, con người; chắt lọc những đặc trưng, những tinh túy, những hình ảnh cổ kính nhất, thơ mộng nhất, hào hoa nhất … đang lật mở ra trước mắt chúng ta. Đó là cách mà Nguyễn Vinh Phúc chuyển tải thông tin đến bạn đọc.

Từ trang 7 đến trang 370, Nguyễn Vinh Phúc thành thạo như viết một cuốn Dư địa chí, cung cấp cho ta những thông tin chính xác về vị trí địa lý, địa hình, sông ngòi... của Hà Nội. Mới chỉ những trang đầu thôi, cuốn sách sẽ làm bạn đọc phải ngạc nhiên về sự tỉ mỉ và chính xác đến tuyệt đối. Những con số nêu tọa độ, những con số ghi diện tích đã chứng tỏ một văn phong khoa học, cách trình bày chuyên nghiệp của người làm công tác nghiên cứu. Lật giở từng trang sách, ta như được một hướng dẫn viên du lịch vô hình đưa đến tham quan tất cả những địa danh, thắng cảnh ở mảnh đất văn vật ngàn năm. Hà Nội có bao nhiêu hồ ? Bao nhiêu núi ? Bao nhiêu rừng ? Quận (huyện) nào lớn nhất? Quận (huyện) nào nhỏ nhất ? Bao nhiêu vườn hoa, bao nhiêu công viên ? Bao nhiêu tượng đài ? Bao nhiêu chùa ? Bao nhiêu đền ? Bao nhiêu cầu ? Bao nhiêu phố ? Bao nhiêu làng nghề ?.... Tất cả sẽ được cung cấp chỉ trong một cuốn sách.

Dù cuốn sách dày hơn 1.000 trang với một khối lượng tư liệu "quá dày dặn" nhưng chắc chắn người đọc không hề cảm thấy nhàm chán. Mỗi một mục là một câu chuyện và bạn đọc có thể nhẩn nha như đi thăm thú từng di tích, cảnh đẹp của Hà Nội, có thể trở về lịch sử qua những câu chuyện năm xưa… Từ trang 371 đến trang 570, cuốn sách lại cùng ta dạo quanh những trang sử vẻ vang, oanh liệt, những năm tháng hào hoa của xứ sở rồng bay lên. Ta như thấy lại ngày hôm ấy, cả Thăng Long xơ xác, tiêu điều “vườn không, nhà trống”, đón kẻ thù vào bị vùi xác, chôn thây. Lật sang trang, ta lại bắt gặp “chàng trai trẻ Nguyễn Trãi ngày nào rời Thăng Long tiễn cha với lời thề rửa hận non sông cho tròn đại hiếu”. Thế rồi, phảng phất trong cuốn sách, ta dường như gặp cảnh người con rể Quang Trung, với cành đào đất Bắc mang về tặng cho người vợ Ngọc Hân:

“Hẳn nhớ Thăng Long, hẳn nhớ đào

  Mai vàng xứ Huế có vui đâu

  Đào phi theo ngựa về cung nhé

  Nở cạnh đài gương sắc chiến bào.”

Chế Lan Viên

Tại đây, Nguyễn Vinh Phúc kể sử không chỉ với giọng điệu của người nghiên cứu sử mà còn bằng niềm tự hào và yêu kính của người con thủ đô.

Không chỉ bó hẹp trong phạm vi của Hà Nội cũ, theo tác giả "từ ngày 1- 8, Hà Nội mở rộng, có thêm trọn vẹn tỉnh Hà Tây, huyện Mê Linh (tỉnh Vĩnh Phúc) và 4 xã thuộc huyện Lương Sơn, Hòa Bình" cho nên trong cuốn sách cũng đã bổ sung nhiều mục về những vùng đất mới này".

Sự xuất hiện của cuốn sách "1000 năm Thăng Long - Hà Nội" ở thời điểm năm cận kề của đại lễ là một món quà hết sức có ý nghĩa của nhà Hà Nội học Nguyễn Vinh Phúc dành tặng cho Thủ đô. Với tác giả, sự có mặt của cuốn sách cũng là lời tri ân của ông với người bạn già - nhà văn Tô Hoài. Trong lời nói đầu của tác phẩm, Nguyễn Vinh Phúc đã nói về "duyên cớ" mà ông làm cuốn sách này: "Năm 1998, nhà văn Tô Hoài đã giới thiệu tôi với Nhà xuất bản Trẻ để biên soạn bộ "Hỏi đáp 1000 năm Thăng Long - Hà Nội", là bộ sách cung cấp những kiến thức cơ bản, tiện tra cứu về dải đất ngàn năm văn vật".

Để rồi, mười một năm sau, ngay trên trang bìa của cuốn sách này, nhà văn Tô Hoài đã viết: “1000 năm Thăng Long – Hà Nội cho ta thấy mỗi sự tích trong bóng dáng xưa và nay hiển hiện song đôi. Đất phát tích đã định đô ngàn năm, trong bóng sông hồ những dinh tự, lâu đâì, thành quách đời đời đã in những đoàn quân trảy đi mở cõi, giữ cõi, những hội hè, đình đám rực rỡ trên đồng bãi có những con người cha truyền con nối chuyên cần.”

Vậy là gần chục năm sau, trên cơ sở bộ sách "Hỏi đáp 1000 năm Thăng Long - Hà Nội" đã xuất bản, Nguyễn Vinh Phúc bổ sung thêm lên gấp đôi để in thành một tập sách mới: 1000 năm Thăng Long – Hà Nội. Cuốn sách không chỉ là một món quà mà tác giả muốn dành tặng cho thủ đô nhân dịp sinh nhật tròn một thiên niên kỉ mà nó còn là một cẩm nang cho tất cả những ai yêu mến và muốn khám phá về mảnh đất này. Với cuốn sách này, chúng ta có thể theo bước chân nhà văn để cùng khám phá từng nẻo đường góc phố thủ đô. Đó có thể là không khí sôi động của một thành phố đang phát triển nhưng cũng có thể là vẻ trầm lắng rêu phong của một thành phố đã nghìn năm tuổi. Đó có thể là nét độc đáo của một thành phố có bề dày văn hóa nhưng cũng có thể là sự hiện đại của những tòa nhà chọc trời… Tất cả hành trình du lịch ấy có thể được diễn ra chỉ với một cuốn sách mang tên “1000 năm Thăng Long – Hà Nội”.

Là một người luôn yêu và trân trọng những cuốn sách, đối với em, “1000 năm Thăng Long – Hà Nội” thực sự là một món ăn tinh thần bổ ích. Cuốn sách không chỉ mang đến cho em thêm nhiều hiểu biết mà hơn tất cả, từ cuốn sách, tình yêu đối với Hà Nội của tác giả Nguyễn Vinh Phúc đã được truyền tới mỗi người đọc để chúng ta hiểu và càng thêm gắn bó với mảnh đất này.

Cuối bài viết này em xin được mượn lời của nhà sử học Lê Quý Đôn:

“Dẫu có bạc vàng trăm vạn lạng

  Chẳng bằng kinh sử một vài pho.”

Sách là một món quà mà thế hệ trước để lại cho đời sau, là kho tàng tri thức quý giá của nhân loại và cũng là chìa khóa mở ra cánh cửa tương lai. Hãy đọc sách, trân trọng những cuốn sách và yêu mến chúng  như yêu mến những người bạn. Và sách sẽ đặt vào tay bạn một chiếc chìa khóa, chiếc chìa khóa của thành công và hạnh phúc.

3. Tác động:

Gìn giữ bản sắc dân tộc là trách nhiệm chung của toàn xã hội, đặc biệt là thế hệ trẻ. Mỗi cá nhân cần ý thức được trách nhiệm của bản thân và có những hành động cụ thể để góp phần bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.

Bản sắc dân tộc là cội nguồn, là tinh hoa của dân tộc, là yếu tố quan trọng để xây dựng và phát triển đất nước. Thế hệ trẻ cần nhận thức được tầm quan trọng của bản sắc dân tộc và tìm hiểu và học hỏi về lịch sử, văn hóa, truyền thống của dân tộc: Đọc sách, tham quan di tích lịch sử, bảo tàng, tìm hiểu về các phong tục tập quán, lễ nghi, di sản văn hóa,... Tham gia các hoạt động giáo dục về văn hóa truyền thống do nhà trường và xã hội tổ chức. Hãy thể hiện bản sắc dân tộc trong đời sống: Trau dồi vốn từ vựng và ngữ pháp tiếng Việt để sử dụng tiếng Việt một cách lưu loát và chính xác,thưởng thức âm nhạc và nghệ thuật truyền thống như am nhạc dân gian, tuồng chèo, cải lương,... Mua sắm và sử dụng các sản phẩm thủ công mỹ nghệ, đồ lưu niệm truyền thống để góp phần bảo tồn và phát huy nghề truyền thống. Chia sẻ kiến thức về văn hóa truyền thống cho bạn bè, người thân, lên các trang mạng xã hội để thu hút sự quan tâm của mọi người. Có ý thức bảo vệ di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh: Không xả rác, bôi vẽ, phá hoại di tích lịch sử, nhắc nhở mọi người giữ gìn vệ sinh chung, không xả rác bừa bãi tại các di tích lịch sử.