Thứ Ba, 30 tháng 6, 2020

Nỗi nhớ người yêu, nhớ bố mẹ của Thúy Kiều

Là thi sĩ, ai chẳng muốn cất ngòi bút ca ngợi cái đẹp, cái hữu tình, cái thơ mộng, nhưng hiện thực phơi bày trước mắt là mũi dao oan nghiệt khiến trái tim đa cảm phải cất tiếng đau thương. Trong ngàn vạn tiếng nấc nghẹn ngào về thân phận người phụ nữ, Truyện Kiều bật lên như tiếng thét hoảng hốt, vô vọng giữa đêm trường phong kiến đầy những tủi nhục, đắng cay. Tiếng thét đó chừng như kéo dài vô tận, phản ánh nỗi đau thân phận người, nỗi đau thân phận nàng Kiều – người con gái tài hoa nhưng bất hạnh. Ngòi bút điêu luyện của cụ Tiên Điền đã khéo léo mượn cảnh tả tình tinh tế và ý nhị. Và đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích chính là dấu lặng trầm buồn trong thiên bạc mệnh Kiều đã viết cho mình. Qua ngôn ngữ độc thoại nội tâm của chính nhân vật Nguyễn Du đã khắc họa một cách xúc động về nỗi nhớ người yêu, nhớ bố mẹ của Thúy Kiều:

Tưởng người dưới nguyệt chén đồng

Tin sương luống những rày trông mai chờ.

Bên trời góc bể bơ vơ,

Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.

Xót người tựa cửa hôm mai,

Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?

Sân Lai cách mấy nắng mưa,

Có khi gốc tử đã vừa người ôm.

Trong mười lăm năm trời vằng vặc tha phương, không ít lần kiều bộc lộ nỗi nhớ thương về cha mẹ, tưởng nhớ người yêu của mình mà mỗi niềm đau xót đều chân thành cảm động. Dưới ngòi bút trữ tình tài hoa của Nguyễn Du luôn dõi đôi mắt tình đầy nhân hậu theo từng bước chân luân lạc của đời Kiều. Thân gái một mình nơi đất khách quê người Kiều sống ở lầu Ngưng Bích với tâm trạng cô đơn buồn tủi. Trước mắt nàng chỉ là một không gian mênh mông với non xa trăng gần, với những cồn cát bụi bay mù mịt, còn thời gian thì tuần hoàn khép kín không gian và thời gian ấy như giam hãm con người, khiến nàng cảm thấy cô đơn buồn tủi đau đớn, tan nát cõi long. Tình cảm đối với người thân lúc này cháy bỏng trong vết thương lòng rỉ máu.

Tâm cảnh rối bời, hoang mang, tan vụn. Mối tình đầu vừa chớm nở đã vội tàn mà sao chữ tình kia cứ đeo đẳng không sao đứt rời dù trước mắt nàng chỉ thấy cảnh mà vắng bóng người. Hình bóng chàng Kim vẫn cứ hiện về trong ký ức:

Tưởng người dưới nguyệt chén đồng,

Tin sương luống những rày trông mai chờ.

Nguyễn Du không dùng từ “nhớ” để diễn tả tâm trạng Thuý Kiều mà lại là “tưởng”. Đây là nét rất độc đáo, hàm súc. Chính từ “nhớ” không diễn đạt hết chữ tình Kiều dành cho Trọng, bởi nhớ mong thì còn hy vọng gặp lại, còn “tưởng” thì chừng như trong suy nghĩ của nàng thì đôi nhạn không mong có ngày tương phùng, không còn kỳ vọng. Đó là nỗi nhớ trong hoài niệm, trong vô vọng. Câu thơ sáu tiếng mà có đến bốn thanh trắc tạo âm hưởng nặng trĩu như tiếng nấc nghẹn ngào, thổn thức đau thương. Từ “tưởng” còn là niềm tôn kính, bởi chính Kiều cảm nhận mình là kẻ có lỗi trong tình yêu vô bờ mà Kim trọng dành cho nàng. Nàng mường tượng mới hôm nào đây thôi cả hai cùng “dưới nguyệt chén đồng” thề thốt: “Trăm ngăm tạc một chữ đồng đến xương”, giọt rượu giao thề hương vị vẫn còn đọng trên bờ môi mà kẻ Liêu Dương, người Lâm Chuy xa xôi cách trở. Vầng trăng kia vẫn còn, chén rượu thề nguyền chưa ráo mà nay tình duyên đã chia cắt đột ngột. Câu thơ như có nhịp thổn thức của trái tim yêu thương đang rỉ máu.

Nhớ về Kim Trọng đau đớn hình dung là cảnh ở Liêu Dương xa xôi cách trở, Kim Trọng không hề hay biết Kiều đã bán mình chuộc cha mà vẫn hướng về Kiều chờ tin mà uổng công vô ích. Càng nhớ chàng bao nhiêu thì Kiều càng thương cho số phận mình bấy nhiêu:

Bên trời góc bể bơ vơ

Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.

Thương thân mình bơ vơ trên trời, góc bể, càng nuối tiếc cho mối tình đầu. Âm điệu câu thơ kéo dài lê thê, nàng tự nhủ với lòng “Tấm son gột rữa bao giờ cho phai”. Có thể hiểu “tấm son” của Kiều đã bị hoen ố nàng không còn là một thiếu nữ phòng khuê, nhưng có thể hiểu "tấm son"là tấm lòng chung thủy son sắc của nàng dành cho Kim Trọng chẳng bao giờ nguôi ngoai. Lời thơ là lời độc thoại nội tâm. Thật vậy ! Suốt những năm tháng lưu lạc, Kiều không bao giờ nguôi thương nhớ Kim Trọng. Đặt trong hoàn cảnh cô đơn Kiều đã tạm để tấm lòng mình lắng xuống và nhớ đến Kim Trọng. Đó là sự vị tha và tấm lòng chung thủy của một người.

Chưa vơi nỗi nhớ người yêu, tâm can Kiều lại càng chồng chất nỗi nhớ thương cha mẹ. Quá khứ cứ hiện về choáng ngộp tâm tư, nàng lại xót cho cha mẹ tuổi già bóng xế.

Xót người tựa cửa hôm mai,

Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?

Sân Lai cách mấy nắng mưa,

Có khi gốc tử đã vừa người ôm.

Nhớ tới Kim Trọng nàng “tưởng" thì nhớ tới cha mẹ nàng "xót". Kiều xót xa khi bố mẹ đã già yếu mà ngày ngày vẫn tựa cửa ngóng tin con, nàng còn xót xa bởi mình không tự tay chăm sóc được cha mẹ và hiện thời ai là người chăm nom. Thành ngữ “quạt nồng ấp lạnh " và điển cố "sân lai, gốc tử" đều nói lên tâm trạng nhớ thương tấm lòng hiếu thảo của Kiều. Nhớ về cha mẹ còn tưởng tượng ra cảnh giờ đây quê nhà đã đổi thay, mà sự đổi thay khiến nàng lo lắng nhất là “Có khi gốc tử đã vừa người ôm"nghĩa là cha mẹ mỗi ngày thêm một già yếu nàng thì chẳng thể nào chăm sóc. Cụm từ "cách mấy nắng mưa" vừa nói được thời gian xa cách qua bao mùa mưa nắng vừa nói lên sự tàn phá của tự nhiên, của nắng mưa đối với con người và cảnh vật, lần nào nhớ về cha mẹ Kiều cũng "nhớ ơn chín chữ cao sâu"và luôn ân hận day dứt vì đã phụ công sinh thành nuôi dưỡng của cha mẹ. Nỗi nhớ của nàng được gửi gắm vào chiều dài thời gian, chiều sâu không gian bởi vậy mà càng thêm sâu xa. Hiếu thảo đến thế thì còn gì bằng. Trong đời, Kiều luôn nghĩ đến người trước khi nghĩ đến mình, đó là lòng nhân ái cao đẹp, là phẩm hạnh người phụ nữ Việt Nam. Nơi đất khách quê người, mang thân phận cánh “hoa trôi man mác” trong dòng đời bão nổi, thế mà trong trái tim bao dung kia luôn nghĩ đến cha mẹ già giờ ai chăm sóc, giờ đang mòn mõi tin con. Chỉ mới đây thôi mà nàng tưởng như xa xôi lắm cho nỗi nhớ chất chồng.

Đến đây ta hiểu tại sao trong nỗi nhớ thương Kiều lại nhớ Kim Trọng trước cha mẹ sau, phải chăng trong hai chữ tình - chữ hiếu nàng đã tạm yên với chữ hiếu bởi khi bán mình chuộc cha Kiều đã phần nào đền đáp được công ơn sinh thành nuôi dưỡng của cha mẹ. Còn với Kim Trọng trước khi về Liêu dương chịu tang chú, chàng đã kỳ vọng vào Kiều bao nhiêu.

Giữ vàng giữ ngọc cho hay

Cho đành lòng kẻ chân mây với trời.

Vậy là giờ đây, tấm thân Kiều đã bị hoen ố, nàng đã phụ bạc chàng Kim vì thế nàng luôn ân hận, day dứt như một kẻ phụ tình. Nỗi đau ấy cứ xé tâm can nàng khiến nàng luôn nhớ đến Kim Trọng, nhớ người yêu trước nhớ cha mẹ sau, điều đó hoàn toàn phù hợp với quy luật tâm lý của Kiều. Đồng thời thể hiện sự tinh tế trong ngòi bút miêu tả tâm lý của Kiều. Đồng thời thể hiện sự tinh tế trong ngòi bút miêu tả tâm lý của Nguyễn Du. Điều đáng lưu ý là dù trong hoàn cảnh cô đơn ở lầu Ngưng Bích Kiều là người đáng thương nhất nhưng trái tim Kiều đầy yêu thương nhân hậu vị tha. Nàng là người tình thủy chung, là người con rất mực hiếu thảo, thật đáng trân trọng biết bao.

Nguyễn Du bằng cái tài và cái tâm của mình đã dệt nên một bức tranh tâm trạng đầy xúc động. Qua đó, ta cảm nhận được tâm trạng của Kiều ở lầu Ngưng Bích trong giây phút đau đớn này. Dù trong những giây phút bế tắc của cuộc đời Kiều vẫn nghĩ về gia đình về chàng Kim. Và càng thêm cảm thông cho cảnh ngộ éo le của Kiều.

Thân phận người phụ nữ vốn mỏng manh cần được bảo vệ, chở che nhưng trong xã hội phong kiến đau đớn thay, thân phận ấy lại bị cuộc đời vùi dập. Kể cả Thúy Kiều – người con gái tài sắc vẹn toàn ấy cũng không thể thoát khỏi sự trớ trêu xoay vần của con tạo. Cuộc đời của Kiều luôn lẩn quẩn trong vòng xoáy của cuộc đời, chìm đắm trong nỗi buồn sầu tủi miên man. Tâm trạng của Kiều ở lầu Ngưng Bích chính là khi bi kịch ấy được đẩy lên đến đỉnh điểm về số phận của nàng Kiều tài hoa mà truân chuyên. Nguyễn Du dường như đã đi đến tận cùng biện chứng tâm hồn, tỏ ra thấu hiểu con người khi ông chỉ bằng ngôn ngữ đã làm hiển thị được nỗi lòng và tâm tư của Thúy Kiều. Đoạn trích xứng đáng là một trong những đoạn thơ thành công nhất và khẳng định tài năng thi ca cùng tấm lòng nhân đạo của đại thi hào Nguyễn Du.


Bạn đã bao giờ tự hỏi tại sao mình không hề thua kém nhưng lại không thành công như những người khác?









Thứ Hai, 29 tháng 6, 2020

Vẻ đẹp Thúy Kiều

Nước Nam đẹp nhất nàng Kiều….

Với những ai từng đọc Truyện Kiều, có lẽ sẽ không thể quên những nét họa dù thoáng qua của tác gia Nguyễn Du nhưng nàng Kiều vẫn hiện ra với bức chân dung về người con gái tài sắc vẹn toàn. Vẻ đẹp ấy không chỉ ở dung nhan hay tài năng thiên bẩm mà còn bừng sáng ở cốt cách và tấm lòng người thiếu nữ. Ông hết sức nâng niu, đề cao vẻ đẹp và tài năng của người phụ nữ:

Kiều càng sắc sảo mặn mà,

So bề tài sắc lại là phần hơn.

Làn thu thủy, nét xuân sơn,

Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.

Một hai nghiên nước nghiên thành

Sắc đành đòi một tài đành hoạ hai.

Thông minh vốn sẵn tính trời,

Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm.

Cung thương làu bậc ngũ âm,

Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương.

Khúc nhà tay lựa nên chương,

Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân.

Chỗ tài tình của Nguyễn Du là, khi ông tả người, tả vẻ ngoài của con người nhưng chính là ông tả bản chất con người với những đặc sắc bên trong của nó và dự báo cả số phận mai sau của họ. Để khắc hoạ vẻ đẹp của nhân vật lý tưởng, Nguyễn Du đã sử dụng bút pháp ước lệ – lấy vẻ đẹp của thiên nhiên làm nổi bật vẻ đẹp của con người. Nhà văn không miêu tả chi tiết cụ thể mà chủ yếu là tả để gợi.

Ta thấy có sự khác biệt khi Nguyễn Du tả Thuý Vân và Thuý Kiều. Nguyễn Du không miêu tả ngay Thúy Kiều mà nhận xét, đánh giá trong sự so sánh, đối chiếu với Thúy Vân:

Kiều càng sắc sảo mặn mà

So bề tài sắc lại là phần hơn.

  Không cần phải tô vẽ nhiều, chỉ khắc họa hai chi tiết thôi ta đã thấy hiện lên vẻ đẹp toàn thiện, toàn bích của Thúy Kiều. Nàng có vẻ đẹp vô cùng sắc sảo và mặn mà.  “Sắc sảo” ở đây là vẻ đẹp trí tuệ. “Mặn mà” lại là vẻ đẹp ngoại hình đằm thắm. Nhan sắc của Thúy Kiều so với Thúy Vân rõ ràng có thêm chiều sâu, quyến rũ. Vẻ đẹp nàng sắc cạnh, mạnh mẽ, tinh tế, chứa đầy nghị lực, ai nhìn cũng yêu mến, ngay lập tức bị quyến rũ và chinh phục. Nàng sắc sảo cả ở trí tuệ và mặn mà trong tâm hồn. Sắc tài hòa hợp làm nên vẻ đẹp trác việt. Đã vậy, nhà thơ còn khẳng định sự vượt trội hơn hẳn của Kiều bằng những từ ngữ chỉ mức độ như: “càng”, “hơn”. Ở đây, Nguyễn Du đã sử dụng nghệ thuật đòn bẩy, miêu tả Thúy Vân trước, lấy Thúy Vân làm nền để trên đó vẻ đẹp Thúy Kiều được tỏa sáng.

Nhan sắc của Thúy Kiều được Nguyễn Du tái hiện:

Làn thu thủy nét xuân sơn

Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh.

Gợi tả vẻ đẹp của Kiều tác giả vẫn dùng những hình ảnh ước lệ, tượng trưng như “thu thủy” - nước mùa thu, “xuân sơn” - núi mùa xuân. Vẫn lấy thiên nhiên như “hoa”, “liễu” làm chuẩn mực để so sánh với vẻ đẹp của con người. Nhưng đặc biệt khi hoạ bức chân dung Kiều, ngòi bút thiên tài chỉ tập trung vào đôi mắt và vẻ thanh tân, tươi thắm. Hình ảnh “Làn thu thuỷ, nét xuân sơn” là hình ảnh mang tính ước lệ, đồng thời cũng là hình ảnh ẩn dụ. Đôi mắt nàng Kiều được ví như làn nước mùa thu long lanh, trong sáng. Ẩn dụ “làn thu thủy” vừa gợi tả vẻ đẹp nhan sắc vừa toát lên sự tinh anh, trí tuệ. Hơn thế nữa, Nguyễn Du miêu tả ngoại hình mà biểu đạt cả vẻ đẹp nội tâm. Vì, đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn, soi vào đôi mắt như nước hồ thu ấy, ta có thể thấy tâm hồn nàng trong trẻo, thanh sạch biết bao! Đôi mắt đẹp lại ẩn dưới nét mày thanh nhẹ, tươi non như sắc núi mùa xuân thì càng thêm quyến rũ. Từ đôi mắt xanh trong ấy, ta cảm nhận Kiều đang dạt dào sức sống thanh xuân và còn thấy được, độ sâu thẳm trong tâm hồn nàng. Từ những dụng ý trên, Nguyễn Du đã có được mạch chuyển tiếp thật tài tình cho câu thơ sau:

Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.

Đọc câu thơ này ta thấy hơi rùng mình. Những từ ghen, hờn được tác giả nhân hoá để dùng cho hoa và liễu là những loài đẹp nhất, dịu dàng, tươi thắm nhất thế mà phải thua Thuý Kiều, vì vậy mà chúng đố kị, ghen ghét với nàng, Mượn cây lá thiên nhiên, Nguyễn Du muốn dự báo và suy ngẫm về tương lai, cuộc đời Thuý Kiều: “Một vừa hai phải ai ơi. Tài tình chi lắm cho trời đất ghen.” (ca dao). Đây được xem như là một qui luật, định mệnh khắc nghiệt với con người, đặc biệt là người phụ nữ: “Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen.”

Thúy Kiều đã vượt lên trên vẻ đẹp hoàn hảo của Thúy Vân, để trở thành cái đẹp tuyệt đích, có một không hai! Như thế ta đã thấy rõ được tại sao khi tả Thuý Vân, Nguyễn Du tả hết sức chi tiết, còn Thuý Kiều chỉ điểm qua từng chi tiết đặc biệt như đôi mắt chẳng hạn. Vẻ đẹp của Thuý Kiều không thể tả rõ được, chỉ có thể hình dung đó là một tuyệt thế giai nhân.  

Một hai nghiêng nước nghiêng thành.

Dùng ý thành ngữ điển tích: “Nghiêng nước nghiêng thành”, Nguyễn Du nhấn mạnh hơn nữa sắc đẹp có sức mê hoặc của nàng Kiều. Sắc đẹp đó có thể khiến người ta say mê đến nỗi mất thành, mất nước. Vì vậy mà Nguyễn Du khẳng định lần nữa: Sắc đành đòi một, tài đành hoạ hai. Câu thơ này muốn nói về sắc thì chỉ có một mình Kiều là nhất, về tài thì may ra có người thứ hai.

Nàng Kiều của Nguyễn Du không chỉ rạng rỡ về nhan sắc mà còn là người con gái có tài năng đạt đến sự lí tưởng:

Thông minh vốn sẵn tính trời

Pha nghề thi hoạ đủ mùi ca ngâm

Cung thường lầu bậc ngũ âm

Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương

Khúc nhà tay lựa nên chương

Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân.

Với sáu câu thơ ngắn gọn, Nguyễn Du đã có thể giải thích ý tài đành hoạ hai. Đã vốn được trời ban cho một trí tuệ thông minh, sáng suốt lại có ý chí học hỏi, luyện tập thì tất nhiên là khó có người vượt qua nổi. Thuý Kiều giỏi mọi lĩnh vực: hội hoạ, thơ ca, ca ngâm,... nhưng lĩnh vực tài nhất và cũng là hợp với người con gái dịu dàng, xinh đẹp như Kiều nhất là âm nhạc. Đây là sở trường hơn người của Thuý Kiều.Tác giả đặc tả tài đàn là sở trường, năng khiếu; thông thạo âm luật “cung thương lầu bậc ngũ âm”; các loại nhạc khí nàng cũng chơi hết sức diêu luyện, tinh tường. “Làu bậc ngũ âm” là sự điêu luyện trong kĩ thuật chơi đàn. Tiếng đàn của nàng Kiều không chỉ ngân lên những âm thanh huyền diệu mà còn nức nở nhiều cung bậc cảm xúc. Mỗi nốt nhạc rung lên là mỗi tiếng ai oán, não nùng, khổ đau, sầu thảm.

Không chỉ vậy, nàng còn giỏi sáng tác nhạc. Cung đàn Bạc mệnh của Kiều là tiếng lòng của một trái tim đa sầu đa cảm:

Khúc nhà tay lựa nên chương

Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân.

Có thể soạn được riêng cho mình một bản nhạc “bạc mệnh” là một bằng chứng cho cái tài về đàn ca đó của Kiều. Ở xã hội phong kiến, nơi mà người phụ nữ không có cơ hội thể hiện trí tuệ của mình, thế mà Thuý Kiều lại thể hiện được, đó là chuyện hiếm có vô cùng. Cái khúc nhạc bạc mệnh mà Kiều tạo ra khiến ai nghe đều não lòng, sầu khổ là cái thể hiện rõ ràng nhất. Ngoài ra, nó càng thể hiện sự hoà hợp giữa tâm hồn nàng và âm nhạc, một tâm hồn đa cảm và những khúc nhạc buồn. Tài đàn có sức chinh phục tuyệt đối của Kiều dựa trên sự rung cảm có tính sáng tạo của người nghệ sĩ đứng trước mọi tình huống của cảnh giới và tâm giới!

Tả tài, Nguyễn Du thể hiện được cả cái tình của Kiều. Chân dung Thuý Kiều là bức chân dung mang tính cách và số phận. Vẻ đẹp khi cho tạo hoá phải ghen ghét, các vẻ đẹp khác phải đố kị, tài hoa trí tuệ thiên bẩm “lai bậc” đủ mùi, cả cái tâm hồn đa sầu đa cảm khiến Kiều không thể tránh khỏi định mệnh nghiệt ngã, số phận éo le, gian khổ bởi “Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau”. “Trời xanh quen thói mà hồng đánh ghen”. Cuộc đời Kiều hẳn là cuộc đời hồng nhan bạc mệnh.

Trong đoạn trích “Chị em Thuý Kiều”, Nguyễn Du sử dụng những hình ảnh đẹp nhất, những ngôn từ hoa mĩ nhất để miêu tả vẻ đẹp con người, phù hợp với cảm hứng ngưỡng mộ, ngợi ca giá trị con người. Tác giả còn dư cảm về kiếp người tài hoa bạc mệnh của Kiều. Đó chính là cảm hứng nhân văn cao cả của Nguyễn Du xuất phát từ lòng đồng cảm sâu sắc với mọi người.

Dồn hết tâm lực vào tác phẩm, khắc họa cực điểm sắc đẹp và tài năng của nhân vật, phải chăng, thiên tài Nguyễn Du muốn ca ngợi cái đẹp hoàn hảo của nhân dân, cái số phận bi thương của người phụ nữ, cái khắc nghiệt của tạo hóa. Con người dẫu xinh đẹp và tài năng đến mấy cũng không thể thoát khỏi cái định mệnh mà tạo hóa đã an bài. Ẩn sau cái định mệnh là bóng dáng của chế độ phong kiến bất công, tàn bạo, đã chà đạp lên nhân phẩm và quyền sống của con người, đẩy họ vào bước đường cùng không lối thoát.

 


Niềm mong mỏi và hi vọng đến cháy bỏng của người cha trong bài thơ Nói với con

Lời của cha như tiếng sóng thầm thì

Hay tiếng lòng của cha từ một thời sâu thẳm

Lần đầu tiên trước biển khơi vô tận

Cha lại gặp mình trong tiếng ước mơ con. (Những cánh buồm – Hoàng Trung Thông)

Cùng tiếng thơ đồng điệu về chủ đề gia đình, tình cảm cha con - một đề tài ấm áp và ngọt ngào trong văn học Việt Nam hiện đại với nhà thơ Hoàng Trung Thông, nhà thơ Y Phương  đã để lại dấu ấn qua bài thơ Nói với con. Mượn lời nói đầy tâm tình và gần gũi, người cha truyền vào tâm hồn người con để hình thành trong con một nghị lực sống vững chãi nơi miền đất gập ghềnh, biết vươn lên phía trước để sống mạnh mẽ và có hoài bão... Những lời dạy ấy được truyền đạt đầy tha thiết trong những lời thơ sau:

Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn

Sống trên đá không chê đá ghập ghềnh

Sống trong thung không chê thung nghèo đói

Sống như sông như suối

Lên thác xuống ghềnh

Không lo cực nhọc.

Từ không gian gia đình ăm ắp tiếng nói tiếng cười và tình yêu thương của cha mẹ đối với con, nhà thơ Y Phương đã phát triển ý thơ để nói với con về “người đồng mình” ở nơi đầy nắng, đầy gió. Trong cuộc mưu sinh đầy gian khó, người “đồng mình” đã tự tay mình tạo ra những giá trị văn hóa và những giá trị ấy được lưu giữ, truyền lại bao thế hệ.Người cha muốn đưa con trở về với mạch nguồn yêu thương, nơi bắt đầu cho những cuộc đời, cho những tình cảm tốt lành để nhắc nhở con luôn trân trọng và biết nhân lên những tình cảm đó trong cuộc sống. Người đồng mình không chỉ tài hoa, cần cù mà còn sống trong sự gắn bó keo sơn, sâu nặng nghĩa tình. Phẩm chất ấy thật cao đẹp và có sức sống lâu bền trong tâm hồn con.

Nói với con trong những bước chập chững vào đời, người cha mong con hiểu và rèn cho mình ý chí, nghị lực sống và phẩm chất như “người đồng mình” từng trải qua. Tình cảm và ước muốn của người cha  mạnh mẽ và kiên quyết:

Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn

Lời khuyên chân tình, nghe có chút miễn cưỡng nhưng lại ẩn chứa niềm mong mỏi thiết tha. Lời thơ chứa đựng trong đó niềm mong mỏi và hi vọng đến cháy bỏng của người cha đối với con. Bởi người cha biết rằng, trong cuộc sống mới, khi mà vật chất chiếm giữ vai trò chủ đạo, thì việc gìn giữ và phát triển các giá trị của quê hương là một nhiệm vụ rất khó khăn.Từ hình ảnh “người đồng mình”, người cha mong muốn ở con những điều thật giản dị mà lớn lao đầy nghị lực:

Sống trên đá không chê đá ghập ghềnh

Sống trong thung không chê thung nghèo đói

Nếu như hội họa, người họa sỹ dùng đường nét để sáng tạo, âm nhạc, người nghệ sĩ dùng âm thanh để tạo nên tác phẩm hay trong điêu khắc dùng hình khối để sáng tác thì văn chương dùng ngôn từ làm chất liệu. Nhà thơ đã chọn lọc, sử dụng điệp từ “sống” cùng phép liệt kê “đá, thung” đã khắc họa một bức tranh làng bản núi đồi thật đẹp.Với những hình ảnh cụ thể của rừng núi quê hương: đá gập ghềnh, thung nghèo đói, nhà thơ gợi lại cuộc sống vất vả đầy gian nan, thách thức giữa hoang sơ đại ngàn. Trên đá cằn khô ấy, trong thung cằn cỗi ấy, họ vẫn tìm thấy sự tươi đẹp của cuộc đời. Cụm từ phủ định nhưng mang ý khẳng định “không chê” được tác giả nhấn mạnh vấn đề một điều tiên quyết, con không bao giờ được phép quên đi những khó khăn, vất vả của quê nhà mình, con hãy nhớ và không ngừng nghỉ vươn lên. Những “người đồng mình” mạnh mẽ, bền bỉ, gắn bó với quê hương dẫu còn nhọc nhằn, nghèo đói. Sự chấp nhận cuộc sống một cách tự nguyện, không kêu ca là đức tính cao quý của người miền núi nói riêng và người Việt Nam nói chung. Vì vậy, người cha mong muốn con mình phải có nghĩa tình thủy chung với quê hương, biết chấp nhận, vượt qua gian nan, thử thách bằng ý chí, nghị lực của bản thân.

Dù cuộc sống có khó khăn, dù quê hương mình nghèo đói nhưng người cha vẫn muốn truyền vào đứa con nghị lực để hình thành trong nó những tình cảm hết sức tốt lành:

Sống như sông như suối

Lên thác xuống ghềnh

Không lo cực nhọc.

Phép so sánh “Sống như sông như suối” gợi vẻ đẹp tâm hồn và ý chí của người đồng mình. Gian khó là thế, họ vẫn tràn đầy sinh lực, tâm hồn lãng mạn, khoáng đạt như hình ảnh đại ngàn của sông núi. Tình cảm của họ trong trẻo, dạt dào như dòng suối, con sống trước niềm tin yêu cuộc sống, tin yêu con người. Y Phương gợi ý một cách sống và làm việc cho con mình đó đây chính là hãy sống như tự nhiên, hãy biết mềm dẻo, linh hoạt như con suối của bản làng để vượt qua những khó khăn trên đường đời. Đời người giống như một dòng sông chảy từ núi xuống biển cả. Dòng sông ấy có đoạn gầm gào thác đổ, có đoạn sôi sục lũ rừng nhưng rồi cũng đến cái êm ả của đồng bằng và cuối cùng là vẻ mênh mông của biển cả. Đó chính là quy luật của tự nhiên. Con người hãy như dòng sông, biết chấp nhận tất cả thác ghềnh đó: “Sống như sông như suối”. Nhưng khi băng qua những thác ghềnh đó, con người phải học lấy những bài học trong đó. Được vậy thì mọi khó khăn, gian nguy cũng không làm ta nản chí

Vượt lên trên tất cả những khó khăn, gian khổ của quê hương, là sự hình thành trong con người đứa con nghị lực biết vượt lên hoàn cảnh để trụ vững, để đối mặt với những gian nan phía trước. Thành ngữ “lên thác xuống ghềnh” được tác giả sử dụng ở đây khá đặc sắc, nó tạo âm hưởng thơ thêm trúc trắc, giàu sức gợi. Nhịp thơ tuôn chảy mạnh mẽ gợi lên sức sống bền bỉ, mãnh liệt của con người trước vất vả, cực nhọc của cuộc đời. Nhà thơ biết rằng, con cũng như tất cả mọi người đều phải sở hữu những ước mơ, hoài bão như sông suối vì tất cả đều hướng ra phía nơi mênh mông của biển khơi để thấy cuộc đời rộng lớn và có nhiều điều cần phải học hỏi hơn.Bởi bên cạnh đứa trẻ, những người “đồng mình” là nhân chứng sống để con học tập và tự tu rèn bản thân mình. Dù có đi bất kỳ phương trời nào thì quê hương vẫn luôn là điểm tựa và niềm tin để con nhớ về và có thêm sức mạnh.

Y Phương là nhà thơ dân tộc Tày, người gắn bó đến sâu nặng với thung lũng Tày Cô Sầu đầy thương nhớ. Chính vì vậy, trong bài thơ “Nói với con”, từng câu, từng chữ thấm đượm lời ăn tiếng nói của quê hương xứ sở. Hình ảnh thơ bình dị, quen thuộc và gần gũi. Mạch thơ hết sức tự nhiên, lời thơ như lời trò chuyện, thủ thỉ, tâm tình của người cha đối với con. Nhờ vậy, từ một đề tài quen thuộc, bài thơ đã thể hiện được một tư tưởng với những giá trị giáo dục hết sức lớn lao về cuộc sống và con người.

Bài thơ là một lối nhỏ để người đọc hiểu thêm về tâm hồn của người cha yêu thương con đến nhường nào. Thông qua đó, bài thơ truyền tải thông điệp hãy biết tự hào con người mình, dân tộc bản địa của mình dù là nghèo khổ, khó khăn, hãy biết trân trọng và yêu quý gia đình của mình khi còn tồn tại.


Thứ Sáu, 26 tháng 6, 2020

PHÂN TÍCH KHỔ 6 BÀI BẾP LỬA


Trong cuộc đời, ai cũng có riêng cho mình những kỉ niệm của một thời ấu thơ hồn nhiên, trong sáng. Những kỉ niệm ấy là những điều thiêng liêng, thân thiết nhất, nó có sức mạnh phi thường nâng đỡ con người suốt hành trình dài và rộng của cuộc đời. Bằng Việt cũng có riêng một ki niệm, đó chính là những tháng năm sống bên bà, cùng bà nhóm lên cái bếp lửa thân thương. Tình cảm và những kỉ niệm về bà được khơi gợi từ hình ảnh gần gũi bếp lửa. Những suy ngẫm sâu sắc và tình cảm biết ơn chân thành của người cháu đối với bà được truyền tải cảm xúc trong các câu thơ sau:

Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa

Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ

Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm

Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm,

Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi,

Nhóm niềm xôi gạo mới, sẻ chung vui,

Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ...

Ôi kỳ lạ và thiêng liêng – bếp lửa!

Bài thơ có nhan đề "Bếp lửa"- một hình ảnh rất đỗi quen thuộc trong đời sống con người Việt Nam thưở trước. Song với riêng nhà thơ, bếp lửa luôn gắn liền với hình ảnh của bà và những kỉ niệm tuổi thơ khóc nhọc. Năm khổ đầu của bài là những kỉ niệm như thế, hiện lên qua dòng hổi tưởng của nhà thơ, để đến khổ sáu, chúng ta được lắng nghe những suy ngẫm về bà với đầy tình yêu thương và lòng biết ơn sâu nặng.

Được bà chăm sóc, được bà dạy, bà chứng kiến sự trưởng thành của cháu. Như một thước phim quay chậm, mọi kỷ niệm ùa về trong tâm trí tác giả khiến ông bồi hồi, xúc động. Hồi ức vẫn còn đó, hiện tại trong tâm trí nhà thơ chợt xuất hiện những dòng suy ngẫm với triết lí sâu xa:

Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa

Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ

Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm.

Nhà thơ đã gói ghém cả cuộc đời bà bằng một câu thơ với nghệ thuật đảo ngữ "Lận đận đời bà biết mấynắng mưa". Cảm xúc "biết mấy nắng mưa" được lặp lại giống ở khổ một, đầu bài thơ: "Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.". Có phải đó là lời nhấn mạnh, sự tô đậm những nỗi cơ cực của cuộc đời bà? Cuộc đời người bà gói gọn trong hai chữ "lận đận". Bao nhiêu khó khăn, vất vả, gian nan, "biết mấy nắng mưa", bà âm thầm chịu đựng để được lo lắng, chăm sóc cho con cháu. Hai chữ "lận đận"với cụm từ "biết mấy nắng mưa"đã gợi ra sự dài dặc của thời gian, sự vất vả, nhọc nhằn, khổ cực của một đời người. Và qua “mấy chục năm", "đến tận bây giờ” bà vẫn chẳng nghỉ ngơi. Bà vẫn giữ thói quen cũ "dậy sớm" "nhóm bếp lửa" - cũng như giữ trọn tình yêu thương mà bà đã dành cho con, cho cháu mấy chục năm qua. Cuộc đời bà cứ gian nan, vất vả như vậy tưởng chừng như không bao giờ dứt. Đọc các dòng thơ, người đọc không khỏi nghẹn ngào bởi sự hy sinh, sự tảo tần “lận đận” mưa nắng của người bà.Chan chứa trong các câu thơ là tình thương và niềm biết ơn vô hạn của cháu.

Bà là người thức khuya dậy sớm, chịu nhiều vất vả nhất trong nhà nhưng bà cũng chính là người nhóm lên trong gia đình ngọn lửa của tình yêu thương:

Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm

Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi

Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui

Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ.

Đôi tay gầy guộc ấy đã chống đỡ biết bao nắng mưa, đã nuôi dưỡng cháu, đã nhóm lên ngọn lửa của tình yêu và hy vọng bằng cả tấm lòng đôn hậu của bà. Điệp từ "nhóm"được nhắc lại bốn lẩn, gợi nhịp bập bùng của ánh lửa và sự bển bỉ của lòng bà, như lời khẳng định: bà chính là người nhóm lên trong lòng cháu ngọn lửa của tình yêu thương, của đức hy sinh cao cả.Bà đã "nhóm"lên ngọn lửa thực để sưởi ấm cho cháu, để nấu cho cháu từng bữa ăn, nào "khoai sắn ngọt bùi", nào "xôi gạo mới",…Cũng chính từ những yêu thương, săn sóc chu đáo, ân cần, từ sự ấm áp của đôi bàn tay bà trong những ngày thiếu thốn, khổ cực mà "niểm yêu thương"đã được thắp và thổi bùng lên trong cháu. Khi nhóm lên "lửa ấp iu nồng đượm", bà đã dạy cho cháu tình yêu thương những người ruột thịt. Nhóm tình quê "khoai sắn ngọt bùi", bà dạy cháu tình yêu thương xóm làng, yêu mảnh đất quê nghèo. "Nhóm nồi xôi gạo mới mẻ chung vui", bà dạy cháu phải luôn mở lòng ra với mọi người xung quanh. Bên cạnh đó, bà cũng nhắc nhở cháu rằng không bao giờ được quên đi những năm tháng nghĩa tình, những năm tháng khó khăn mà hai bà cháu đã cùng trải qua. Không chỉ nhóm lên ngọn lửa đó ấm nồng và cháy sáng mãi trong lòng mọi người. Người bà kì diệu ấy đã nhóm dậy, khơi dậy, giáo dục, bồi đắp cho người cháu về cả thể xác lẫn tâm hồn, về ước mơ, lẽ sống của "tâm tình tuổi nhỏ". Cháu chẳng thể lớn khôn nếu không được nuôi dưỡng bằng ngọn lửa, bằng chính tấm lòng của người bà rất đỗi yêu thương. Người bà có một sức mạnh kì diệu từ trái tim, đã nhóm dậy trong tâm hồn đứa cháu biết bao tình cảm cao đẹp, chắp cánh cho ước mơ bay cao, bay xa để mai này cháu khôn lớn thành người.Cháu đã trưởng thành từ bếp lửa của bà. Từ cuộc sống nghèo khổ, bà ươm mầm ước mơ cho cháu đi du học phương xa. Tất cả những gì cháu có được ngày hôm nay chính là nhờ ngọn lửa trong bà, ngọn lửa ấy chắp cánh cho người cháu tự tin bay vào cuộc đời cao rộng.

Từ nơi phương xa, cháu vẫn luôn nhớ về bà với niềm xúc động mãnh liệt:

Ôi kì lạ và thiêng liêng- bếp lửa!

Câu thơ cảm thán với cấu trúc đảo thể hiện sự ngạc nhiên, ngỡ ngàng như vừa khám phá ra một điều kỳ diệu giữa cuộc đời bình dị. Âm điệu câu thơ dạt dào, lan tỏa như lửa ấm hay đó chính là cảm xúc đang dâng trào trong trái tim để rồi nhà thơ. Câu thơ chỉ có tám chữ mà có sức khái quát cả suy nghĩ lẫn tình cảm của tác giả dành cho hình ảnh bếp lửa gắn liền với hình ảnh người bà - người giữ lửa, nhóm lửa, truyền lửa, người xây đắp nên tuổi thơ cho cháu. Nó kì lạ là bởi đã cháy lên trong mọi hoàn cảnh, dù là ngày nắng hay ngày mưa, lúc cuộc sống ấn no hay lúc giặc càn giặc quét. Từ đôi bàn tay cằn cỗi của bà, ngọn lửa bùng lên làm nên sống, thắp lên niềm tin cuộc đời. Nó thiêng liêng là bởi nó là ngọn lửa trong bếp mọi nhà, là niềm tin thánh thiện của con người về vị thần lửa tối cao luôn mang lại cuộc sống ấm no và che chở cho con người. Nó gắn chặt với đức hi sinh, cuộc đời tần tảo và tình cảm lớn lao của bà dành cho cháu. Từ ngọn lửa của bà, cháu nhận ra cả một niềm tin dai dẳng về ngày mai, cháu hiểu được linh hồn của một dân tộc vất vả, gian lao mà tình nghĩa. "Bếp lửa" "kì lạ và thiêng liêng"hay chính tình bà nặng sâu và diệu kì đến thế? Bà với "bếp lửa" đã cho cháu một tuổi thơ dẫu có khó khăn, cơ cực nhưng vẫn vẹn tròn tình thương.Bà và bếp lửa đã trở thành một mảnh tâm hồn, một phần không thể thiếu trong đời sống tinh thần của tác giả dù cho lúc này, hai bà cháu đang chia xa. Câu thơ chứa chan tình yêu, niềm kính trọng, biết ơn của cháu trước sự cao cả, phi thường của bà.

Bằng sự kết hợp hài hòa giữa các phương thức tự sự, biểu cảm, miêu tả, hình ảnh vừa chân thực vừa giàu ý nghĩa biểu tượng, nhà thơ đã thể hiện rất chân thành, cảm động về tình cảm bà cháu thiêng liêng, ấm áp. Chắc chắn, cháu sẽ không bao giờ quên và chẳng thể nào quên được vì đó chính là nguồn cội, là nơi mà tuổi thơ của cháu được nuôi dưỡng để lớn lên từ đó. Bà và quê hương yêu dấu là điểm tựa, là chỗ dựa tinh thần vững chắc cho cháu trên mỗi bước đường đời.

“Bếp lửa” của Bằng Việt là những hồi tưởng và suy ngẫm đẹp đẽ của người cháu đã trưởng thành, nhớ lại những kỉ niệm đầy xúc động về người bà và tình bà cháu. Đồng thời, nhà thơ cũng gửi đến người đọc một thông điệp ý nghĩa: kỉ niệm tuổi thơ luôn tỏa sáng và nâng đỡ con người trên hành trình cuộc sống. Tình cảm gia đình là cơ sở, là cội nguồn cho tinh yêu quê hương, đất nước.

 

 

 

 


PHÂN TÍCH KHỔ 3 BÀI THƠ BẾP LỬA


    Mỗi người sinh ra ai cũng có cho mình những kỷ niệm về một thời tuổi thơ. Vui có buồn có, sướng vui có thì khó nhọc cũng có. Nhà thơ Bằng Việt cũng vậy, với riêng ông, cả một thời tuổi thơ là những gì cả cuộc đời sau đó ông đã không thể nào quên, những kỷ niệm bên người bà dấu yêu, và đó là lý do mà bài thơ Bếp lửa ra đời. “Bếp lửa” không chỉ làm ấm tình cảm bà cháu mà còn sưởi ấm một đời người... "Bếp lửa” hay cùng chính là bà đang bên cháu, hình ảnh bà đang hiện về lung linh qua ánh lửa. Ở một đất nước xa xôi, cô quạnh, bao nhiêu ký ức về người bà một đời khắc khổ nuôi ông lớn khôn hiện hữu về như mới ngày hôm qua:

Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa

Tu hú kêu trên những cánh đồng xa

Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà

Bà hay kể những ngày ở Huế

Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!

Mẹ cùng cha công tác bận không về

Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe

Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học

Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc,

Tu hú ơi! chẳng đến ở cùng bà

Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?

   Bài thơ đã gợi lại những kỉ niệm đầy xúc động về người bà và tình bà cháu, đồng thời thể hiện lòng kính yêu, trân trọng và biết ơn của người cháu với bà, với gia đình, quê hương, đất nước. Tình cảm và những kỉ niệm về bà được khơi gợi từ hình ảnh bếp lửa. Ở nơi đất khách quê người, bắt gặp hình ảnh bếp lửa, tác giả chợt nhớ về người bà. Lớn lên từ những câu chuyện bà kể, từ những việc bà dạy cháu, từ những bài học của bà, mọi thứ như đang ở ngay trước mắt.

Giọng thơ thủ thỉ như kể một câu chuyện cổ tích. Đó là những năm tháng của cuộc sống gian khổ, cơ cực mà đứa cháu lớn lên trong sự che chở, đùm bọc, cưu mang của người bà.

Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa

Tu hú kêu trên những cánh đồng xa

Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà

Bà hay kể những ngày ở Huế

Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!

Tám năm. Tám năm kháng chiến. Tám năm khó khăn. Tám năm trời dài đằng đẵng với bao kỉ niệm buồn vui bên bà, bên bếp lửa. Ngọn lửa ấy được nhóm lên bằng bàn tay của hai bà cháu, vì cuộc sống cơm áo cực nhọc đời thường. Ngọn lửa ấy, bếp lửa ấy là của tình yêu thương “ấp iu nồng đượm” mà bà đã sưởi ấm tâm hồn đứa cháu ngây thơ từ những ngày xửa ngày xưa, khi cháu vừa “lên bốn tuổi”. Nếu trong hồi ức lúc tác giả lên bốn tuổi, ấn tượng đậm nét nhất là mùi khói thì ở đây, ấn tượng ấy là tiếng chim tu hú. Tiếng “tu hú” lúc mơ màng, lúc văng vẳng từ những cánh đồng xa lâng lâng lòng người cháu xa xứ. Tiếng chim tu hú khắc khoải làm cho dòng kỉ niệm của đứa cháu trải dài hơn, rộng hơn trong cái không gian xa thẳm của nỗi nhớ thương.Tiếng chim tu hú vang lên vừa gợi lại trong tâm hồn tác giả bao kỉ niệm khó quên, vừa dấy lên nỗi nhớ quê hương, nhớ nhà, nhớ bà, nhớ bếp lửa. Tiếng chim tu hú gợi về những buổi mai, hai bà cháu cùng nhau nhóm lửa giữa không gian mênh mông, cô quạnh. Tiếng chim lúc mơ hồ, vang vọng từ “những cánh đồng xa”, lúc lại gần gũi, xót xa, nghe “sao mà tha thiết thế”. Tiếng chim tu hú như giục giã, khắc khoải điều gì da diết lắm khiến cho lòng người trỗi dậy những hoài niệm, nhớ mong. Tiếng chim tu hú chính là hình ảnh của quê hương, nơi đó có người bà dù khó nhọc nhưng giàu tình yêu thương con cháu.

  Tiếng kêu tha thiết của chim tu hú trên những cánh đồng xa gợi nhớ gợi thương, làm nhà thơ bồi hồi sống lại những kỉ niệm sâu sắc thời thơ bé, bâng khuâng nhớ lại những chuyện kể của bà. “Tám năm ròng…” – một thời gian khổ đã qua, nhưng cháu làm sao quên được? Cháu hồi tưởng, cháu hỏi bà hay tư hỏi mình? Nhà thơ đang kể chợt quay sang trò chuyện với bà, tưởng như bà đang ngồi đối diện “bà còn nhớ không bà”. Bởi chỉ có hai bà cháu mới hiểu hết ý nghĩa của âm thanh ấy. Tiếng chim tu hú phải da diết, khắc khoải lắm, nên cháu khó quên và bồi hồi xúc động khi nhớ lại. Bà có nhớ những câu chuyện bà vẫn thường kể, những câu chuyện cổ tích hằng đêm, dưới ánh trăng sáng, cháu ngồi trong lòng bà, đu đưa trên chiếc võng, vừa nghe bà kể vừa mân mê những sợi tóc bạc của bà hay những câu chuyện về các anh bộ đội cụ Hồ dũng cảm, xả thân vì nước, vì dân? Bà có nhớ những việc làm tận tụy đầy yêu thương của bà dành cho cháu, nhất là trong những buổi chiều hai bà cháu ngồi nhóm bếp?

Làm sao cháu có thể quên được hồi ấy:

Mẹ cùng cha công tác bận không về

Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe

Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học

Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc.

Có lẽ khi tiếng chim tu hú từ xa vọng lại, hai bà cháu mới cảm nhận rõ rệt nhất sự thiếu vắng trong ngôi nhà của mình. Đứa trẻ nào không khao khát tiếng nói của cha, hơi ấm của mẹ? Người bà nào chẳng ước mong tuổi già có con cháu quây quần bên cạnh? Vì hoàn cảnh chiến đấu, bố mẹ công tác xa không về, bà nuôi cháu trong trống vắng, quạnh hiu. Tình thương của bà là sự bảo ban, chăm sóc không khác gì công ơn sinh thành và nuôi dưỡng. Đối với tác giả, bà chính là mẹ, là cha, là người thầy dạy dỗ cháu nên người.

Hàng loạt động từ được liệt kê: bà bảo, bà dạy, bà chăm. Cháu được dạy dỗ, chăm chút trong tình yêu thương của bà. Bà dạy cháu những bài học quý giá về đạo làm người, dạy cho cháu niềm tự hào về dân tộc ta, một dân tộc bất khuất, kiên cường, không bao giờ chịu khuất phục để bảo vệ quê hương Việt Nam. Con đi xa, bao nhiêu yêu thương bà dành hết cho đứa cháu nhỏ. Cháu cũng cảm nhận được tình yêu thương đó và thấu hiểu nỗi vất vả của bà. Trong trái tim ngây thơ, cháu thầm trách chim tu hú sao chẳng đến ở cùng bà cho vui nhà vui cửa, cho bà vợi bớt nhớ mong. Điệp từ bà, cháu lặp đi lặp lại, góp phần diễn tả cảnh bà cháu quấn quýt không rời. Dù thiếu vắng sự chăm sóc của mẹ cha nhưng tình yêu thương của bà đã bù đắp tất cả. Đối với cháu, bà và tình yêu thương sâu lắng của bà dành cho cháu sẽ luôn là một chỗ dựa tinh thần vững chắc, là điểm tựa của tâm hồn cháu mỗi khi cháu gặp thất bại, khó khăn. Cháu thật diễm phúc khi có một người bà như thế!  Đến tận bây giờ, dù đang du học nơi xứ người, đang đứng dưới trời tiết giá lạnh, cháu vẫn cảm nhận được cái ấm áp của tình yêu thương, của sự vỗ về, chăm sóc của bà. Càng nghĩ về bà, cháu lại càng thương bà hơn. Cháu luôn ghi lòng tạc dạ đức công ơn trời bể ấy của bà: “Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc”. Chỉ một mình chữ “thương” thôi cũng đã đủ gói ghém tất thảy tình yêu thương, sự kính trọng và niềm biết ơn sâu nặng mà người cháu dành cho bà của mình.Thương bà ở một mình dưới túp lều tranh xiêu vẹo, thương bà mỗi ngày một mình nhóm lửa, lòng luôn cầu mong đứa cháu được bình an.

Từ tình yêu thương sâu sắc của mình dành cho bà, tác giả quay sang khẽ trách con chim tu hú:

Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà

Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?

Tác giả đang trách chim tu hú mãi bay xa ngoài các cánh đồng, không đến ở cùng với bà đỡ cô quạnh, đỡ buồn tủi hay tác giả đang trách sự vô tâm, bất lực của chính bản thân mình? Câu thơ như một lời than thở thật tự nhiên, cảm động vô cùng chân thật, thể hiện nỗi nhớ thương da diết người bà của đứa cháu. Thời gian cứ trôi qua, bà vẫn xa đằng đẵng…Tiếng chim tu hú khép lại khổ thơ mà cứ như xoáy sâu vào tâm trí kẻ xa quê đang dáo dác kiếm tìm những kỉ niệm yêu thương… Âm điệu trong khổ thơ thật da diết, trầm buồn, phù hợp với tâm trạng của thi sĩ: nỗi nhớ quê, nhớ bà da diết, sâu đậm, day dứt…

Bài thơ sáng tác khi tác giả đang học ở Liên Xô, nơi có nhiều bếp ga, bếp điện. Nhưng người cháu không quên bếp lửa quê nhà. Nhớ đến bếp lửa là nhớ đến bà. Nhớ đến bà là nhớ đến quê hương, nguồn cội. Nhớ quê hương nơi xứ lạ, đó chính là tình yêu Tổ Quốc!                 

Có thể nói, trong bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt, bà là Tổ Quốc, bà là Quê hương! Tình yêu thương và lòng biết ơn bà chính là biểu hiện sâu sắc của lòng yêu thương, gắn bó với gia đình, quê hương. Cũng là khởi đầu của tình yêu đất nước, con người. Kí ức về làng quê, về những người thân thương trong không gian ấu thơ luôn là hành trang vững chắc để người ta mang theo trong tim qua những nẻo đường đời… Nó giúp người ta thêm mạnh mẽ hơn để đối mặt với trăm chiều giông tố…     


Thứ Bảy, 13 tháng 6, 2020

VĂN HÓA ĐỌC SÁCH CỦA GIỚI TRẺ NGÀY NAY


Triết gia Thomas Carlyle (Xcốt-len) đã từng phát biểu: “Tất cả những gì con người đã làm, nghĩ hoặc trở thành: được bảo tồn một cách kỳ diệu trên những trang sách.”

Quả thật, sách là kho tàng tri thức của nhân loại. Sách là một phương tiện dùng để ghi chép, lưu giữ và lưu truyền tri thức trong xã hội loài người. Sách đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển tri thức. Mỗi quyển sách là một động lực phát triển văn minh xã hội.

Thế nhưng, đã xa rồi cái thời mỗi người có một, hai cuốn sách “gối đầu giường”, thời đại công nghệ thông tin bùng nổ, văn hóa nghe- nhìn “lấn át” văn hóa đọc đã làm cho giới trẻ ngày nay xa dần với thói quen đọc sách mỗi ngày. Xu hướng toàn cầu hóa diễn ra ồ ạt, khiến cho giới trẻ ngày nay không chịu đọc sách. Một thực tế cần phải xác nhận là giới trẻ ngày nay không còn yêu mến sách nữa. Việc đọc sách vì thế cũng rất hạn chế.

Trước sự phát triển của cuộc sống, con người nguyên thủy nhận thức rõ tầm quan trọng của tri thức. Họ tìm cách lưu giữ những thông tin mình đã nhận thức được để lại cho các thế hệ sau. Và sách đã ra đời. Có thể nói từ khi có sách thì nền văn minh của loài người mới được xác thực.

Thực tế, tác dụng của việc đọc sách không chỉ dừng lại ở việc tiếp thu kiến thức mà còn là một biện pháp để hoàn thiện con người, rèn luyện cho người đọc những kĩ năng, tình cảm và thói quen hữu ích. Với ý nghĩa này, các loại sách văn hóa học, văn chương, lịch sử, triết học không chỉ là những loại sách thuần chuyên môn mà đã trở thành sách chung cho mọi người, cho xã hội.

“Văn hóa đọc” hiểu nôm na chính là thái độ, là cách ứng xử của mỗi người với tri thức sách vở. Văn hóa đọc ngày nay không đủ sức thu hút đông đảo các bạn trẻ: thư viện, hiệu sách vắng bóng người tìm đọc, nhường chỗ cho nhà hàng, quán cà phê, karaoke, quán internet… “lên ngôi”. Ngoài sách giáo khoa và sách tham khảo dùng trong trường học, hiếm có bạn học sinh nào được hỏi mà trả lời dùng tiền để mua các loại sách khác hoặc dùng thời gian rảnh rỗi để tới thư viện, hiệu sách tìm đọc nhiều loại sách khác nhau.

Công nghệ điện tử số làm cho hình thức và phương thức đọc sách có nhiều thay đổi. Việc đọc sách ngày nay không nhất thiết là đọc trang sách in hay ngồi trong phòng, mọi người có thể đọc trang sách điện tử bất cứ lúc nào và bất cứ đâu. Sự phát triển rầm rộ của các ngành công nghệ giải trí với những chương trình mới lạ, đặc sắc thu hút giới trẻ theo dõi, từ đó họ lơ là việc đọc sách.

Một thực tế nữa là giới trẻ ngày nay thường yêu thích những thứ có tính thuần giải trí như game, mạng xã hội, thần tượng, …Việc tiếp cận và say mê nguồn thông tin này khiến giới trẻ trở nên lười biếng, mất dần các thói quen bổ ích. Chẳng hạn như là việc đọc sách hằng ngày.

Gia đình, nhà trường và xã hội thiếu quan tâm đến việc phát triển tâm hồn và năng lực trí tuệ cho con trẻ. Phụ huynh vì bận rội với công việc mà không quan tâm khuyến khích con cái đọc sách. Nhà trường không có kế hoạch đọc sách, hay không gian đọc sách cho học sinh. Xã hội không có chương trình khuyến khích, cổ động việc đọc sách trong toàn dân để nâng cao dân trí. Và dường như, khôi phục thói quen đọc sách trong toàn dân chỉ nằm trên khẩu hiệu.

Ngoài lý do chủ quan, bàn tới văn hóa đọc của các bạn trẻ cũng phải đề cập tới lý do khách quan về vấn đề xuất bản, kinh doanh sách. Nhiều cuốn sách xuất bản với những giá trị nội dung chưa thực sự sâu sắc, lành mạnh, hoặc chủ yếu sưu tầm, tập hợp của nhiều sách khác làm thị trường sách trở nên hỗn độn, phức tạp. Có cuốn sách dầy cộp, giá “lên trời”, có cuốn là sách lậu, kém chất lượng cũng là nguyên nhân ảnh hướng đến văn hóa đọc của giới trẻ hiện nay. Thị trường sách tại tỉnh cũng chưa thực sự phong phú, nhiều đầu sách hay, có giá trị nhưng rất khó để tìm đọc, tìm mua do không được bày bán trên thị trường.

Không có thói quen đọc sách đã đành, có nhiều bạn trẻ đôi lần đọc sách nhưng là đọc không chọn lọc, đọc hời hợt, đọc theo phong trào và đọc không ứng dụng. Những loại sách về văn hóa, nghệ thuật có tác dụng giáo dục tư tưởng, thẩm mỹ bị các loại truyện tranh nội dung đơn giản, những tiểu thuyết ngôn tình ủy mị, thậm chí thiếu lành mạnh “truất ngôi”.

Không muốn đọc sách khiến cho việc học tập cũng trở nên khó khăn, tri thức hết sức hạn chế, hiểu biết hạn hẹp. Một hậu quả dễ thấy nhất là giới trẻ ngày nay có năng lực đọc rất kém, viết sai chính tả nhiều, không phân biệt được lỗi phát âm và diễn dạt vụng về, thô lỗ.

Không đọc sách làm cho tâm hồn khô héo, thiếu cảm xúc và những rung động chân thành. Giới trẻ ngày càng trở nên cộc cằn, ứng xử thiếu lịch sự, thường vô lễ với thầy cô và người lớn. Việc ít đọc sách khiến giới trẻ không biết cảm thông, chia sẻ hay yêu thương; không biết tự kiềm chế bản thân làm nảy sinh ngày càng nhiều các vụ bạo lực xảy ra trong học đường.

Không những ít đọc hoặc không đọc sách, thiếu sự tôn trọng đối với sách, nhiều người còn tỏ ra xem thường sách, có hành vi hủy hoại sách. Những người như thế thật đáng chê trách.

Đọc sách là thể hiện lòng biết ơn đối với người xưa và trách nhiệm đối với bản thân, gia đình và đất nước. hãy lựa chọn cho mình những quyển sách hay và đọc nó hằng ngày. Đó chính là con đường đúng đắn dẫn bước ta đến cánh cửa của tương lai.

Xin trích dẫn câu nói của nhà chính trị Mahatma Gandhi (Ấn Độ) để thấy được giá trị của việc đọc sách, đặc biệt là với các bạn trẻ, thay cho lời kết - “Không cần phải đốt sách để phá hủy một nền văn hóa. Chỉ cần buộc người ta ngừng đọc mà thôi”.

Theo The Ivy-League Vietnam


Thứ Năm, 11 tháng 6, 2020

DÀN Ý PHÂN TÍCH ĐOẠN TRÍCH KIỀU Ở LẦU NGƯNG BÍCH CỦA NGUYỄN DU

DÀN Ý PHÂN TÍCH ĐOẠN TRÍCH KIỀU Ở LẦU NGƯNG BÍCH CỦA NGUYỄN DU

A. Mở bài

- Tác phẩm “Truyện Kiều” là một tuyệt phẩm của tác giả Nguyễn Du. Ông đã đóng góp cho nền thi ca Việt Nam cổ đại một tác phẩm tuyệt vời có sức sáng tạo, vang xa tới nhiều thế hệ sau.

- Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là một đoạn trích hay nó đã lột tả được tâm trạng của Thúy Kiều vô cùng tinh tế và sâu sắc qua nghệ thuật tả cảnh ngụ tình.

(Trong kho tàng văn học Việt Nam, tác phẩm “Truyện Kiều” của Nguyễn Du là một kiệt tác vô giá. Đây là một tác phẩm đạt được những thành tựu to lớn về cả phương diện nội dung và những đặc sắc về nghệ thuật. Riêng với đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”, đại thi hào dân tộc đã cho thấy tài năng của mình trong việc vận dụng nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật và bút pháp tả cảnh ngụ tình để thể hiện tâm trạng cô đơn và những vẻ đẹp đáng quý của Thúy Kiều.)

B. Thân bài

1. Khái quát

– Sau khi gia đình lâm biến và bị Mã Giám Sinh dùng mưu hèn kế bẩn, gạ gẫm lừa tình rồi bị bán vào thanh lâu, Thúy Kiều đã định tự kết liễu đời mình, nhưng kế hoạch của nàng không thành công.

– Đây là tâm trạng của Kiều những ngày đầu ở lầu Ngưng Bích, một tâm trạng sống không bằng chết, cô đơn chán nản cuộc đời và mất lòng tin ở con người.

(Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích khắc họa đậm nét tâm trạng nhớ thương, buồn tủi của nàng trong cảnh hoang vắng, cô độc. Đoạn thơ là một bức tranh tâm tình. Nét trữ tình đằm thắm nổi lên từ bức tranh là tình cảm nhớ thương tha thiết đối với cha mẹ và người yêu của một người con gái tài hoa phải sống đày đọa trong một xã hội bất công. Người đọc không chỉ cảm thương với nỗi buồn của nhân vật, càng lắng sâu vào từng ý từng lời của đoạn thơ lại thấy từ nỗi buồn vụt lên một tiếng kêu thương, một lời tố cáo.)

2. Phân tích

a. 6 câu thơ đầu: Hoàn cảnh cô đơn, tội nghiệp của Thúy Kiều

* 4 câu thơ đầu: bức họa về hoàn cảnh, không gian nơi Thúy Kiều ở

- Khung cảnh thiên nhiên được miêu tả là khung cảnh trước lầu Ngưng Bích qua điểm nhìn từ trên cao, từ tâm trạng của Kiều.

+ “Khóa xuân”:  Kiều Bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, là sự mỉa mai, chua xót cho thân phận nàng Kiều.

+ Các từ ngữ “Non xa- trăng gần” đối nhau tạo không gian xa rộng, nơi đây Kiều một thân một mình tuyệt nhiên không có ai bầu bạn.

+ Tác giả sử dụng từ ghép “bốn bề” đứng cạnh từ láy “bát ngát” gợi không gian rộng lớn không một bóng người. Kiều trơ trọi giữa thời gian mênh mông, không gian hoang vắng trong hoàn cảnh tha hương, cô đơn.

+  Hình ảnh "cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia" làm nổi bật hơn sự nhỏ bé và nỗi cô đơn đang chế ngự trong tâm hồn của Kiều. Nỗi xót xa khôn nguôi về những kiếp người “tài hoa bạc mệnh”

=> Bút pháp chấm phá đặc sắc, khung cảnh làm nền cho Kiều thổ lộ tâm tình. Thiên nhiên rộng lớn mà con người nhỏ bé, đơn côi

* 2 câu thơ sau: Tâm tình của Kiều trong cuộc sống bị giam cầm tù đày cả về tâm hồn, lẫn thể xác.

- Hai từ láy “bẽ bàng” đã lột tả được mọi sự ê chề, đau đớn của Thúy Kiều, khi cô vừa bị Mã Giám Sinh lừa tình, rồi lại còn bị bán vào lầu xanh. Nỗi buồn đau không người chia sẻ.

+ Thành ngữ “mây sớm đèn khuya” chỉ thời gian tuần hoàn khép kín, một mình Kiều nơi đây làm nổi bật nỗi bơ vơ tuyệ vọng.

+ So sánh “Nửa tình nửa cảnh như chia tâm lòng”: nỗi lòng Kiều như bị chia ra làm hai, nửa dành cho cảnh nửa dành cho tình.

_ Chia tấm lòng là sự ngổn ngang của tâm trạng không biết đi đâu về đâu.

_  Cảnh vật cũng như người đều mang cảnh u sầu, trống trải, cô đơn khắc khoải…

Sáu câu thơ đầu được xây dựng bằng bút pháp tả cảnh ngụ tình, tả cảnh hoang vắng quạnh hiu để khắc họa rõ tâm trạng cô đơn tuyệt đối của Kiều.

b. 8 câu thơ tiếp: Nỗi nhớ người yêu và cha mẹ của Kiều

* Nỗi nhớ người yêu (4 câu đầu)

- Chữ “tưởng”: hồi tưởng, nhớ lại

+ Kiều nhớ lại đêm thề nguyền dưới trăng: “chén đồng” tức cũng đang dằn vặt vì không thể cùng người thương thực hiện được lời thề ước ngày xưa.

+  Kiều nhớ về Kim Trọng trong đau đớn cho cảnh ngộ ngang trái của mình vì ở nơi xa Kim Trọng không biết Kiều đã bán mình chuộc cha mà vẫn đang mong chờ tin tức.

+ Hai động từ “trông, chờ” được tách ra đi kèm với các danh từ chỉ thời là “rày, mai”: Thúy Kiều lo chàng Kim cũng nhớ Kiều tha thiết.

- Thành ngữ biến thể “bên trời góc bể”: gợi ra không gian quê người xa xôi, cách trở.

+ Ẩn dụ “tấm son” kết hợp với câu hỏi tu từ “gột rửa bao giờ cho phai” tạo ra hai cách hiểu: thứ nhất tấm lòng Kiều không bao giờ quên được chàng Kim và thứ hai là tấm thân của Kiều đã bị làm nhục bao giờ mới gột rửa được.

Kiều muốn bày tỏ cùng Kim Trọng về việc Trọng có biết nàng đau khổ đến nhường nào cũng như khẳng định sự thủy chung son sắt với người yêu.

* Nỗi nhớ cha mẹ (4 câu tiếp theo)

- Động từ “xót” lại kết hợp với câu hỏi tutừ: thể hiện sự đau đớn của nàng khi nhớ về cha mẹ.

+ Kiều xót khi cha mẹ già yếu mà ngày ngày vẫn tựa cửa ngóng tin con.

+ Nhớ về cha mẹ, Kiều tưởng tượng ra cảnh giờ đây quê nhà đã đổi thay, cha mẹ không ai chăm sóc, đỡ đần lúc về già.

+ Thành ngữ “quạt nồng ấp lạnh”: làm nổi bật sự lo lắng của Kiều, rồi đây ai sẽ quạt cho cha mẹ ngủ khi oi nóng, ai sẽ ủ chăn ấm cho cha mẹ khi trời giá lạnh

- Thành ngữ “Quạt nồng ấp lạnh” và điển tích “Sân Lai”: nói lên tấm lòng hiếu thảo của Kiều.

+ Cụm từ “cách mấy nắng mưa”: vừa nói về thời gian xa cách qua bao mùa mưa nắng vừa nói lên sự tàn phá của tự nhiên, của nắng mưa đối với con người và cảnh vật.

+ Nhớ về cha mẹ, Kiều luôn nhớ đến công ơn sinh thành, dưỡng dục.

- Nguyễn Du đã miêu tả khách quan tâm trạng của Thúy Kiều vượt qua những định kiến của tư tưởng phong kiến: đặt chữ tình trước chữ hiếu. Kiều là người đáng thương nhất nhưng nàng vẫn quên mình để nghĩ đến người yêu, nghĩ đến cha mẹ.

Kiều là một con người hiếu thảo, thủy chung, vị tha, luôn nghĩ cho người khác trước khi nghĩ cho mình.

c. 8 câu thơ cuối: Tâm trạng đau buồn của Kiều và dự cảm trước tương lai sóng gió

-  Điệp từ “buồn trông”: được lặp lại 4 lần tạo âm hưởng trầm buồn, miêu tả nỗi buồn đang dâng lên từng lớp sóng trong lòng Thúy Kiều.

- Các hình ảnh ẩn dụ đứng sau điệp ngữ buồn trông, câu hỏi tu từ cùng các từ láy “thấp thoáng”, “xa xa”, “rầu rầu”, “ầm ầm” đã diễn tả nỗi buồn nhiều bề trong Kiều với nhiều sắc độ khác nhau.

- Cảnh vật thiên nhiên qua con mắt của Kiều gợi nỗi buồn da diết:

* 2 câu đầu: Bức tranh cửa bể lúc hoàng hôn. Cánh buồm thấp thoáng lúc ẩn lúc hiện nơi cửa bể chiều hôm gợi hành trình lưu lạc mờ mịt không biết đâu là bến bờ.

+ “cửa bể chiều hôm”: “cửa bể chiều hôm” gợi ra hành trình lưu lạc, nổi chìm của Kiều, gợi nhớ, gợi sầu cho kẻ li hương.

+ Hình ảnh “con thuyền” gợi sự cô đơn, Kiều đang nhớ gia đình, không biết bao giờ mới được trở về

Kiều nghĩ đến thân phận mình cũng đang bị dòng đời đưa đẩy, chua xót về thân phận bơ vơ, về số kiếp bất hạnh.

* 2 câu tiếp: Cảnh “ngọn nước mới sa” (nước đổ từ trên cao xuống), cuốn theo những cánh hoa bị sóng gió dập vùi, đẩy đưa vào cõi vô định. Cánh hoa trôi man mác trên ngọn nước mới sa gợi thân phận nhỏ bé, mỏng manh, lênh đênh trôi dạt trên dòng đời vô định không biết đi đâu về đâu.

+ “cánh hoa” mong manh trước sóng dập gió vùi, như thân phận người con gái chuẩn bị bước vào hành trình đoạn trường, oan khổ lưu li.

+ Từ “trôi”: chỉ sự vận động nhưng ở thế bị động, như số phận bị cuộc đời đẩy đưa.

=> Kiều nghĩ đến cuộc đời của mình phiêu bạt, không định hướng tương lai, số kiếp hoa trôi bèo nổi.  

* 2 câu tiếp: Cảnh “nội cỏ rầu rầu”, héo úa, không còn sức sống. Nội cỏ rầu rầu trải rộng nơi chân mây mặt đất gợi cuộc sống úa tàn, bi thương, vô vọng kéo dài không biết đến bao giờ.

+ Từ “Nội cỏ rầu rầu” được nhân hóa chỉ màu sắc của cỏ gợi cuộc sống héo hon, bi thảm, vô vọng kéo dài.

+ Màu xanh nhợt nhạt héo hắt của cảnh vật chính là ẩn dụ cho tương lai mờ mịt vô vọng của Kiều

Kiều có tâm trạng mệt mỏi chán chường, tuyệt vọng và cuộc sống vô vị, tẻ nhạt, cô quạnh với một tương lai mờ mịt, hãi hùng.

* 2 câu cuối: Cảnh giông bão sóng gió và niềm dự cảm tương lai. Hình ảnh “gió cuốn mặt duềnh” và âm thanh ầm ầm của tiếng sóng “kêu quanh ghế ngồi”gợi tâm trạng lo sợ hãi hùng như báo trước,chỉ ngay sau lúc này, dông bão của số phận sẽ nổi lên, xô đẩy, vùi dập cuộc đời Kiều.

+ Hình ảnh dữ dội xuất hiện: “gió cuốn mặt duyềnh”: ước lệ cho sóng gió cuộc đời đang bủa vây, cuốn lấy Kiều, những tai ương sắp ập đến đời nàng

+ Nhân hóa “sóng kêu”: gợi hình dung Kiều chới với giữa cái bất tận sục sôi trong lòng Kiều và quanh Kiều

+ “Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”: Trong lòng Kiều là tiếng sóng của buồn đau sợ hãi, dự cảm sóng gió dường như đang tiến đến rất gần Kiều

Nàng hốt hoảng, kinh hoàng- chới với như sắp bị rơi xuống vực thẳm sâu của định mệnh.

- Cảnh được miêu tả từ xa đến gần; màu sắc từ nhạt đến đậm; âm thanh từ tĩnh đến động; nỗi buồn từ man mác, mông lung đến lo âu, kinh sợ, dồn đến cơn bão táp của nội tâm, cực điểm của cảm xúc trong lòng Kiều.

3. Đánh giá:

-Ngòi bút của Nguyễn Du hết sức tinh tế khi tả cảnh cũng như khi ngụ tình. Mỗi cảnh thiên nhiên trong đoạn đã diễn tả một sắc thái tình cảm khác nhau của Kiều.

- Đoạn trích làm nổi bật tâm trạng buồn đau, cô đơn hiu quạnh trước khung cảnh thiên nhiên cùng bao nỗi nhớ ùa về trong lòng.

(Kiều ở lầu Ngưng là một bức tranh thiên nhiên liên tục thay đổi theo diễn biến tâm trạng – đó là bức tranh tâm cảnh nhuốm màu u buồn, đau đớn. Mỗi nét tưởng tượng trong ngòi bút của tác giả lại phản ánh một mức độ khác nhau trong tâm trạng của nàng Kiều. Đoạn trích đã giúp ta hiểu hơn về tâm hồn của người phụ nữ tài sắc mà bạc mệnh cũng như còn giúp người đọc cảm nhận được giá trị nhân văn sâu sắc.)

C. Kết bài

-  Đằng sau sự thành công của bút pháp tả cảnh ngụ tình đặc sắc của đoạn trích là một trái tim yêu thương vô hạn với con người, là sự đồng cảm, sẻ chia xót thương cho một kiếp hồng nhan bạc mệnh và ngầm tố cáo xã hội bất công đã chà đạp lên quyền sống và nhân phẩm con người.

(Với Kiều ở lầu Ngưng Bích, Nguyễn Du đã đạt đến trình độ biện chứng tâm hồn. Nhà thơ thấu hiểu con người đến tận thẳm sâu tiềm thức, làm lộ rõ sự vận động bên trong tâm hồn đớn đau, khổ nhục của Thúy Kiều rong những ngày đầu lưu lạc phải chịu nhiều khổ nhục, đắng cay. Lời thơ xiết mạnh vào từng giác quan người đọc, khiến người đọc càng thêm cảm thương cho số kiếp bèo dạt mây trôi của thiếu nữ tài sắc vẹn toàn mà bất hạnh, từ đó làm toát lên tấm lòng cảm thương vô hạn của tác giả đối với kiếp người nhỏ bé trong xã hội phong kiến vốn tồn tại nhiều bất công.)