Thứ Năm, 28 tháng 4, 2022

Trưởng thành là khi tôi biết sống vì người khác

 

Mỗi chúng ta không chỉ sống riêng cho mình ta. Không cần biết bạn là một con người thấp kém đến đâu, nhưng bạn vẫn luôn là một cái cây to lớn cho mọi người khác, có thể bạn cảm thấy mình sống không có ý nghĩa nhưng với người khác thì bạn là chỗ dựa tinh thần duy nhất của họ. Vì vậy mới có ý kiến: “Trưởng thành là khi tôi biết sống vì người khác”.

Trưởng thành là khi ta thôi những suy nghĩ viển vông, biết sống có mục đích , sống có trách nhiệm không chỉ với bản thân mình mà còn với người ta yêu thương, với cộng đồng xã hội. Sống vì người khác có thể hiểu là những hành động, việc làm cùa bàn thân nhưng nhằm hướng mục đích mang lại lợi ích cho một cá nhân khác, hay rộng hơn là cho tập thể, cộng đồng xã hội. Ý kiến đã chỉ ra được việc “sống vỉ người khác ” là một biểu hiện cho thấy sự trưởng thành trong nhân cách của một cá nhân. Với ý kiến đã nêu, người phát ngôn thể hiện thái độ ca ngợi lối sống vì cộng đồng, tập thể thay vì chỉ sống cho chính bản thân mình.

Trưởng thành chính là khi ta biết cảm nhận được tình yêu thương vô bờ bến của bố mẹ dành cho ta, biết vị mặn của những giọt mồ hôi lăn dài trên khuôn mặt chai sạm vì mưa nắng và vị mặn của những giọt nước mắt khi ta vô tâm làm buồn lòng hai đấng sinh thành. Trưởng thành đôi khi chỉ là việc con người ta biết yêu thương, biết chia sẻ với khó khăn với người khác, biết làm mất đi những cái ích kỷ của bản thân để biết cho đi mà không bao giờ cần nhận lại. Trưởng thành đó chính là khi ta biết quan tâm thực sự một ai đó, lo lắng cho ai đó, nhận ra được những lỗi lầm của mình và cố gắng sửa chữa và hoàn thiện bản thân từng ngày một. Ta như biết giúp đỡ mọi người hơn, và ý thức được những hành động của mình là đúng hay sai và từ đó điều chỉnh chính bản thân mình.

Trưởng thành là khi ta sống không chỉ vì mình mà còn phải biết nghĩ cho người khác. Là khi biết chia sẻ, đồng cảm, thấu hiểu, cũng có thể là những hành động, việc làm quan tâm giúp đỡ cụ thể đối với người khác, đặc biệt là những người dang rơi vào tình cành khó khăn, cần sự giúp đờ. Sống vì người khác góp phần giúp gắn kết tình cảm, mối quan hệ tốt đẹp giữa người với người; giúp bản thân nhận đưực sự yêu quý, kính trọng từ mọi người.

Khi ta bỉểt sống vì người khác nghĩa là ta đã biết hạ thấp cái tôi cá nhân của bản thân, biết kiềm chế những cám xúc, nhu cầu cùa bàn thân để hướng đến lợi ích chung cùa tập thể, Nó điều khiển hành động và cách suy nghĩ của ta để ta đi theo con đường của lẽ phải, sống có tình cảm, có đạo hiếu và đã biết lo lắng, quan tâm đến cho mọi người. Việc sống vì người khác thể hiện ta là một người có bản lĩnh, có lòng vị tha, cao thượng. Đó là đức tính quan trọng của một người trưởng thành.

Sống vì người khác thể hiện bản thân là người chân thành, biết quý trọng các mối quan hệ xung quanh. Nó làm đời sống này đẹp hơn, đáng sống hơn và ý nghĩa hơn rất nhiều. Sống vì người khác sẽ không bao giờ là thiệt mà chỉ đơn giản giúp bạn thấy đời đẹp tươi, đáng sống, đáng trân quý mà thôi.Sống vì người khác còn là nguồn động lực lớn để ta sống có ích, tiếp tục cổng hiến, đó là những biếu hiện trong nhận thức, suy nghĩ cùa một người trường thành.

Trong thực tế, có rất nhiều người vẫn sống một cách ích kỉ, chỉ biết quan tâm đến lợi ích của mình mà bỏ qua quyền lợi chung. Đây là một lối sống không chỉ thề hiện suy nghĩ ấu trí, tiêu cực mà còn gây hại rất lớn đến đời sống xã hội cần phải thay đổi.

Sống là phải biết quan tâm đến mọi người xung quanh. Mỗi chúng ta hãy nhìn nhận lại thái độ, hành vi cùa bản thân để có những cách cư xử cho phù hợp. Trong nhiều trường hợp, ta cần phải đặt lợi ích chung của tập thể, cộng đồng lên hàng đầu. Sống không chỉ biết hưởng thụ cho bản thân mà phải tích cực cống hiến cho cộng đồng, vì những người xung quanh. Một người vì mọi người thì xã hội sẽ phát triền bền vững hơn và trở nên văn minh, tốt đẹp hơn. Hãy làm tất cả những gì mà con tim ta mách bảo, làm bằng tất cả sức lực và tâm huyết của mình cho dù việc đó có lớn lao hay nhỏ bé đi nữa.

Cho nên trong cuộc sống này, trước khi làm bất cứ việc gì bạn cũng nên suy nghĩ cho người khác một chút, ví dụ mình làm như vậy có ảnh hưởng đến người khác không, có làm cho người khác thiệt hại hay không, hãy nghĩ đến những người thân của mình, và nếu bạn nghĩ được như vậy chắc chắn lúc ấy bạn đã trưởng thành thật sự.

Thứ Tư, 27 tháng 4, 2022

Khổ 1,2 Sang thu: Vẻ đẹp và sự biến đổi kỳ diệu của thiên nhiên trong buổi giao mùa_ Liên hệ vẻ đẹp thiên nhiên Đoàn thuyền đánh cá

 


Mỗi khoảnh khắc giao thoa giữa hai mùa Hạ và Thu luôn là thời điểm khiến cho lòng người cảm thấy xốn xang nhất. Khi mà cảnh vật hòa cùng với đất trời tạo nên một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp. Chẳng thế mà với một tâm hồn đậm chất thơ của mình Hữu Thỉnh đã vẽ nên một bức tranh thiên nhiên đất trời khi chuyển mùa sang Thu bằng chất liệu ngôn từ đẹp đẽ nhất và cũng lãng mạn nhất qua bài “Sang thu”. Đoạn thơ sau là những cảm nhận, những rung động man mác, bâng khuâng của tác giả trước vẻ đẹp và sự biến đổi kỳ diệu của thiên nhiên trong buổi giao mùa:

Bỗng nhận ra hương ổi

Phả vào trong gió se

Sương chùng chình qua ngõ

Hình như thu đã về

 

Sông được lúc dềnh dàng

Chim bắt đầu vội vã

Có đám mây mùa hạ

Vắt nửa mình sang thu

Mùa thu quê hương là đề tài gợi cảm xúc đối với thi nhân song mỗi người cảm xúc về mùa thu theo cảm nhận riêng của mình. Với nhà thơ Hữu Thỉnh, khoảnh khắc giao mùa từ hạ sang thu đã rung động hồn thơ để thi sĩ vẽ nên một bức tranh thơ: “Sang thu” thật hay. Bài thơ được viết theo thể thơ năm chữ: nhịp nhàng, khoan thai, êm ái, trầm lắng và thoáng chút suy tư… thể hiện một bức tranh thu trong sáng, đáng yêu ở vùng nông thôn đồng bằng Bắc Bộ.

“Sang thu” ở đây là chớm thu. Mùa hè vẫn chưa hết mà mùa thu đã bắt đầu tới với những tín hiệu đầu tiên. Trong khoảnh khắc giao mùa tuyệt vời, đất trời có những biến chuyển nhẹ nhàng mà rõ rệt. Nét đẹp chuyển thu thật tinh tế, dịu dàng. Trước những sự thay đổi tinh vi ấy, phải nhạy cảm lắm mới có thể cảm nhận được. Hữu Thỉnh đón nhận mùa thu từ những dấu hiệu đời thường, gần gũi.Và trong biết bao hương vị thân thuộc của làng quê, Hữu Thỉnh giật mình thảng thốt, nhận ra cái làn hương ngây ngất, ngọt ngào của trái ổi đầu mùa:

Bỗng nhận ra hương ổi

Phả vào trong gió se

Sương chùng chình qua ngõ

Hình như thu đã về

Hương ổi” thân thương sực thẳng vào miền kí ức, đánh thức hương vị của làng quê Bắc Bộ yêu thương. Đó là thứ hương vị thật dễ dàng để nhận ra ở chốn làng quê thôn dã. Nhưng có phải bởi quen thuộc quá nên đôi khi ta lãng quên? Để đến khi nhận ra hết thảy chúng ta đều không khỏi bất ngờ: “Bỗng nhận ra hương ổi”. Từ “bỗng” như được gieo lên trong niềm ngỡ ngàng ngạc nhiên. Từ bao giờ nhỉ, thu về? Tất cả đến với tác giả nhẹ nhàng mà cũng đột ngột quá, thu về với đất trời quê hương, với lòng người mà không hề báo trước. Để rồi trong phút giây ngỡ ngàng, nhà thơ chợt nhận ra hương thơm nồng nàn “phả” vào trong “gió se”.  Mùi hương ấy không hòa vào quyện vào mà “phả” vào trong gió. “Phả” nghĩa là bốc mạnh và tỏa ra từng luồng. Hữu Thỉnh đã không tả mà chỉ gợi, đem đến cho người đọc một sự liên tưởng thú vị: tại vườn tược quê nhà,những quả ổi chín vàng trên các cành cây kẽ lá tỏa ra hương thơm nức, thoang thoảng trong gió. Chỉ một chữ “phả” thôi cũng đủ gợi hương thơm như sánh lại. Sánh lại bởi hương đậm một phần, sánh bởi tại gió se. Nhận ra trong gió có hương ổi là cảm nhận tinh tế của một người sống giữa đồng quê và nhà thơ đã đem đến cho ta một tín hiệu mùa thu dân dã mà thi vị. Ông đã phát hiện một nét đẹp đáng yêu của mùa thu vàng nông thôn vùng đồng bằng Bắc Bộ. Cũng nhờ hương ổi, bức tranh giao mùa có một sức sống mạnh mẽ đến kì lạ, mà cũng bất ngờ cho lòng người. Hương ổi từ đó mà lan tỏa mãi trong không gian và rồi vấn vương trong gió se - cơn gió heo may đầu mùa.

Hữu Thỉnh có những cảm nhận rất tinh tế về sự thay đổi của đất trời, điều đó được thể hiện lần lượt qua khứu giác (hương ổi), rồi đến xúc giác (gió se) và bây giờ thì đến thị giác. Trước mắt nhà thơ, sương mở đường mở lối đi khắp đầu thôn, ngõ xóm. Không gian có sự hoà hợp giữa hương ổi dịu dàng, gió thu nhẹ nhẹ và sương thu mơ màng tạo nên một ấn tượng đặc biệt mà ta khó lòng quên được. Không phải là màn sương dày đặc, mịt mù mà là “Sương chùng chình qua ngõ” gợi ra những làn sương mỏng, mềm mại, giăng màn khắp đường thôn ngõ xóm làng quê. Nó làm cho khí thu mát mẻ và cảnh thu thơ mộng, huyền ảo, thong thả, bình yên. "Chùng chình" là sự cố ý muốn làm chậm lại, rung rinh, lay động. Nó mang dáng vẻ thong thả, nhẹ nhàng như thiễu nữ đôi mươi. Sương lén lút chậm rãi qua các ngõ hẻm. Ngõ không chỉ là không gian nối liền thôn xóm mà còn cửa ngõ thời gian nối liền hai mùa hạ – thu. Tinh tế và sâu sắc biết mấy cảm nhận của nhà thơ về thiên nhiên nhưng lại hiện lên rõ nét hình ảnh con người. Vạn vật trong thời khắc chuyển mùa vì thế càng trở nên duyên dáng, nhịp nhàng.  Cảm quan tinh tế cùa nhà thơ đã phát hiện ra vẻ đẹp rất riêng, rất duyên đó để rồi xao xuyến: "Hình như thu đã về". Nhờ “bỗng” mà “hình như” đã được sinh ra. “Hình như” là một tình thái từ thể hiện một quan điểm chưa chắc chắn, vẫn còn bâng khuâng không biết liệu rằng mùa thu đã về chưa. Lời reo vui cũng thì thầm nhỏ nhẹ, bâng khuâng vang lên trong lòng Hữu Thỉnh như bước đi của mùa thu. Bằng tất cả các giác quan: khứu giác, xúc giác và thị giác, nhà thơ cảm nhận những nét đặc trưng của mùa thu đều hiện diện. Có “hương ổi”, “gió se” và “sương”. Mùa thu đã về trên quê hương. Vậy mà nhà thơ vẫn còn dè dặt: “Hình như thu đã về”. Thu đến nhẹ nhàng quá, mơ hồ quá.

Sau giây phút ngỡ ngàng và khe khẽ vui mừng, cảm xúc của thi sĩ tiếp tục lan tỏa, mở ra trong cái nhìn xa hơn, rộng hơn:

Sông được lúc dềnh dàng

Chim bắt đầu vội vã

Có đám mây mùa hạ

Vắt nửa mình sang thu

Hơi thở của thu đã rõ rệt hơn. Sự hiện diện của thu không còn mơ hồ mà đã cụ thể, hữu hình trong thiên nhiên và tạo vật. Trong không gian rộng lớn hơn, từ bầu trời tới mặt đất, đâu đâu cũng thấy cảnh sắc nhuốm thu. Dòng sông chảy khoan thai, lững lờ, mà mềm mại và duyên dág chứ không ào ạt, cuộn dâng như trong hạ. Thế nhưng trái lại với vẻ chậm chạp của dòng sông, đàn chim trời lại đang vội vã, chuẩn bị cho một hành trình mới, khi thu sang, ngày ngắn, đêm dài và gió se đã thổi. Như vậy, mùa thu của Hữu Thỉnh không chỉ có bình yên, thư thả mà còn có cả sự vội vã, gấp gáp. Sông dưới mặt đất, chim ở trên trời; sông “dềnh dàng” chậm rãi, chim “vội vã” lo lắng,... Hai hình ảnh xinh xắn đối lập đó được đặt cạnh nhau để khái quát không gian mặt đất và bầu trời. Bức tranh mùa thu được cảm nhận bởi sự thay đổi của đất trời theo tốc độ di chuyển từ hạ sang thu, nhẹ nhàng mà rõ rệt. Thiên nhiên sang thu đã được cụ thể bằng những hình ảnh: “sông dềnh dàng”, “chim vội vã”, “đám mây vắt nửa mình”. Thiên nhiên đã được quan sát ở một không gian rộng hơn, nhiều tầng bậc hơn. Và bức tranh sang thu từ những gì vô hình như “hương ổi”,”gió se”, từ nhỏ hẹp như con ngõ chuyển sang những nét hữu hình, cụ thể với một không gian vừa dài rộng, vừa xa vời.

Trên nền trời xanh còn có hình ảnh một “đám mây mùa hạ / vắt nửa mình sang thu" diệu kì như chiếc cầu vồng rực rỡ sắc màu. “Đám mây” ở đây thực chất là đám mây mùa thu vẫn còn vương vấn một chút nắng hạ nên từ “vắt” được nhà thơ nói đến sinh động, có một chút gì đó bình dị, bởi lẽ dùng từ này là muốn nói rằng “đám mây” như một dải lụa mềm mại tạo nên chiếc cầu nổi giữa nhịp thời gian. Nhà thơ có liên tưởng thật thơ mộng, từ đó làm cho bầu trời trở nên kì diệu, trong lành hơn. Hãy tưởng tưởng xem, chút nắng vàng mùa hạ vẫn còn rụt rè sót lại ở một ngóc ngách nào đó trong bức tranh giao mùa, mùa thu êm đềm vừa chợt đến, khiến màu sắc có hơi trầm xuống, lại thêm đám mây ngỡ ngàng xuất hiện như vừa bước qua một không gian tĩnh lặng hơn. Hữu Thỉnh làm cho chúng ta cảm thấy vừa ảo lại có nét thực, vừa rõ ràng nhưng lại mơ hồ một cách kỳ lạ. Hình ảnh đám mây là một phát hiện rất mới lạ và độc đáo của Hữu Thĩnh. Nhưng trong thực tế không hề có đám mây nào như thế vì mắt thường đâu dễ nhìn thấy được sự phân chia rạch ròi của đám mây mùa hạ và thu. Đó chỉ là một sự liên tưởng thú vị - một hình ảnh đầy chất thơ. Thời khắc giao mùa được sáng tạo từ một hồn thơ tinh tế, nhạy cảm, độc đáo không những mang đến cho người đọc…mà còn đọng lại những nỗi bâng khuâng trước vẻ dịu dàng êm mát của mùa thu. Bức tranh chuyển mùa vì thế càng trở nên sinh động, giàu sắc gợi cảm, khiến cho người đọc cảm nhận sâu sắc cả về không gian và thời gian chuyển mùa thật là đẹp, thật là khêu gợi hồn thơ.

Có thể nói, Sang thu là một cuộc rượt đuổi cảm xúc của nhà thơ và thiên nhiên đất trời. Tác giả đã cảm nhận được và đã phác họa ra những hình ảnh giao mùa đơn giản mà xinh đẹp đó vào bài thơ và đã gợi lên được những hình ảnh thiên nhiên làng quê Bắc Bộ xinh đẹp khi thu sang. Bằng sự sáng tạo, những hình ảnh được miêu tả lại một cách mới mẻ mà lại gợi tả được những nét đặc trưng của khoảnh khắc mùa thu khi giao mùa.Với thể thơ 5 chữ, cách ngắt nhịp linh hoạt, giọng điệu tự nhiên nhẹ nhàng, ngôn ngữ hình ảnh trong sáng, giàu sức biểu cảm, sử dụng sáng tạo các biện pháp tu từnhư ẩn dụ, nhân hóa và sử dụng từ láy đã thể hiện được những cảm nhận, cảm xúc tinh tế của nhà thơ và sự biến đổi của đất trời từ cuối mùa hạ sang đầu mùa thu. “Sang thu” của Hữu Thỉnh là một thi phẩm hay viết về mùa thu trong văn học Việt Nam.

Thiên nhiên vũ trụ cũng là nguồn cảm hứng dồi dào trong thơ Huy Cận. Trong bài thơ Đoàn thuyền đánh cá, Huy Cận mang hồn thơ của một sức sống mới, sự hồi sinh của một tâm hồn và một đất nước. Bài thơ khắc họa nhiều hình ảnh đẹp tráng lệ, thể hiện sự hài hòa giữa thiên nhiên và con người lao động, bộc lộ niềm vui, niềm tự hào của nhà thơ trước đất nước và cuộc sống.  Bên cạnh bức tranh lao động đầy hăng say, khỏe khoắn của những người dân chài, Huy Cận còn thật tinh tế khi dựng lên bức tranh thiên nhiên huy hoàng, tráng lệ của thiên nhiên nơi biển cả bao la.

Thiên nhiên được miêu tả theo trình tự vận động từ hoàng hôn đến minh bình với khung cảnh có sự biến đổi linh hoạt. Cảnh tưởng như ngưng vận động sau một ngày dài, nhưng thực tế lại liên tục vận động, khung cảnh thiên nhiên vì thế mà ngập tràn sức sống.

Không gian trong thơ là biển cả, thời hạn là buổi hoàng hôn:

Mặt trời xuống biển như hòn lửa

Sóng đã cài then đêm sập cửa

Nhà thơ đã dùng biện pháp nghệ thuật so sánh “Mặt trời xuống biển ”được ví với “hòn lửa ”. giúp người đọc hình dung thấy hình dạng tròn đầy và màu sắc rực đỏ của mặt trời. Màu  sắc rực đỏ ấy lấp lánh trong sắc xanh của biển biếc. Cả mặt biển lúc này ngời lên một vẻ đẹp tráng lệ kì vĩ. Không những vậy, nhà thơ còn liên tưởng vũ trụ lúc này là một ngôi nhà lớn có màn đêm là cánh cửa đang sập xuống còn sóng biển là then cài ngang. Phép nhân hoá trong câu thơ không chỉ làm cho lời thơ sinh động mà còn biểu đạt được thiên nhiên lúc này rất gần gũi với con người. Nó chẳng khác gì một ngôi nhà của những ngư dân vùng biển đang bước vào trạng thái nghỉ ngơi.

Thiên nhiên biển khơi còn là những đêm trăng đẹp:

Thuyền ta lái gió với buồm trăng

Lớt giữa mây cao với biển bằng.

Đó là một không gian biển khơi mêng mông thoáng đạt, có  gíó  lồng lộng thổi, có ánh sáng vằng vặc của vầng trăng. Từng đám mây trôi nhè nhẹ trên tầng không, có mặt biển biếc. Màn đêm được nhân hoá trở thành một sinh thể sống: “Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long”. Thực chất đó là cảnh sáng trên mặt biển dập dềnh lúc lên cao, lúc xuống thấp rất sinh động. In xuống mặt biển lúc này là cả một bầu trời sao. Phép ẩn dụ khi miêu tả giúp cho người đọc hình dung, thấy mặt biển lúc này ngời sáng lấp lánh ánh vàng, ánh bạc của trăng, của sao. Mặt biển trở lên lung linh, huyền ảo, dạt dà , sống động hẳn lên. Quả thật, cảnh thiên nhiên biển đêm rực rỡ sắc màu như một bức tranh.

 

Thiên nhiên trong mắt nhìn của tác giả là hình ảnh từng đàn cá tung tăng bơi lội.

Cá nhụ cá chim cùng cá đé

Cá song lấp lánh đuốc đen hồng

Cài đuôi em quẫy trăng vàng choé.

Với phép liệt kê , nhà thơ đã kể ra tên từng loại cá quý của biển Đông. Phải chăng thiên nhiên giàu có phong phú đang ban tặng những tài sản vô giá cho cuộc sống của con người. Ngòi bút của nhà thơ đã dừng lại để  miêu tả vẻ đẹp  loài cá song, những chấm đen hồng của loài cá lấp lánh trong làn nước biển khiến cho cử động của cá càng trở lên mềm mại  uyển chuyển giống như múa. Đuôi cá quẫy lên làm tung những giọt nước lấp lánh ánh vàng của trăng, của sao. Nhà thơ đã cất lên tiếng gọi “em ”trìu mến dành cho cá song. Ẩn sau những lời thơ ấy là niềm tự hào, yêu mến của nhà thơ về sự giầu đẹp của thiên nhiên .

Bởi thế thiên nhiên qua cách nhìn của nhà thơ lại càng trở lên đẹp hơn khi ánh bình minh lên trên biển cả:                                   

Mặt trời đội biển nhô màu mới

Mắt cá huy hoàng muôn dặm khơi.

Thiên nhiên “đội biển” từ từ nhô lên ở phía biển khơi. Ánh hồng của nó lấp lánh  trong sắc xanh biển biếc. Cả mặt biển ngời lên ánh hồng tơi mới. Ánh Hồng ấy còn tràn xuống khoang thuyền, lấp lánh trong mắt cá.

Thiên nhiên không chỉ đẹp một vẻ đẹp rực rỡ mà còn biểu tượng cho cuộc sống ấm no, đủ đầy. Bằng bút pháp lãng mạn đan xen với hiện thực, nhà thơ đã khắc hoạ thành công bức tranh về thiên nhiên nơi biển cả. Những hình ảnh thiên nhiên hiện ra vừa bình dị vừa đẹp tươi thơ mộng, giàu có, màu sắc rực rỡ. Qua đó ta thấy được sự quan  sát tinh tế, sự liên tưởng phong phú và tình yêu thiên nhiên tha thiết của tâm hồn thơ Huy Cận.

Hai bài thơ thật đẹp biết bao bởi những áng thơ giàu sức gợi, đẫm chất trữ tình. Đọc hai bài thơ Đoành thuyền đánh cá cảu Huy Cận và Sang thu của Hữu Thỉnh chúng ta thấy được khả năng quan sát, miêu tả cảnh vật thiên nhiên thật sinh động, tỉ mỉ, kĩ càng của các nhà thơ. Bức tranh thiên nhiên như một sinh vật sống, sinh tươi đầy sức sống, cuốn hút lạ thường. Thông qua hai bài thơ, người đọc có thể thấy được cảnh săc thiên nhiên nước ta tươi đẹp quá, mỗi vùng đất lại có những nét đẹp riêng, được miêu tả bằng cách nhìn riêng nhưng nổi bật hơn cả là sự tự nhiên, đầy sức sống. Ta cảm nhận rõ tình yêu thiên nhiên, niềm rung cảm trước vẻ đẹp của thiên nhiên và tình yêu cuộc sống, yêu con người của hồn thơ Huy Cận, Hữu Thỉnh. Từng bức tranh còn thể hiện những thông điệp, ý nghĩa mà Huy Cận và Hữu Thỉnh khéo léo gửi gắm. Đó là một niềm khát khao, hi vọng, chủ động vươn tới tương lai hào hùng, bất khuất, hiên ngang phía trước chứ không phải mòn mỏi, chờ đợi, lầm lụi ngóng về một sự ban phát niềm tin hư ảo nào khác. Tự do phải do chính tay ta kiến tạo nên mới là tự do lâu dài, bền vững nhất. Đó là thách thức, vấp ngã đưa lại những kinh nghiệm sống quý quý giá, sự trải nghiệm theo gian luôn là điều tất yếu, để giờ đây khi trưởng thành rồi con người sau bao sấm chớp, bao giông bão cũng không còn sợ, cũng vẫn bình thản đón nhận tất cả như một lẽ tự nhiên. Biến cố cuộc đời chẳng thể khiến lòng người chùn chân, lùi bước.

Hai bài thơ Bài thơ mang đến cho ta những suy ngẫm về cuộc đời, về tuổi trẻ và thời gian, để từ đó thêm ý thức hơn về lẽ sống đời mình, thêm yêu và trân trọng mọi vẻ đẹp của đất nước, của thiên nhiên. Hai bài thơ  thơ là một nguồn sức mạnh truyền cảm hứng cho tình yêu của ta đối với đất trời, đối với thiên nhiên. Nhờ Huy Cận và Hữu Thỉnh mà ta đã tiếp nhận được ý thức sâu sắc về trách nhiệm của con người đối với chính bản thân, với quê hương đất nước.

 

 

Thứ Ba, 26 tháng 4, 2022

Phân tích 2 khổ thơ cuối Viếng lăng Bác

 “Bác đã đi rồi sao Bác ơi!

Mùa thu đang đẹp nắng xanh trời.” (Tố Hữu)

“Bác Hồ – người là niềm tin thiết tha nhất trong lòng dân và trong trái tim nhân loại”,  nên sự ra đi của vị lãnh tụ vĩ đại là một mất mát lớn đối với tất cả nhân dân Việt Nam. Có không ít những lời thơ thể hiện niềm thương xót xúc động trước sự ra đi của Bác. Tuy một năm sau ngày đất nước ta hoàn toàn thống nhất Viễn Phương mới có cơ hội ra thăm lăng Bác nhưng ông cũng không kìm nén được dòng cảm xúc của mình. Sự xót xa, thương nhớ ấy được tác giả bộc lộ qua bài thơ “Viếng lăng Bác”. Đặc biệt là có những dòng thơ dạt dào đầy da diết giây phút nghẹn ngào trong xúc cảm của tác giả khi lần đầu thấy di hài Bác:

Bác nằm trong giấc ngủ bình yên

Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền

Vẫn biết trời xanh là mãi mãi

Mà sao nghe nhói ở trong tim!

 

Mai về miền Nam thương trào nước mắt

Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác

Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây

Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.

Đã từ rất lâu, cũng như các chiến sĩ và đồng bào miền Nam xa xôi, Viễn Phương luôn khao khát được viếng thăm lăng Bác, được trở về với người cha già vĩ đại. Nhưng cuộc chiến kéo dài, kẻ thù còn ngoan cố nên đến sau ngày đất nước giải phóng, ông mới có dịp thực hiện ước nguyện ấy. Tác giả đến với lăng Bác trong tâm trạng bùi ngùi, vừa cảm thương, tiếc nuối vì người đã ra đi mãi mãi vừa cảm thấy tự hào, thỏa nguyện vì đã được trở về với tinh thần vĩ đại của dân tộc, trở về với nguồn sức mạnh thiêng liêng.

Bước vào trong lăng, khung cảnh và không khí như ngưng kết cả thời gian, không gian. Hình ảnh thơ đã diễn tả thật chính xác, tinh tế sự yên tĩnh, trang nghiêm cùng ánh sáng dịu nhẹ, trong trẻo của không gian trong lăng Bác:

Bác nằm trong giấc ngủ bình yên

Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền

Vẫn biết trời xanh là mãi mãi

Mà sao nghe nhói ở trong tim!

Bác xuất hiện trong hình ảnh đã yên giấc. Canh giấc cho Bác là “vầng trăng sáng dịu hiền”. Ánh sáng của những ngọn đèn mờ ảo trong lăng gợi nhà thơ liên tưởng thú vị: ánh trăng. Tác giả thể hiện sự am hiểu của mình về sự liên tưởng kì lạ đó. Bởi trăng với Bác từng là người bạn tri âm, tri kỉ. Hình ảnh “vầng trăng sáng dịu hiền” gợi cho chúng ta nghĩ đến tâm hồn, cách sống cao đẹp, thanh cao, sáng trong của Bác và những vần thơ tràn ngập ánh trăng của Người. Người bạn “trăng” đã từng vào thơ Bác trong nhà lao, trên chiến trận, giờ đây cũng đến để giữ giấc ngủ ngàn thu cho Người. Trăng hóa thân thành người lính canh gác để Bác có thể yên tâm ngủ ngon và Bác không cảm thấy đơn độc. Ngắm giấc ngủ bình yên ấy, đột nhiên ta cũng cảm thấy thư thái đến lạ thường. Cả cuộc đời Người đều dành hết cho dân cho nước, luôn hi sinh bản thân mình, ngay cả lúc ngủ là khoảng thời gian mỗi người có thể dành riêng cho bản thân để lấy lại sức lực sau mỗi ngày làm việc nhưng với Bác, phút giây riêng tư ấy Người cũng không màng đến mà dành cho sự nghiệp cứu quốc và thực chất thì “Trọn cuộc đời Bác có ngủ yên đâu”. Sau bao nhiêu năm đau đáu, khắc khoải vì nỗi đau của dân tộc, sau bao nhiêu năm “trằn trọc băn khoăn, giấc chẳng thành” vì dân tộc đang rên xiết trước gót giày xâm lược tàn bạo của bọn thực dân, đế quốc, đến cuối cùng, Bác có thể chợp mắt. Với hình ảnh vầng trăng sáng dịu hiền dụng ý của nhà thơ muốn tạo ra một hệ thống hình ảnh vũ trụ để ví với Bác. Người có lúc như mặt trời rực rỡ ấm áp, có lúc dịu hiền như ánh trăng rằm. Bác của chúng ta là như vậy. Mặt trời, ánh trăng, trời xanh đó là những cái mênh mông, bao la bất diệt của vũ trụ được nhà thơ ví với cái bao la, rộng lớn trong tình thương của Bác. Đó cũng là biểu hiện vĩ đại, rực rỡ cao siêu của con người và sự nghiệp của Bác.

Càng kính yêu Bác, nhà thơ càng đau xót trước sự ra đi của Người:

Vẫn biết trời xanh là mãi mãi

Mà sao nghe nhói ở trong tim.

Niềm xúc động thành kính và nỗi đau xót của nhà thơ đã được thể hiện rất chân thành và sâu sắc.Tâm trạng xúc động, hụt hẫng của nhà thơ được biểu hiện qua hình ảnh ẩn dụ “trời xanh”. Cùng với thời gian, những điều đó sẽ tồn tại mãi mãi như “trời xanh” và như những gì đã, đang và sẽ còn mãi trên đời. Như vậy, dẫu sự thật là Bác đã ra đi nhưng đối với người ở lại, Bác Hồ cùng với sự nghiệp, tên tuổi, công lao và tình thương của Bác sẽ luôn ở lại trong trái tim yêu thương, trong nỗi lòng tưởng nhớ của muôn người, muôn loài. Viễn Phương đã rất khéo léo tìm cách xoa dịu đi những tổn thất to lớn trong lòng mỗi người trước sự ra đi của Bác khi nhắc đến sự bất diệt của Người cùng với sông núi, cỏ cây. Tuy nhiên dù có cố gắng đến cách mấy, có nỗ lực đến nhường nào thì có một sự thật ở lại không thể che giấu là:

Mà sao nghe nhói ở trong tim.

Câu thơ bật lên như tiếng nấc nghẹn ngào thể hiện nỗi đau cố kìm nén nhưng trở nên bất lực. Ở những dòng thơ trên, tác giả cố gắng không nhắc đến đau đớn, xót xa như thế nào thì giờ đây những đau đớn, xót xa ấy lại cứ tuôn trào, chảy trôi. Cảm giác “nhói trong tim” vừa gợi ý rất thực tế, nhưng lại cũng vừa biểu lộ nỗi xót xa, thương tiếc đầy thành kính. Chỉ với một từ “nhói” mà bao nhiêu cảm xúc dồn nén, kìm giữ như vỡ ra. Tác giả tự cảm thấy đớn đau, mất mát ở tận trong đáy sâu tâm hồn mình, nỗi đau uất nghẹn tột cùng không nói thành lời. Đó không chỉ là nỗi đau riêng tác giả mà của cả muôn triệu trái tim con người Việt Nam. Đây là cái giật mình thảng thốt, một sự mâu thuẫn giữa lí trí và tình cảm. Lí trí tin rằng Bác vẫn còn sống mãi cùng non sông đất nước, như trời xanh còn mãi trên đầu: “Bác sống như trời đất của ta” (Tố Hữu). Nhưng trái tim lại không thể không đau nhói, xót xa vì sự ra đi của Bác. Đó là nỗi đau oà ra từ đáy sâu của trái tim: Bác mất rồi! Bác không thể gặp mặt với những đứa con miền Nam mà Người hằng chờ mong. Khổ thơ  khép lại nghẹn ngào. Dẫu biết Bác mãi mãi còn đó nhưng nhưng giờ người không thể chứng kiến nền độc lập của dân tộc và cùng nhận dân tận hưởng nền hòa bình. Nghĩ về điều đó, nhà thơ tuôn trào nước mắt. Với giọng điệu tha thiết, nghẹn ngào, Viễn Phương đã cho thấy nỗi lòng đau xót, thương tiếc khôn cùng trước sự ra đi của vị lãnh tụ kính yêu. Viễn Phương nói hộ tấm lòng tiếc thương của biết bao người. Những vần thơ như nghẹn lại, rưng rưng mà cảm động nhưng vẫn không kém phần trang trọng, chỉnh chu. Bác vẫn sống trong lòng mỗi chúng ta, bởi “trời xanh là mãi mãi”.

Thương yêu Bác thật nhiều mà gần gũi chẳng được bao nhiêu nên phút giây chia tay thật bùi ngùi lưu luyến. Nghĩ đến ngày mai về miền Nam xa Bác, xa Hà Nội, tình cảm của nhà thơ không kìm nén, ẩn giấu trong lòng mà được bộc lộ thể hiện ra ngoài:

Mai về miền Nam thương trào nước mắt

Muốn làm con chim hót quanh Bác

Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây

Muốn làm cây tre chung hiếu chốn này.

Giờ chỉ còn lại những giọt nước mắt của người con viếng muộn: Mai về miền Nam thương trào nước mắt. Câu thơ như một lời giã biệt. Lời nói giản dị diễn tả tình cảm sâu lắng, thiết tha. Từ “trào” diễn tả cảm xúc thật mãnh liệt, luyến tiếc, bịn rịn không muốn xa nơi Bác nghỉ. Đó là không chỉ là tâm trạng của tác giả mà còn là của muôn triệu trái tim khác. Được gần Bác dù chỉ trong giây phút nhưng không bao giờ ta muốn xa Bác bởi Người ấm áp quá, rộng lớn quá.

Tiếc nuối có, thương nhớ có, bởi vậy mà nhân vật trữ tình giã biệt mà vẫn khắc khoải bịn rịn, bày tỏ ước nguyện cá nhân:

Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác

Muốn làm đoá hoa tỏa hương đâu đây

Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này…

Điệp ngữ: “Muốn Làm” vận dụng như một điệp khúc, lại được dồn đặt lên đầu ba câu thơ liên tiếp, các câu thơ đã trở thành đỉnh cao của mạch cảm xúc, giúp tác giả dồn trọn mọi tâm tư tình cảm yêu thương, kính phục dành cho Bác.Chính vì yêu thương, kính phục, thấy xót xa, bịn rịn không nỡ rời đi, nhà thơ đã ước nguyện làm “con chim” yêu thương “hót quanh lăng”, muốn làm “đóa hoa tỏa hương” tỏa hương quanh lăng, muốn “làm cây tre” trung hiếu trọn đời yêu thương tôn kính vị cha già của nhân dân. Tất cả đều là những sự vật đời thường giản dị, gắn liền với thiên nhiên gần gũi. Muốn làm con chim để để mang tiếng hót vui vẻ đến với Bác, làm đóa hoa để tỏa hương tô điểm cuộc đời, đặc biệt là cây tre gần gũi ẩn dụ cho vẻ đẹp thủy chung, son sắt của người Việt. Hình ảnh hàng tre quanh lăng Bác được lặp ở câu thơ cuối như mang thêm nghĩa mới, tạo ấn tượng sâu sắc, làm dòng cảm xúc được trọn vẹn.“Cây tre trung hiếu” là hình ảnh ẩn dụ thể hiện lòng kính yêu, sự trung thành vô hạn với Bác, nguyện mãi mãi đi theo con đường cách mạng mà Người đã đưa đường chỉ lối. Đó là lời hứa thủy chung của riêng nhà thơ và cũng là ý nguyện của đồng miền Nam, của mỗi chúng ta nói chung với Bác. Hình ảnh cây tre có tính chất tượng trưng một lần nữa nhắc lại khiến bài thơ có kết cấu đầu cuối tương ứng như một lời thề sắt son của nhà thơ nói riêng, nhân dân Việt Nam nói chung nguyện đi theo con đường của Bác. Mai trở về miền Nam nhưng tấm lòng chân thành đã được gửi lại trọn vẹn nơi lăng Bác. Ba câu thơ khuyết chủ ngữ ấy như là lời thay mặt cho triệu triệu đồng bào Việt Nam bày tỏ cảm xúc thành kính, tha thiết tới lãnh tụ. Tấm long của những người đã một lần được về thăm lăng, những người chưa một lần được đến thăm lăng nhưng tất cả muôn triệu tấm lòng luôn hướng về Bác kính yêu. Dù Bác đã ra đi nhưng Bác sẽ còn sống mãi trong trái tim của Viễn Phương nói riêng, nhân dân Việt Nam ta nói chung. Ước nguyện cao đẹp được hóa thân để được bên Bác cũng là ước nguyện đẹp nhất, chất chứa trọn vẹn tấm lòng trân quý của nhân dân ta. Khổ thơ diễn tả nỗi niềm riêng nhưng mang tình cảm khái quát chung. Tác giả đã viết một loạt câu thơ không chủ ngữ, nhấn mạnh ba lần điệp ngữ muốn làm như một khát vọng khôn ngui. Khát vọng của những người đã một lần được về thăm lăng, những người chưa một lần được đến thăm lăng mà tấm lòng luôn hướng về Bác kính yêu. Dù Bác đã ra đi nhưng Bác sẽ còn sống mãi trong trái tim của Viễn Phương nói riêng, nhân dân Việt Nam ta nói chung. Ước nguyện cao đẹp được hóa thân để được bên Bác cũng là ước nguyện đẹp nhất, chất chứa trọn vẹn tấm lòng trân quý của nhân dân ta.

  Viếng lăng Bác là một trong những bài thơ hay nhất về Bác. Làm nên sức sống của thi phẩm là hệ thống hình ảnh ẩn dụ giàu ý nghĩa và đặc biệt là dòng cảm xúc mãnh liệt trào dâng khắp các dòng thơ. Viễn Phương đã cho thấy sự khéo léo của mình trong việc sử dụng thể thơ, từ ngữ, nhịp điệu. Thể thơ tám chữ và sự cân đối hài hòa của bốn khổ thơ trong bài cùng với một giọng thơ từ tốn, chậm rãi, nghiêm trang đã giúp cho nhà thơ thể hiện trọn vẹn cảm xúc của mình. Bài thơ là tiếng lòng không chỉ của Viễn Phương, của người dân miền Nam mà của tất cả những người yêu kính Chủ tịch Hồ Chí Minh. Chính điều đó đã gợi lên trong lòng người một niềm xúc động lớn lao. Nó sẽ còn ngân vang mãi trong trái tim mỗi chúng ta, như sự vĩnh cửu, trường tồn của Bác Hồ muôn vàn kính yêu.

Đến với Viếng lăng Bác của Viễn Phương, ta đã cảm nhận được nỗi nhớ thương vô cùng sâu sắc, thiết tha của người con miền Nam lần đầu vào lăng viếng Bác, đã cảm nhận rất rõ niềm thành kính, biết ơn, tự hào, niềm thương tiếc vô hạn của trái tim nhà thơ hay là trái tim của cả dân tộc ta dành cho Bác bởi:

 Người là Cha, là Bác, là Anh

Quả tim lớn lọc trăm dòng máu nhỏ. (Tố Hữu – Sáng tháng năm)

Chính là điều góp phần làm nên giá trị của bài thơ và khiến cho nó trở thành dấu ấn sâu đậm trong lòng độc giả khi tìm đọc những sáng tác về vị lãnh tụ kính yêu.

 

Phân tích khổ 3,4 bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận _ Liên hệ giá trị tình yêu lao động

 


Có ai đó từng cho rằng: một trong những nguồn gốc quan trọng cùa thơ ca chính là đời sống lao động của nhân dân. Điều đó hẳn đúng với bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận. Bài thơ thực sự cất lên từ nhịp sống lao động hăng say, khoáng đạt của những người dân vùng chài. Bài thơ diễn tả một chuyến đi khơi của đoàn thuyền đánh cá; là một khúc ca lao động tập thể, khúc ca về vẻ đẹp của thiên nhiên; là niềm vui, niềm ngưỡng mộ của tác giả trước con người và cuộc sống mới. Qua bài thơ, người đọc cảm nhận được vẻ đẹp và mối giao hòa giữa con người và thiên nhiên trên cái nền lộng lẫy, tráng lệ của vũ trụ biển cả. Đoạn thơ sau trong bài thơ tiêu biểu cho điều đó:

Thuyền ta lái gió với buồm trăng

Lướt giữa mây cao với biển bằng,

Ra đậu dặm xa dò bụng biển,

Dàn đan thế trận lưới vây giăng.

 

Cá nhụ cá chim cùng cá đé,

Cá song lấp lánh đuốc đen hồng,

Cái đuôi em quẫy trăng vàng choé,

Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long.

Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” được sáng tác trong chuyến đi công tác của Huy Cận tại vùng mỏ Hòn Gai, Quảng Ninh năm 1958 và được bắt nguồn từ cảm hứng ngợi ca công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội của miền Bắc tự do độc lập. Với ý nghĩa đó, bài thơ "Đoàn thuyền đánh cá" là khúc tráng ca, ca ngợi con người lao động với tinh thần làm chủ và niềm vui, niềm tin trước cuộc sống mới trong những năm đầu xây dựng đất nước.

Mang trong mình cả phong vị cổ điển nhưng lại rất hiện đại ở những liên tưởng bất ngờ, cảm hứng vũ trụ hoà cùng dòng cảm hứng lãng mạn, bài thơ mở ra một viễn cảnh thật huy hoàng và tràn đầy niềm tin vào một tương lai nhất định nở hoa. Hai khổ đầu bài thơ là hình ảnh hoàng hôn trên biển và những con thuyền đánh cá ra khơi. Người dân chài đến với biển lớn bằng một tinh thần lao động hăng say và tâm hồn khỏe khoắn “Câu hát căng buồm cùng gió khơi”. Khổ 3,4 nổi bật với vẻ đẹp tráng lệ của biển khơi và vẻ đẹp khỏe khoắn, mạnh mẽ của đoàn thuyền, của con người trong lao động. Tất cả được viết lên bằng trí tưởng tượng mãnh liệt,bằng niềm hứng khởi bay bổng và bút pháp tạo hình đầy sáng tạo.

Trên cái nền hùng vĩ, mĩ lệ, cảnh đánh cá trên biển vào đêm trăng hiện lên thật đẹp. Đoàn thuyền đang ở giữa mênh mông của sóng nước, giữa mênh mông của không gian vũ trụ rộng lớn bao la. Hình ảnh đoàn thuyền lướt nhanh giữa trời cao biển rộng có cái lâng lâng, sảng khoái lạ thường:

Thuyền ta lái gió với buồm trăng

Lướt giữa mây cao với biển bằng.

Ra đậu dặm xa dò bụng biển

Dàn đan thế trận lưới vây giăng.

Câu thơ tả thực đậm chất lãng mạn, biển cả bao la hiền hòa. Hai tiếng “thuyền ta” vang lên một cách đầy kiêu hãnh, tự hào. Con thuyền đánh cá vốn nhỏ bé trước biển trời bao la, đã trở thành con thuyền kì vĩ, lớn lao mang tầm vóc vũ trụ. Bằng những hình ảnh “lái gió, buồm trăng, mây cao, biển bằng”, Huy Cận đã biến những con thuyền vốn bình thường, gần gũi trở lên con thuyền kì vĩ của thiên nhiên. Đoàn thuyền lướt đi trong đêm không phải bằng sức mạnh của con người mà bằng sức mạnh của câu hát hoà cùng sức mạnh của gió, cộng hưởng sức mạnh của trăng. Thuyền có gió làm lái, có trăng làm buồm, lướt giữa mây cao và biển bằng, giữa mây trời và sóng nước với tất cả sức mạnh chinh phục biển cả,chinh phục thiên nhiên. Biển và bầu trời đêm đã hòa làm một. Chủ nhân con thuyền – những người lao động cũng trở nên lồng lộng giữa biển trời trong tư thế, tầm vóc làm chủ cuộc đời. Con người đã chủ động, mạnh mẽ hòa nhập với kích thước rộng lớn của thiên nhiên, vũ trụ. Con người mang tư thế hiên ngang, sánh ngang tầm, làm chủ thiên nhiên và vũ trụ, biến thiên nhiên thành người bạn của mình.Không chỉ vậy, họ còn nổi bật ở vị trí trung tâm: ra tận khơi xa dò bụng biển, tìm luồng cá, dàn đan thế trận, bủa lưới vây giăng.

Giữa không gian thâm sâu khó lường của biển cả mênh mang, đoàn thuyền đang thăm dò “bụng biển”. “Dò bụng biển” - phải chăng đây là hành động dò tìm, kiếm tìm những đàn cá lớn giữa biển cả bao la? Đến khi “” kiếm được đàn cá lớn, giữa cái mênh mông ấy, đoàn thuyền “dàn đan thế trận lưới vây giăng”. Hình ảnh thơ thật lãng mạn biết chừng nào! Chất lãng mạn bao trùm cả bức tranh lao động biến công việc nặng nhọc trên biển thành một cuộc chiến đấu đầy hăm hở, với khí thế đua tranh. Giữa không gian bao la ấy, con người thật nhỏ bé nhưng cũng thật kiên cường. Họ đang chiến đấu cùng với thiên nhiên bằng trí tuệ và năng lực nghề nghiệp của mình để mang về những thành quả lớn. Họ những dân chài mang theo cả sức trẻ, sức khoẻ, mang theo cả sự tìm tòi, khám phá để tung phá thế giới bí hiểm của thiên nhiên. Công việc của họ vất vả, gian khổ như thế, nhưng họ vẫn cất cao tiếng hát yêu đời, lạc quan, biến một công việc khó khăn trở thành một công việc đầy ắp tiếng cười và niềm vui hạnh phúc. Trên nền thiên nhiên hùng vĩ, con người lao động hiện lên với vẻ đẹp thật rạng rỡ. Vẻ đẹp của họ hòa quyện cùng vẻ đẹp của thiên nhiên tạo nên bức tranh lao động thật hào hùng, thật màu sắc, vừa hiện thực lại cũng thật lãng mạn biết bao. Có thể nói, lòng tin yêu thiên nhiên, con người và cảm hứng lãng mạn bay bổng đã giúp nhà thơ xây dựng được một hình ảnh thơ tuyệt đẹp, vừa hoành tráng, lại vừa thơ mộng.

Bức tranh lao động được điểm tô bằng vẻ đẹp của thiên nhiên. Cái nhìn của nhà thơ đối với biển và cá cũng có những sáng tạo bất ngờ, độc đáo:

Cá nhụ cá chim cùng cá đé

Cá song lấp lánh đuốc đen hồng.

Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe

Thủ pháp liệt kê “cá nhụ, cá chim, cá đé, cá song” kết hợp với sự phối sắc tài tình qua việc sử dụng các tính từ chỉ màu sắc “đen hồng”,”vàng chóe”… đã tạo nên một bức tranh sơn mài nhiều màu sắc, ánh sáng, lung linh huyền ảo như trong câu chuyện cổ tích nói về xứ sở thần tiên. Mỗi loài cá là một kiểu dáng, một màu sắc: “Cá nhụ cá chim cùng cá đé/Cá song lấp lánh đuốc đen hồng” làm nên sự giàu đẹp của biển cả quê hương. Như có một hội rước đuốc trong lòng biển đêm sâu thẳm. Mỗi khi “cái đuôi em quẫy”, trăng như vàng hơn, rực rỡ hơn, biển cả như sống động hẳn lên. Những gam sắc ánh sáng hoà cùng bóng tối của màn đêm tạo ra bức tranh sơn mài lóng lánh sắc màu. Trong niềm xúc động, nhà thơ như thấy đâu đây hình ảnh những nàng tiên cá thần kì và do đó, Huy Cận đã viết một câu thơ thật thi vị, hữu tình. Người xưa thường nói “Thi trung hữu họa” – nghĩa là trong thơ có hình có ảnh. Quả đúng như thế, mỗi loài cá ở đây là bức kí họa thần tình. Chúng đâu chỉ là sản phẩm vô tri được đánh bắt bởi bàn tay con người. Với họ - những người ngư dân này – cá là bạn, là “em”, là niềm cảm hứng cho con người trong lao động, và cũng chính là đối tượng thẩm mĩ cho thi ca. Cách tả như vậy giúp ta cảm nhận được cái giàu và đẹp của biển , vì tất cả ánh sáng, màu sắc đều của cá và do cá tạo nên.

Cảnh đẹp không chỉ ở màu sắc, ánh sáng, mà còn ở âm thanh.Nhìn bầy cá bơi lội, nhà thơ lắng nghe tiếng sóng vỗ rì rầm:

Đêm thở: Sao lùa nước Hạ Long.

Bằng nghệ thuật ẩn dụ kết hợp nhân hóa, biển cả như một sinh thể sống động. Tiếng sóng vỗ dạt dào dâng cao hạ thấp là nhịp thở trong đêm của biển. Thế nhưng nhà thơ lại viết “Đêm thở:sao lùa nước Hạ Long”. Thật ra, là sóng biển đu đưa rì rào va đập vào mạn thuyền. Trăng, sao phản chiếu ánh sáng xuống nước biển, mỗi khi sóng vỗ nhịp tưởng như có bàn tay của sao trời đang“lùa nước Hạ Long”. Đó là sự độc đáo, mới lạ trong sáng tạo nghệ thuật. Có thể nói, bằng tâm hồn hết sức tinh tế, tác giả đã cảm nhận được hơi thở của thiên nhiên, vũ trụ. Những miền, những chiều không gian khác nhau nhưng lại được Huy Cận nối lại thành một cách liền mạch. Không gian của đêm, của biển, của sao trời và ánh trăng đã nối thành một điểm và ở giữa điểm đó là hình ảnh của những con người lao động đang miệt mài với công việc của mình. Phải chăng chính không khí say sưa xây dựng đất nước của những năm đầu khôi phục và phát triển kinh tế là cơ sở hiện thực của những hình ảnh lãng mạn trên. Lao động trong một khung cảnh nên thơ như vậy quả là thú vị.

Chỉ với hai khổ thơ ngắn trong bài thơ Đoàn thuyền đánh cá, người đọc cũng đủ thấy rõ tài năng của Huy Cận. Mang trong mình cả phong vị cổ điển nhưng lại rất hiện đại ở những liên tưởng bất ngờ, cảm hứng vũ trụ hoà cùng dòng cảm hứng lãng mạn, bài thơ mở ra một viễn cảnh thật huy hoàng và tràn đầy niềm tin vào một tương lai nhất định nở hoa. Bằng bút pháp hiện thực pha lẫn lãng mạn, ông đã tạo nên một bức tranh tổng hòa giữa thiên nhiên và con người lao động thật đẹp biết nhường nào. Cùng với đó, nghệ thuật miêu tả, so sánh, nhân hóa, phóng đại được Huy Cận sử dụng thật nhuần nhuyễn, góp phần tạo nên vẻ đẹp cho bức tranh tổng hòa. Đặc biệt là cách ngắt nhịp thơ độc đáo trong từng câu thơ đã tạo nên sắc thái rộn ràng, hào hứng. Nó đã thể hiện niềm cảm xúc dào dạt của ông trước cuộc sống mới của những người dân sau bao năm tháng chiến tranh.

Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận đã làm nổi bật niềm say mê, nhiệt tình lao động, tình yêu quê hương của những người dân chài. Họ cần cù, chăm chỉ hăng say để xây dựng cuộc sống ấm no hạnh phúc, lao động với niềm vui phấn khởi để thực hiện ước mơ được làm chủ cuộc đời mình. Họ chính là tấm gương cho chúng ta lao động, nỗ lực hết mình thực hiện ước mơ.

Nếu ước mơ không có lao động thì chắc chắn nó vẫn mãi là ước mơ mà thôi. Lao động sẽ giúp chúng ta tìm thấy giá trị của bản thân, định hướng được con đường phát triển cho bản thân vươn tới những đỉnh cao của trí tuệ, tri thức. Mỗi chúng ta đều có những ước mơ lớn lao hay những gì thân thuộc đều là cả một quá trình phấn đấu, vươn lên. không ngừng suy nghĩ và làm việc, chúng ta mới có thể góp phần xây dựng và phát hiện nó. Có tình yêu đối với một thứ gì đó sẽ giúp bạn hoàn thành tốt hơn và nhanh hơn. Dù bạn là ai, bạn làm công việc gì, thì tình yêu lao động cũng trở nên thiêng liêng, đặc biệt. Một kĩ sư, một người công nhân, một người lao công, giáo viên, bác sĩ… chúng ta đều cần vun đắp cho mình tình yêu lao động để tốt lên mỗi ngày. Lao động được hiểu là làm việc, cống hiến sức mình. Có tình yêu lao động, ta sẽ làm việc hiệu quả. Đồng thời, khi vun đắp cho mình một tình yêu lao động, con người sẽ có thêm động lực để phấn đấu trong công việc. Tình yêu lao động trở thành điểm tựa tinh thần, giúp con người có thể biết mình cần nỗ lực, phấn đấu như thế nào, ra sao. Không có tình yêu lao động, con người chỉ thấy cuộc sống của mình mệt mỏi, bế tắc. Không ai có thể sống thiếu tình yêu mà đặc biệt là tình yêu lao động. Tình yêu ấy trở thành hải đăng soi sáng, thúc giục con người phấn đấu, nỗ lực phát triển bản thân mình tốt lên mỗi ngày. Mục đích của cả đời người là được tôn trọng, được là người hữu ích, chính lao động sẽ giúp chúng ta, giúp hoàn thiện nhân cách con người. Lao động hăng say giúp con người ý thức được trách nhiệm làm người từ thành quả lao động. Chỉ có lao động mới có thể “nở hoa” nhân cách và mang lại sự giàu có cho con người từ tinh thần đến của cải vật chất. Mỗi chúng ta cần có những suy nghĩ tích cực hơn, phải sống có ước mơ và lao động một cách nhiệt tình, vui vẻ sáng tạo để hoàn thành ước mơ đó, có như thế cuộc sống mới trở nên ý nghĩa và tốt đẹp hơn cả.

Đọc bài thơ Đoàn thuyền đánh cá ta càng yêu hơn, trân trọng hơn vẻ đẹp của cảm hứng say sưa, niềm vui phơi phới trước cuộc đời và tình yêu thiên nhiên, con người thiết tha của nhà thơ. Huy Cận có những tưởng tượng mới mẻ, độc đáo để ca ngợi sự giàu đẹp của biển quê hương và đặc biệt là hình ảnh lao động được miêu tả với nhiều vẻ đẹp: sự sảng khoái của người làm chủ đất nước, nhiệt tình lao động với tất cả tình yêu biển, yêu nghề, yêu cuộc đời mới. Bài thơ là động lực giúp cho người lao động vươn lên chính mình, vươn lên trong cuộc sống, xây dựng cuốc sống tốt đẹp, hạnh phú và gặt hái được nhiều thành công. Vì vậy, học bài thơ ta càng thêm yêu đất nước và con người lao động Việt Nam.

 

Thứ Hai, 25 tháng 4, 2022

Anh thanh niên trong đoạn trích tâm sự về công việc _ Liên hệ ý thức trách nhiệm với công việc

 Cảm nhận của em về nhân vật anh thanh niên trong đoạn trích sau:

[…] Cháu ở đây có nhiệm vụ đo gió, đo mưa, đo nắng, tính mây, đo chấn động mặt đất, dự vào việc báo trước thời tiết hàng ngày, phục vụ sản xuất, phục vụ chiến đấu […] Cháu lấy những con số, mỗi ngày báo về “nhà” bằng máy bộ đàm bốn giờ, mười một giờ, bảy giờ tối, lại một giờ sáng. Bản báo ấy trong ngành gọi là “ốp”. Công việc nói chung dễ, chỉ cần chính xác. Gian khổ nhất là lần ghi và báo về lúc một giờ sáng. Rét, bác ạ. Ở đây có cả mưa tuyết đấy. Nửa đêm đang nằm trong chăn, nghe chuông đồng hồ chỉ muốn đưa tay tắt đi. Chui ra khỏi chăn, ngọn đèn bão vặn to đến cỡ nào vẫn thấy là không đủ sáng. Xách đèn ra vườn, gió tuyết và lặng im ở bên ngoài như chỉ chực đợi mình ra là ào ào xô tới. Cái lặng im lúc đó mới thật dễ sợ: nó như bị gió chặt ra từng khúc, mà gió giống những nhát chổi lớn muốn quét đi tất cả, ném vứt lung tung … Những lúc im lặng lạnh cóng mà lại hừng hực như cháy. Xong việc, trở vào, không thể nào ngủ được.

(Trích Lặng lẽ Sa Pa, Nguyễn Thành Long, Ngữ văn 9, tập I)

Sau đó liên hệ thực tế hay một tác phẩm khác để thấy rõ Vai trò của ý thức trách nhiệm trong công việc.

Bài làm

Gấp lại truyện ngắn “Lặng lẽ Sa pa ”của Nguyễn Thành Long lòng ta cứ xao xuyến vấn vương trước vẻ đẹp của những con người ,trước những tình cảm chân thành, nồng hậu trong một cuộc sống đầy tin yêu .Dù được miêu tả ít hay nhiều nhân vật nào của “Lặng lẽ Sa Pa” cũng hiện lên với nét cao quí đáng khâm phục.Trong đó anh thanh niên làm công tác khí tượng kiêm vật lý địa cầu đã để lại cho chúng ta nhiều ấn tượng khó phai mờ. Nguyễn Thành Long đã khắc họa thành công hình ảnh nhân vật anh thanh niên với nhiều vẻ đẹp phẩm chất tốt đẹp mà nổi bật nhất là lòng yêu nghề đến say mê, sự hết lòng với công việc thầm lặng nhưng có ích cho đất nước của anh. Ta có thể cảm nhận được tình yêu, niềm tự hào về công việc của mình qua những lời tâm sự của anh về công việc khoa học đơn điệu, tẻ nhạt đến mức nhàm chán của mình.

Truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” được tác giả công bố vào năm 1970 sau chuyến đi thực tế lên Lào Cai trong mùa hè. Truyện có cốt truyện khá đơn giản, xoay quanh cuộc gặp gỡ bất ngờ, ngắn ngủi giữa ba nhân vật là ông họa sĩ, cô kĩ sư trẻ và anh thanh niên làm công tác khí tượng ở Sa Pa. Tuy nhiên, nhờ vào cuộc gặp gỡ đó mà anh thanh niên – nhân vật chính của truyện đã để lại trong lòng những con người xa lạ những suy nghĩ, cảm xúc thật trong sáng, đẹp đẽ. Nguyễn Thành Long không trực tiếp nói về anh thanh niên, chỉ cho anh xuất hiện một cách bình thường như nhân vật khác và qua cảm quan của tuyến nhân vật phụ để vẽ lên bức tranh tuyệt đẹp mà điểm sáng là vẻ đẹp của người thanh niên.

Anh thanh niên là một người lao động bình thường, anh không phải là người đặc biệt anh như bao người khác, anh được giới thiệu: “hai bẩy tuổi tầm vóc nhỏ bé, khuôn mặt rạng rỡ” cái tuổi sôi nổi, yêu đời và khát khao được cống hiến cho đời. Vốn dĩ ở độ tuổi như anh, người ta sẽ thích một cuộc sống sắc màu, năng động, nhiều niềm vui tại phố thị xa hoa, hoặc ít nhất là được ở gần gia đình, người thân. Anh thanh niên lại đi ngược lại xu hướng đó, anh tìm về với nơi yên bình, xa cách này, vừa cô đơn vừa buồn tẻ. Anh làm công tác khí tượng kiêm vật lý địa cầu. Công việc mỗi ngày của anh là “ đo gió, đo mưa, đo nắng, tính mây, đo trấn động mặt đất”. Nhằm dự vào việc báo trước thời tiết hàng ngày phục vụ sản xuất và chiến đấu, Đó là công việc đòi hỏi sự tỉ mỉ, chính xác, kiên nhẫn và có tinh thần trách nghiệm cao. Chính hoàn cảnh sống đặc biệt ấy lại là “chiếc đòn bẩy” nâng tầm cho ý chí sắt đá, nghị lực phi thường của anh thanh niên được nổi bật và neo giữ mãi trong trái tim người đọc. Anh cũng như các nhân vật trong truyện đều có không có tên riêng, có lẽ đây không phải là điều quan trọng đáng nhớ vì mỗi người trên đời này đều có thê giống như anh mà cái đáng nhớ là vẻ đẹp vốn có trong anh.

Thông qua lời giới thiệu của người lái xe anh thanh niên sống ở “đỉnh Yên Sơn, cao hai nghìn sáu trăm mét” và “làm công tác khí tượng kiêm vật lí địa cầu”, và khi nghe lời tâm sự của anh kể về công việc làm của mình cho ông họa sĩ già và cô kỹ sư nông nghiệp trẻ, ta có thể thấy nhân vật anh thanh niên trong truyện có hoàn cảnh sống và làm việc thật đặc biệt. Anh sống một mình trên núi cao, quanh năm suốt tháng làm việc với cây và mây núi ở Sa Pa. Công việc của anh là làm khí tượng kiêm vật lý địa cầu. Công việc hằng ngày của anh thanh niên lặp đi lặp lại tựa một vòng tròn không có hồi kết. Anh làm bạn với đủ loại máy đo mưa, máy nhật quang ký đo ánh sáng mặt trời, cái máy đo gió và cái máy đo chấn động của vỏ trái đất. Một công việc đòi hỏi sự tỉ mỉ, chính xác và đúng giờ. Nhiệm vụ của anh là đo gió, đo mưa, đo gió, đo chấn động mặt đất và dự báo thời tiết hằng ngày phục vụ cho công việc chiến đấu và sản xuất. Anh lấy những con số, mỗi ngày báo về “nhà” bằng báo bộ đàm bốn giờ, mười một giờ, bảy giờ tối và một giờ sáng. Công việc của một người đòi hỏi tính chính xác, tỉ mỉ và tinh thần trách nhiệm cao. Anh thanh niên bảo “công việc nói chung dễ” nhưng những gì anh chia sẻ về công việc của mình với ông họa sĩ và cô kĩ sư mới thấy nó gian khổ và thử thách sức chịu đựng và tinh thần chiến thắng bản thân của con người đến như thế nào.

Công việc anh thanh niên đặc biệt nhiều thử thách nhất là lúc ghi báo về những con số lúc một giờ sáng trong hoàn cảnh thời tiết khắc nghiệt. Hãy nghe anh tâm sự: "Rét, bác ạ. Ở đây có cả mưa tuyết đấy. Nửa đêm đang nằm trong chăn, nghe chuông đồng hồ chỉ muốn đưa tay tắt đi. Chui ra khỏi chăn, ngọn đèn bão vặn to đến cỡ nào vẫn thấy là không đủ sáng. Xách đèn ra vườn, gió tuyết và lặng im ở bên ngoài như chỉ chực mình ra là ào ào xô tới. Cái lặng im lúc đó mới thật dễ sợ: nó như bị chặt ra từng khúc, mà gió thì giống những nhát chổi muốn quét đi tất cả, ném vứt lung tung… Những lúc im lặng lạnh cóng mà lại hừng hực như cháy. Xong việc, trở vào, không thể nào ngủ lại được". Những lời kể chân thực của anh thanh niên giúp người đọc cảm nhận được những gian khổ mà anh phải trải qua. Dưới cái trời lạnh buốt giá nơi núi rừng Tây Bắc, người ta sẽ chẳng muốn làm gì, chỉ muốn cuộn trong chăn ấm. Thế mà, có những người vẫn lặng lẽ, chống chọi với cái lạnh giá ấy, với mưa gió, sấm chớp đùng đùng hết mình vì công việc, không nề hà, than vãn. Đọc những dòng tâm sự ta càng thêm khâm phục, yêu mến anh hơn.

Ngoài khó khăn được anh nói đến trong lời tâm sự , hoàn cảnh sống và làm việc của nhân vật còn có điều đặc biệt là: Anh thanh niên mới có hai mươi bảy tuổi, cái tuổi đang hừng hực sức sống và sự bay nhảy. Thế mà, anh đã sống một mình trong suốt bốn năm trên đỉnh Yên Sơn. Trong bốn năm đó, ông họa sĩ và cô gái trẻ là đoàn khách thứ hai đến thăm nhà anh. Như vậy, cái gian khổ nhất đối với anh là phải vượt qua sự cô đơn, vắng vẻ, quanh năm suốt tháng chỉ có một mình trên đỉnh núi cao không một bóng người. Thử tưởng tượng phải làm việc quanh năm suốt tháng một mình trên đỉnh núi cao không một bóng người rồi những lúc thấy nản lòng, buồn tủi lại không có một ai để chia sớt, san sẻ, động viên. Ta thấy đó quả thật là một công việc không hề “dễ” như anh nói. Phải bản lĩnh, đam mê và yêu nghề đến đâu, một người trẻ tuổi như anh mới chấp nhận sống và làm việc ở nơi “khỉ ho cò gáy” này. Và Anh thanh niên đã vượt qua tất cả bằng ý chí, nghị lực và những suy nghĩ rất đẹp.

Chỉ cần nghe lời tâm sự đó thôi ta đã thấy được anh say mê, yêu nghề đến mức nào, công việc là niềm vui, niềm hạnh phúc và là sự sống của anh, anh không thể sống khi thiếu công việc cũng như người ta không thể sống khi thiếu khí trời. Một mình sống trên đỉnh Yên Sơn, không có ai đôn đốc, kiểm tra  nhưng anh vẫn vượt qua hoàn cảnh làm việc một cách nghiêm túc, tự giác với tinh thần trách nhiệm cao. Dù thời tiết khắc nghiệt mùa đông giá rét mà anh đều thức dậy thắp đèn đi “ốp” đúng giờ. Ngày nào cũng vậy anh làm việc một cách đều đặn, chính xác 4 lần trong ngày, âm thầm, bền bỉ trong nhiều năm trời. Công việc thực sự là một nguồn vui, một người bạn trong cuộc sống của anh. Anh thanh niên đặt hết tình cảm và cuộc sống trong công việc đang làm. Anh hiểu được chân lý của cuộc sống, anh có một quan niệm vô cùng đẹp, rằng mình là một mảnh ghép trong vô số mảnh ghép khác, chỉ khi hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình thì mới hoàn thành những nhiệm vụ lớn. Với anh sống là làm việc, làm việc là yêu nước. Đó là ý thức trách nhiệm cao cả của anh trong công việc hành ngày và trong thực hiện nhiệm vụ đối với tổ quốc. Tinh thần thái độ làm việc của anh thật nghiêm túc, chính xác, khoa học và nó đã trở thành phong cách sống của anh. Anh là người rất có nguyên tắc và ý thức sống. Không phải vì sống một mình không ai lui tới nên anh buông thả bản thân. Một phong cách sống khiến mọi người phải nể trọng

Sự cô độc cùng với áp lực công việc, cái đó có thể giết chết con người bằng bệnh trầm cảm, tự kỉ nhưng anh thanh niên đã chiến thắng tất cả để giữ được một trái tim ấm áp, một tinh thần lạc quan, yêu đời. Anh triết lí về công việc của mình: “khi ta làm việc, ta với công việc là đôi, sao gọi là một mình được?”.  Khó khăn đến mấy cũng không cản được ý chí trong anh.

Anh thấy được công việc thầm lặng của mình có ích cho cuộc sống, cho mọi người. Anh đã thấy mình “thật hạnh phúc” khi được biết một lần do phát hiện kịp thời một đám mây khô mà anh đã góp phần vào chiến thắng của không quân ta bắn rơi nhiều máy bay Mỹ trên bầu trời Hàm Rồng. Trái tim của anh luôn rạo rực một ngọn lửa khát vọng, khát vọng được sống đẹp, sống có ý nghĩa, sống có ích cho đất nước, cho mọi người. Hạnh phúc của người con trai ấy chẳng phải là ái tình tuổi trẻ, được giàu sang hay quyền lực. Hạnh phúc với anh là được làm việc, được cống hiến cho đất nước. Hạnh phúc khi ấy đã vượt ra ngoài biên giới của nó, không chỉ bó hẹp trong từng cá nhân mà lan tỏa đến những người khác, có ý nghĩa với nhiều người. Phải chăng một trong số những ẩn ý của tác giả qua việc không đặt tên riêng cho nhân vật chính mà lại gọi anh là “anh thanh niên” bởi anh đại diện cho tầng lớp các bạn trẻ đang ngân vang giai điệu bất diệt của lí tưởng sống cao cả, lao động quên mình vì Tổ quốc. Anh là đại diện tiêu biểu cho thanh niên Việt Nam, hăng say làm việc, hết mình cống hiến cho dân tộc, cho đất nước.

Với cách xây dựng tình huống truyện hợp lí, cách kể chuyện tự nhiên, kết hợp độc đáo giữa tự sự, trữ tình với bình luận, tác phẩm như dòng suối tĩnh lặng, nhẹ nhàng chảy trôi vào đời, đi qua những ngõ ngách trong trái tim người đọc và cứ thế lắng đọng nơi sâu thẳm cõi lòng. Ngòi bút tinh tế, giàu chất thơ của Nguyễn Thành Long như giúp người đọc đắm chìm vào từng lời văn, ngây ngất trong chất men say trữ tình lãng mạn của một thiên nhiên nên thơ đến những con người làm việc lặng lẽ, quên mình vì Tổ quốc. Sa Pa không chỉ là sự yên tĩnh, bên dưới sự yên tĩnh ấy, người ta làm việc, hi sinh và mơ ước. Ở đó, vẻ đẹp của anh thanh niên trong Lặng lẽ Sa Pa khiến người ta rung động và sống mãi trong tiềm thức người độc giả.

Cuộc sống của anh đẹp như một bài ca. Và bài ca ấy đã thôi thúc thế hệ thanh niên Việt Nam hôm nay cần dũng cảm lên đường, sống và cống hiến hết mình vì non sông, đất nước. Các bạn trẻ cần hiểu được tầm quan trọng của lao động trong cuộc sống. Trong cuộc sống, ai cũng phải làm việc, phải lao động để nuôi sống bản thân và góp phần xây dựng gia đình, xã hội. Mức độ ý thức trách nhiệm của một người quyết định mức độ thái độ của người đó làm việc, đồng thời cũng quyết định thành tích công việc của người đó. Khi có được ý thức trách nhiệm cao trong công việc, con người ta có thể học được từ công việc nhiều kiến thức mới, tích luỹ được nhiều kinh nghiệm và cũng từ đó tìm thấy niềm vui. Khi coi công việc là bạn, là nguồn vui thì công việc sẽ trở nên nhẹ nhàng và hiệu quả. Khi làm việc là lúc ta tự rèn luận các kĩ năng, do vậy công việc giúp ta hoàn thiện và phát triển bản thân. Lời tâm sự của anh thanh niên gián tiếp phê phán những người coi công việc là gánh nặng, những người lười nhác…Bản thân mỗi người chúng ta cần có thái độ yêu lao động, coi lao động là niềm vui, niềm hạnh phúc. Lao động là sự sống, là vẻ vang. Lười biếng lao động, thiếu ý thức trách nhiệm trong công việc là điều thật đáng xấu hổ. Với học sinh,khi còn ngồi trên ghế nhà trường, người có tinh thần trách nhiệm là người luôn cố gắng, nỗ lực học tập; chấp hành nghiêm các quy định của nhà trường; yêu thương và giúp đỡ bạn bè, nghe lời thầy cô, hiếu thảo với ông bà cha mẹ… Có trách nhiệm trong công việc đang làm và tình yêu đối với tổ quốc.

Mỗi tác phẩm văn học  không chỉ thốt lên nỗi niềm của tác giả mà còn khơi gợi nỗi lòng của người đọc. “Lặng lẽ SaPa” vừa vẽ nên một bức tranh thơ mộng, lãng mạn nhưng vô cùng chân thực về vẻ đẹp một miền sơn cước, ẩn hiện trong đó là nét đẹp của người thanh niên với lý tưởng sống vô cùng tốt đẹp. Truyện ngắn còn để lại cho độc giả những thanh âm vang vọng mãi về sau. Đó là thanh âm nhắc nhở thanh, thiếu niên và người lao động sống phải có lý tưởng, có ước mơ, dám cống hiến, dám chịu trách nhiệm và giữ nét đẹp giản dị, chân thật nhất trong tim mình.

Chủ Nhật, 24 tháng 4, 2022

Cảm nhận đoạn thơ:Tám năm ròng, cháu cùng bà nhóm lửa...Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa? _ Liên hệ giá trị Kỉ niệm

 Cảm nhận những kỉ niệm sâu sắc về tuổi thơ,tình bà cháu thiêng liêng, cảm động qua đoạn thơ:

Tám năm ròng, cháu cùng bà nhóm lửa

Tu hú kêu trên những cánh đồng xa

Khi tu hú kêu, bà còn nhớ không bà?

Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế.

Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!

Mẹ cùng cha công tác bận không về,

Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe,

Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học,

Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc,

Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà,

Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?

(Bếp lửa- Bằng Việt)

Sau đó, liên hệ với một tác phẩm khác hay thực tế cuộc sống để làm nổi bật giá trị của kỉ niệm với mỗi người.

Bài làm

Mỗi người sinh ra ai cũng có cho mình những kỷ niệm về một thời tuổi thơ. Vui có buồn có, sướng vui có thì khó nhọc cũng có. Nhà thơ Bằng Việt cũng vậy, với riêng ông, cả một thời tuổi thơ là những gì cả cuộc đời sau đó ông đã không thể nào quên, những kỷ niệm bên người bà dấu yêu, và đó là lý do mà bài thơ Bếp lửa ra đời. “Bếp lửa” không chỉ làm ấm tình cảm bà cháu mà còn sưởi ấm một đời người... "Bếp lửa” hay cùng chính là bà đang bên cháu, hình ảnh bà đang hiện về lung linh qua ánh lửa. Ở một đất nước xa xôi, cô quạnh, bao nhiêu ký ức về người bà một đời khắc khổ nuôi ông lớn khôn hiện hữu về như mới ngày hôm qua:

Tám năm ròng, cháu cùng bà nhóm lửa

Tu hú kêu trên những cánh đồng xa

Khi tu hú kêu, bà còn nhớ không bà?

Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế.

Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!

Mẹ cùng cha công tác bận không về,

Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe,

Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học,

Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc,

Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà,

Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?

Bài thơ đã gợi lại những kỉ niệm đầy xúc động về người bà và tình bà cháu, đồng thời thể hiện lòng kính yêu, trân trọng và biết ơn của người cháu với bà, với gia đình, quê hương, đất nước. Tình cảm và những kỉ niệm về bà được khơi gợi từ hình ảnh bếp lửa. Ở nơi đất khách quê người, bắt gặp hình ảnh bếp lửa, tác giả chợt nhớ về người bà. Lớn lên từ những câu chuyện bà kể, từ những việc bà dạy cháu, từ những bài học của bà, mọi thứ như đang ở ngay trước mắt.

Giọng thơ thủ thỉ như kể một câu chuyện cổ tích. Đó là những năm tháng của cuộc sống gian khổ, cơ cực mà đứa cháu lớn lên trong sự che chở, đùm bọc, cưu mang của người bà.

Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa

Tu hú kêu trên những cánh đồng xa

Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà

Bà hay kể những ngày ở Huế

Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!

Tám năm. Tám năm kháng chiến. Tám năm khó khăn. Bà không chỉ dành cho cháu những bữa ăn mà còn cho cháu một tuổi thơ đầy yêu thương.Tám năm trời dài đằng đẵng với bao kỉ niệm buồn vui bên bà, bên bếp lửa. Ngọn lửa ấy được nhóm lên bằng bàn tay của hai bà cháu, vì cuộc sống cơm áo cực nhọc đời thường. Ngọn lửa ấy, bếp lửa ấy là của tình yêu thương “ấp iu nồng đượm” mà bà đã sưởi ấm tâm hồn đứa cháu ngây thơ từ những ngày xửa ngày xưa, khi cháu vừa “lên bốn tuổi”. Nếu trong hồi ức lúc tác giả lên bốn tuổi, ấn tượng đậm nét nhất là mùi khói thì ở đây, ấn tượng ấy là tiếng chim tu hú. Tiếng “tu hú” lúc mơ màng, lúc văng vẳng từ những cánh đồng xa lâng lâng lòng người cháu xa xứ. Tiếng chim tu hú khắc khoải làm cho dòng kỉ niệm của đứa cháu trải dài hơn, rộng hơn trong cái không gian xa thẳm của nỗi nhớ thương. Tiếng chim tu hú vang lên vừa gợi lại trong tâm hồn tác giả bao kỉ niệm khó quên, vừa dấy lên nỗi nhớ quê hương, nhớ nhà, nhớ bà, nhớ bếp lửa. Tiếng chim tu hú gợi về những buổi mai, hai bà cháu cùng nhau nhóm lửa giữa không gian mênh mông, cô quạnh. Tiếng chim lúc mơ hồ, vang vọng từ “những cánh đồng xa”, lúc lại gần gũi, xót xa, nghe “sao mà tha thiết thế”. Tiếng chim tu hú như giục giã, khắc khoải điều gì da diết lắm khiến cho lòng người trỗi dậy những hoài niệm, nhớ mong. Tiếng chim tu hú chính là hình ảnh của quê hương, nơi đó có người bà dù khó nhọc nhưng giàu tình yêu thương con cháu.

  Tiếng kêu tha thiết của chim tu hú trên những cánh đồng xa gợi nhớ gợi thương, làm nhà thơ bồi hồi sống lại những kỉ niệm sâu sắc thời thơ bé, bâng khuâng nhớ lại những chuyện kể của bà. “Tám năm ròng…” – một thời gian khổ đã qua, nhưng cháu làm sao quên được? Cháu hồi tưởng, cháu hỏi bà hay tư hỏi mình? Nhà thơ đang kể chợt quay sang trò chuyện với bà, tưởng như bà đang ngồi đối diện “bà còn nhớ không bà”. Bởi chỉ có hai bà cháu mới hiểu hết ý nghĩa của âm thanh ấy. Tiếng chim tu hú phải da diết, khắc khoải lắm, nên cháu khó quên và bồi hồi xúc động khi nhớ lại. Bà có nhớ những câu chuyện bà vẫn thường kể, những câu chuyện cổ tích hằng đêm, dưới ánh trăng sáng, cháu ngồi trong lòng bà, đu đưa trên chiếc võng, vừa nghe bà kể vừa mân mê những sợi tóc bạc của bà hay những câu chuyện về các anh bộ đội cụ Hồ dũng cảm, xả thân vì nước, vì dân? Bà có nhớ những việc làm tận tụy đầy yêu thương của bà dành cho cháu, nhất là trong những buổi chiều hai bà cháu ngồi nhóm bếp?

Làm sao cháu có thể quên được hồi ấy:

Mẹ cùng cha công tác bận không về

Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe

Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học

Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc.

Có lẽ khi tiếng chim tu hú từ xa vọng lại, hai bà cháu mới cảm nhận rõ rệt nhất sự thiếu vắng trong ngôi nhà của mình. Đứa trẻ nào không khao khát tiếng nói của cha, hơi ấm của mẹ? Người bà nào chẳng ước mong tuổi già có con cháu quây quần bên cạnh? Vì hoàn cảnh chiến đấu, bố mẹ công tác xa không về, bà nuôi cháu trong trống vắng, quạnh hiu. Tình thương của bà là sự bảo ban, chăm sóc không khác gì công ơn sinh thành và nuôi dưỡng. Đối với tác giả, bà chính là mẹ, là cha, là người thầy dạy dỗ cháu nên người.

Bà là người chăm chút cho cháu từ cái ăn, cái mặc đến việc học hành. Bà dạy cháu những bài học quý giá về đạo làm người, dạy cho cháu niềm tự hào về dân tộc ta, một dân tộc bất khuất, kiên cường, không bao giờ chịu khuất phục để bảo vệ quê hương Việt Nam. Hàng loạt động từ được liệt kê: bà bảo, bà dạy, bà chăm. Cháu được dạy dỗ, chăm chút trong tình yêu thương của bà. Bà dạy cháu những bài học quý giá về đạo làm người, dạy cho cháu niềm tự hào về dân tộc ta, một dân tộc bất khuất, kiên cường, không bao giờ chịu khuất phục để bảo vệ quê hương Việt Nam. Con đi xa, bao nhiêu yêu thương bà dành hết cho đứa cháu nhỏ. Cháu cũng cảm nhận được tình yêu thương đó và thấu hiểu nỗi vất vả của bà. Trong trái tim ngây thơ, cháu thầm trách chim tu hú sao chẳng đến ở cùng bà cho vui nhà vui cửa, cho bà vợi bớt nhớ mong. Điệp từ “bà, cháu” lặp đi lặp lại, góp phần diễn tả cảnh bà cháu quấn quýt không rời. Dù thiếu vắng sự chăm sóc của mẹ cha nhưng tình yêu thương của bà đã bù đắp tất cả. Đối với cháu, bà và tình yêu thương sâu lắng của bà dành cho cháu sẽ luôn là một chỗ dựa tinh thần vững chắc, là điểm tựa của tâm hồn cháu mỗi khi cháu gặp thất bại, khó khăn. Cháu thật diễm phúc khi có một người bà như thế!  Đến tận bây giờ, dù đang du học nơi xứ người, đang đứng dưới trời tiết giá lạnh, cháu vẫn cảm nhận được cái ấm áp của tình yêu thương, của sự vỗ về, chăm sóc của bà. Càng nghĩ về bà, cháu lại càng thương bà hơn. Cháu luôn ghi lòng tạc dạ đức công ơn trời bể ấy của bà: “Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc”. Chỉ một mình chữ “thương” thôi cũng đã đủ gói ghém tất thảy tình yêu thương, sự kính trọng và niềm biết ơn sâu nặng mà người cháu dành cho bà của mình. Đến tận bây giờ, dù đang du học nơi xứ người, đang đứng dưới trời tiết  giá lạnh, cháu vẫn cảm nhận được cái ấm áp của tình yêu thương, của sự vỗ về, chăm sóc của bà. Càng nghĩ về bà, cháu lại càng thương bà hơn. Thương bà ở một mình dưới túp lều tranh xiêu quẹo, thương bà mỗi ngày một mình nhóm lửa, lòng luôn cầu mong đứa cháu được bình an.

Từ tình yêu thương sâu sắc của mình dành cho bà, tác giả quay sang khẽ trách con chim tu hú:

Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà

Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?

Tác giả đang trách chim tu hú mãi bay xa ngoài các cánh đồng, không đến ở cùng với bà đỡ cô quạnh, đỡ buồn tủi hay tác giả đang trách sự vô tâm, bất lực của chính bản thân mình? Vì cuộc sống, vì lí tưởng cháu đành xa bà, khoảng cách xa đằng đẵng, nỗi nhớ bà lại ngày một dài thêm. Câu thơ như một lời than thở thật tự nhiên, cảm động vô cùng chân thật, thể hiện nỗi nhớ thương da diết người bà của đứa cháu. Thời gian cứ trôi qua, bà vẫn xa đằng đẵng…Tiếng chim tu hú khép lại khổ thơ mà cứ như xoáy sâu vào tâm trí kẻ xa quê đang dáo dác kiếm tìm những kỉ niệm yêu thương… Âm điệu trong khổ thơ thật da diết, trầm buồn, phù hợp với tâm trạng của thi sĩ: nỗi nhớ quê, nhớ bà da diết, sâu đậm, day dứt…

Giọng thơ chầm chậm, da diết, bộc lộ nỗi khắc khoải của niềm nhớ, niềm thương. Tự nhiên như thế, đoạn thơ đã gieo vào lòng người đọc bao nỗi niềm khó tả, bao nỗi nhớ của một khung trời tươi đẹp về một kí ức tuổi thơ có bà. Trong tâm trí của người cháu xa quê ấy có lẽ đang tìm về những kí ức yêu thương cho thỏa nỗi nhớ nhung bà. Bài thơ sáng tác khi tác giả đang học ở Liên Xô, nơi có nhiều bếp ga, bếp điện. Nhưng người cháu không quên bếp lửa quê nhà. Nhớ đến bếp lửa là nhớ đến bà. Nhớ đến bà là nhớ đến quê hương, nguồn cội. Nhớ quê hương nơi xứ lạ, đó chính là tình yêu Tổ Quốc! 

Kỷ niệm là những khoảnh khắc quá khứ mà ta luôn ghi nhớ. Đôi lúc kỷ niệm thật trọng đại như ngày ta tốt nghiệp hay kết hôn, đôi lúc lại chỉ thật nhỏ bé như bát chè ngọt thơm của bà ngày thơ ấu. Có những kỷ niệm khiến ta chỉ muốn hoài lưu nhớ, cũng lại có những kỷ niệm khiến ta chỉ muốn chôn vùi vào dĩ vãng. Nhưng dù thế nào, chúng vẫn là một phần của cuộc sống và tạo nên con người ta, bởi thế ta không thể phủ nhận những sức mạnh to lớn của kỷ niệm mà tác động lên mỗi người. Sức mạnh ấy sẽ luôn hiện hữu trên chuyến hải trình cuộc đời này của mỗi chúng ta.

Rất nhiều kỉ niệm trong quá khứ luôn ẩn chứa những bài học, kinh nghiệm quý báu cho mỗi chúng ta trong cả hiện tại và tương lai. Một triết gia từng nói:”Quá khứ là thầy dạy của tương lai”. Khi nhớ về những lần vụng dại hay vấp ngã, ta sẽ biết nhận ra những khiếm khuyết của mình để sửa đổi và trở nên tốt hơn. Kỷ niệm trong những phút tĩnh lặng còn là khoảnh khắc để lòng ta tĩnh lại, và nhận ra những điều thật tâm ta trân trọng. Không những thế, sức mạnh của kỷ niệm còn là nguồn động lực giúp ta vượt qua những khoảnh khắc đen tối trong cuộc đời. Kỷ niệm về tuổi thơ cay xè mùi khói bếp bên hình bóng người bà đã giúp Bằng Việt viết nên “Bếp lửa” đầy cảm động. Ký ức về những tháng ngày đóng quân nơi núi rùng đầy vất vả đã giúp cho Quang Dũng viết nên một “Tây Tiến” lãng mạn và bi tráng. Như một quyển nhật ký chất chứa bao điều, trái tim người nghệ sĩ lần giở những trang quá khứ để gửi cho cuộc đời bao cảm xúc, bao câu chuyện. Cứ thế, bao kỷ niệm êm đềm lại tiếp tục đồng hành cúng ta trên chuyến hải trình của cuộc sống, với tất cả sức mạnh và giá trị của nó. Bên cạnh những kỷ niệm đẹp, vẫn còn đó những kỷ niệm đau buồn đủ sức tàn phá tâm hồn và trái tim. Ký ức về một tuổi thơ không hạnh phúc hay những lời làm ta tổn thương, hay hình bóng một người thân yêu đã rời xa sẽ không dễ gì biến mất. Sức mạnh của chúng cứ như một bóng ma, âm thầm và rồi lại bất ngờ làm ta tổn thương thêm một lần nữa. Và,cách ta đối diện và tiếp nhận chúng là điều quan trọng nhất. Tất cả kỷ niệm, dù đẹp đẽ hay xấu xí, êm đềm hay bão tố, đáng nhớ hay đáng quên cũng đều mang một ý nghĩa nào đó. . Giữ lấy những kỷ niệm tốt đẹp ở trong tim, tha thứ và chấp nhận quên đi những kí ức tồi tệ đã là quá khứ.  “Còn kỷ niệm là còn tâm hồn, còn nhớ, và còn biết thương chính mình, để sống còn niềm tin vào cái đẹp.” Kỷ niệm là món quà của quá khứ và là một phần của cuộc sống mỗi người. Trước tất cả sức mạnh to lớn của nó, cách ta đối diện và tiếp nhận chúng mới là quan trọng nhất. Một đại dương không thể thiếu sóng biển, và một cuộc đời không thể đi qua mà không mang lấy chút kỷ niệm nào. Trên chuyến hải trình của cuộc đời này, mong rằng những kỷ niệm sẽ luôn là cơn sóng vỗ về bạn với tất cả êm đềm của nó...

               

Kí ức về làng quê, về những người thân thương trong không gian ấu thơ luôn là hành trang vững chắc để người ta mang theo trong tim qua những nẻo đường đời… Nó giúp người ta thêm mạnh mẽ hơn để đối mặt với trăm chiều giông tố… Có thể nói, trong bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt, bà là Tổ Quốc, bà là Quê hương! Tình yêu thương và lòng biết ơn bà chính là biểu hiện sâu sắc của lòng yêu thương, gắn bó với gia đình, quê hương. Cũng là khởi đầu của tình yêu đất nước, con người. Bếp lửa bồi dưỡng cho mỗi chúng ta cách sống nghĩa tình, nhân hậu, thủy chung. Bài thơ cũng là bài học đạo lý sâu sắc, thấm thía mà đến với nó, ta như tìm được những yêu thương, ấp ủ mặn nồng của cuộc sống đến suốt cuộc đời không thể nào quên.