DÀN Ý PHÂN TÍCH ĐOẠN
TRÍCH KIỀU Ở LẦU NGƯNG BÍCH CỦA NGUYỄN DU
A. Mở bài
- Tác phẩm “Truyện Kiều” là một tuyệt
phẩm của tác giả Nguyễn Du. Ông đã đóng góp cho nền thi ca Việt Nam cổ đại một tác
phẩm tuyệt vời có sức sáng tạo, vang xa tới nhiều thế hệ sau.
- Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”
là một đoạn trích hay nó đã lột tả được tâm trạng của Thúy Kiều vô cùng tinh tế
và sâu sắc qua nghệ thuật tả cảnh ngụ tình.
(Trong kho tàng văn học Việt Nam, tác
phẩm “Truyện Kiều” của Nguyễn Du là một kiệt tác vô giá. Đây là một tác phẩm đạt
được những thành tựu to lớn về cả phương diện nội dung và những đặc sắc về nghệ
thuật. Riêng với đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”, đại thi hào dân tộc đã cho
thấy tài năng của mình trong việc vận dụng nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật
và bút pháp tả cảnh ngụ tình để thể hiện tâm trạng cô đơn và những vẻ đẹp đáng
quý của Thúy Kiều.)
B. Thân bài
1. Khái quát
– Sau khi gia đình lâm biến và bị Mã
Giám Sinh dùng mưu hèn kế bẩn, gạ gẫm lừa tình rồi bị bán vào thanh lâu, Thúy
Kiều đã định tự kết liễu đời mình, nhưng kế hoạch của nàng không thành công.
– Đây là tâm trạng của Kiều những ngày
đầu ở lầu Ngưng Bích, một tâm trạng sống không bằng chết, cô đơn chán nản cuộc
đời và mất lòng tin ở con người.
(Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích khắc
họa đậm nét tâm trạng nhớ thương, buồn tủi của nàng trong cảnh hoang vắng, cô độc.
Đoạn thơ là một bức tranh tâm tình. Nét trữ tình đằm thắm nổi lên từ bức tranh
là tình cảm nhớ thương tha thiết đối với cha mẹ và người yêu của một người con
gái tài hoa phải sống đày đọa trong một xã hội bất công. Người đọc không chỉ cảm
thương với nỗi buồn của nhân vật, càng lắng sâu vào từng ý từng lời của đoạn
thơ lại thấy từ nỗi buồn vụt lên một tiếng kêu thương, một lời tố cáo.)
2. Phân tích
a. 6 câu thơ đầu: Hoàn cảnh cô đơn, tội nghiệp của Thúy Kiều
* 4 câu thơ đầu: bức họa về hoàn cảnh, không gian nơi Thúy Kiều
ở
- Khung cảnh thiên nhiên được miêu tả
là khung cảnh trước lầu Ngưng Bích qua điểm nhìn từ trên cao, từ tâm trạng của
Kiều.
+ “Khóa xuân”: Kiều Bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, là sự mỉa
mai, chua xót cho thân phận nàng Kiều.
+ Các từ ngữ “Non xa- trăng gần”
đối nhau tạo không gian xa rộng, nơi đây Kiều một thân một mình tuyệt nhiên
không có ai bầu bạn.
+ Tác giả sử dụng từ ghép “bốn bề”
đứng cạnh từ láy “bát ngát” gợi không gian rộng lớn không một bóng người.
Kiều trơ trọi giữa thời gian mênh mông, không gian hoang vắng trong hoàn cảnh
tha hương, cô đơn.
+ Hình ảnh "cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm
kia" làm nổi bật hơn sự nhỏ bé và nỗi cô đơn đang chế ngự trong tâm hồn
của Kiều. Nỗi xót xa khôn nguôi về những kiếp người “tài hoa bạc mệnh”
=> Bút pháp chấm phá đặc sắc, khung
cảnh làm nền cho Kiều thổ lộ tâm tình. Thiên nhiên rộng lớn mà con người nhỏ
bé, đơn côi
* 2 câu thơ sau: Tâm tình của Kiều trong cuộc sống bị giam cầm
tù đày cả về tâm hồn, lẫn thể xác.
- Hai từ láy “bẽ bàng” đã lột tả
được mọi sự ê chề, đau đớn của Thúy Kiều, khi cô vừa bị Mã Giám Sinh lừa tình,
rồi lại còn bị bán vào lầu xanh. Nỗi buồn đau không người chia sẻ.
+ Thành ngữ “mây sớm đèn khuya”
chỉ thời gian tuần hoàn khép kín, một mình Kiều nơi đây làm nổi bật nỗi bơ vơ
tuyệ vọng.
+ So sánh “Nửa tình nửa cảnh như
chia tâm lòng”: nỗi lòng Kiều như bị chia ra làm hai, nửa dành cho cảnh nửa
dành cho tình.
_ Chia tấm lòng là sự ngổn ngang của
tâm trạng không biết đi đâu về đâu.
_ Cảnh vật cũng như người đều mang cảnh u sầu,
trống trải, cô đơn khắc khoải…
⇒
Sáu câu thơ đầu được xây dựng bằng bút pháp tả cảnh ngụ tình, tả cảnh hoang vắng
quạnh hiu để khắc họa rõ tâm trạng cô đơn tuyệt đối của Kiều.
b. 8 câu thơ tiếp: Nỗi nhớ người yêu và cha mẹ của Kiều
* Nỗi nhớ người yêu (4 câu đầu)
- Chữ “tưởng”: hồi tưởng, nhớ lại
+ Kiều nhớ lại đêm thề nguyền dưới
trăng: “chén đồng” tức cũng đang dằn vặt vì không thể cùng người thương
thực hiện được lời thề ước ngày xưa.
+ Kiều nhớ về Kim Trọng trong đau đớn cho cảnh
ngộ ngang trái của mình vì ở nơi xa Kim Trọng không biết Kiều đã bán mình chuộc
cha mà vẫn đang mong chờ tin tức.
+ Hai động từ “trông, chờ” được
tách ra đi kèm với các danh từ chỉ thời là “rày, mai”: Thúy Kiều lo
chàng Kim cũng nhớ Kiều tha thiết.
- Thành ngữ biến thể “bên trời góc
bể”: gợi ra không gian quê người xa xôi, cách trở.
+ Ẩn dụ “tấm son” kết hợp với
câu hỏi tu từ “gột rửa bao giờ cho phai” tạo ra hai cách hiểu: thứ nhất
tấm lòng Kiều không bao giờ quên được chàng Kim và thứ hai là tấm thân của Kiều
đã bị làm nhục bao giờ mới gột rửa được.
⇒
Kiều muốn bày tỏ cùng Kim Trọng về việc Trọng có biết nàng đau khổ đến nhường
nào cũng như khẳng định sự thủy chung son sắt với người yêu.
* Nỗi nhớ cha mẹ (4 câu tiếp theo)
- Động từ “xót” lại kết hợp với câu hỏi
tutừ: thể hiện sự đau đớn của nàng khi nhớ về cha mẹ.
+ Kiều xót khi cha mẹ già yếu mà ngày
ngày vẫn tựa cửa ngóng tin con.
+ Nhớ về cha mẹ, Kiều tưởng tượng ra cảnh
giờ đây quê nhà đã đổi thay, cha mẹ không ai chăm sóc, đỡ đần lúc về già.
+ Thành ngữ “quạt nồng ấp lạnh”:
làm nổi bật sự lo lắng của Kiều, rồi đây ai sẽ quạt cho cha mẹ ngủ khi oi nóng,
ai sẽ ủ chăn ấm cho cha mẹ khi trời giá lạnh
- Thành ngữ “Quạt nồng ấp lạnh”
và điển tích “Sân Lai”: nói lên tấm lòng hiếu thảo của Kiều.
+ Cụm từ “cách mấy nắng mưa”: vừa
nói về thời gian xa cách qua bao mùa mưa nắng vừa nói lên sự tàn phá của tự
nhiên, của nắng mưa đối với con người và cảnh vật.
+ Nhớ về cha mẹ, Kiều luôn nhớ đến
công ơn sinh thành, dưỡng dục.
- Nguyễn Du đã miêu tả khách quan tâm
trạng của Thúy Kiều vượt qua những định kiến của tư tưởng phong kiến: đặt chữ
tình trước chữ hiếu. Kiều là người đáng thương nhất nhưng nàng vẫn quên
mình để nghĩ đến người yêu, nghĩ đến cha mẹ.
⇒
Kiều là một con người hiếu thảo, thủy chung, vị tha, luôn nghĩ cho người khác
trước khi nghĩ cho mình.
c. 8 câu thơ cuối: Tâm trạng đau buồn của Kiều và dự cảm trước
tương lai sóng gió
- Điệp
từ “buồn trông”: được lặp lại 4 lần tạo âm hưởng trầm buồn, miêu tả nỗi
buồn đang dâng lên từng lớp sóng trong lòng Thúy Kiều.
- Các hình ảnh ẩn dụ đứng sau điệp ngữ
buồn trông, câu hỏi tu từ cùng các từ láy “thấp thoáng”, “xa xa”, “rầu rầu”,
“ầm ầm” đã diễn tả nỗi buồn nhiều bề trong Kiều với nhiều sắc độ khác nhau.
- Cảnh vật thiên nhiên qua con mắt của
Kiều gợi nỗi buồn da diết:
* 2 câu đầu: Bức tranh cửa bể lúc hoàng hôn. Cánh buồm thấp
thoáng lúc ẩn lúc hiện nơi cửa bể chiều hôm gợi hành trình lưu lạc mờ mịt không
biết đâu là bến bờ.
+ “cửa bể chiều hôm”: “cửa bể
chiều hôm” gợi ra hành trình lưu lạc, nổi chìm của Kiều, gợi nhớ, gợi sầu cho kẻ
li hương.
+ Hình ảnh “con thuyền” gợi sự
cô đơn, Kiều đang nhớ gia đình, không biết bao giờ mới được trở về
⇒
Kiều nghĩ đến thân phận mình cũng đang bị dòng đời đưa đẩy, chua xót về thân phận
bơ vơ, về số kiếp bất hạnh.
* 2 câu tiếp: Cảnh “ngọn nước mới sa” (nước đổ từ
trên cao xuống), cuốn theo những cánh hoa bị sóng gió dập vùi, đẩy đưa vào cõi
vô định. Cánh hoa trôi man mác trên ngọn nước mới sa gợi thân phận nhỏ bé, mỏng
manh, lênh đênh trôi dạt trên dòng đời vô định không biết đi đâu về đâu.
+ “cánh hoa” mong manh trước
sóng dập gió vùi, như thân phận người con gái chuẩn bị bước vào hành trình đoạn
trường, oan khổ lưu li.
+ Từ “trôi”: chỉ sự vận động
nhưng ở thế bị động, như số phận bị cuộc đời đẩy đưa.
=> Kiều nghĩ đến cuộc đời của mình
phiêu bạt, không định hướng tương lai, số kiếp hoa trôi bèo nổi.
* 2 câu tiếp: Cảnh “nội cỏ rầu rầu”, héo úa, không còn sức
sống. Nội cỏ rầu rầu trải rộng nơi chân mây mặt đất gợi cuộc sống úa tàn, bi
thương, vô vọng kéo dài không biết đến bao giờ.
+ Từ “Nội cỏ rầu rầu” được nhân
hóa chỉ màu sắc của cỏ gợi cuộc sống héo hon, bi thảm, vô vọng kéo dài.
+ Màu xanh nhợt nhạt héo hắt của cảnh
vật chính là ẩn dụ cho tương lai mờ mịt vô vọng của Kiều
⇒
Kiều có tâm trạng mệt mỏi chán chường, tuyệt vọng và cuộc sống vô vị, tẻ nhạt,
cô quạnh với một tương lai mờ mịt, hãi hùng.
* 2 câu cuối: Cảnh giông bão sóng gió
và niềm dự cảm tương lai. Hình ảnh “gió cuốn mặt duềnh” và âm thanh ầm ầm của
tiếng sóng “kêu quanh ghế ngồi”gợi tâm trạng lo sợ hãi hùng như báo trước,chỉ
ngay sau lúc này, dông bão của số phận sẽ nổi lên, xô đẩy, vùi dập cuộc đời Kiều.
+ Hình ảnh dữ dội xuất hiện: “gió
cuốn mặt duyềnh”: ước lệ cho sóng gió cuộc đời đang bủa vây, cuốn lấy Kiều,
những tai ương sắp ập đến đời nàng
+ Nhân hóa “sóng kêu”: gợi hình
dung Kiều chới với giữa cái bất tận sục sôi trong lòng Kiều và quanh Kiều
+ “Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế
ngồi”: Trong lòng Kiều là tiếng sóng của buồn đau sợ hãi, dự cảm sóng gió
dường như đang tiến đến rất gần Kiều
⇒
Nàng hốt hoảng, kinh hoàng- chới với như sắp bị rơi xuống vực thẳm sâu của định
mệnh.
- Cảnh được miêu tả từ xa đến gần; màu
sắc từ nhạt đến đậm; âm thanh từ tĩnh đến động; nỗi buồn từ man mác, mông lung
đến lo âu, kinh sợ, dồn đến cơn bão táp của nội tâm, cực điểm của cảm xúc trong
lòng Kiều.
3. Đánh giá:
-Ngòi bút của Nguyễn Du hết sức tinh tế
khi tả cảnh cũng như khi ngụ tình. Mỗi cảnh thiên nhiên trong đoạn đã diễn tả một
sắc thái tình cảm khác nhau của Kiều.
- Đoạn trích làm nổi bật tâm trạng buồn
đau, cô đơn hiu quạnh trước khung cảnh thiên nhiên cùng bao nỗi nhớ ùa về trong
lòng.
(Kiều ở lầu Ngưng là một bức tranh
thiên nhiên liên tục thay đổi theo diễn biến tâm trạng – đó là bức tranh tâm cảnh
nhuốm màu u buồn, đau đớn. Mỗi nét tưởng tượng trong ngòi bút của tác giả lại
phản ánh một mức độ khác nhau trong tâm trạng của nàng Kiều. Đoạn trích đã giúp
ta hiểu hơn về tâm hồn của người phụ nữ tài sắc mà bạc mệnh cũng như còn giúp
người đọc cảm nhận được giá trị nhân văn sâu sắc.)
C. Kết bài
- Đằng sau sự thành công của bút pháp tả cảnh ngụ
tình đặc sắc của đoạn trích là một trái tim yêu thương vô hạn với con người, là
sự đồng cảm, sẻ chia xót thương cho một kiếp hồng nhan bạc mệnh và ngầm tố cáo
xã hội bất công đã chà đạp lên quyền sống và nhân phẩm con người.
(Với Kiều ở lầu Ngưng Bích, Nguyễn Du
đã đạt đến trình độ biện chứng tâm hồn. Nhà thơ thấu hiểu con người đến tận thẳm
sâu tiềm thức, làm lộ rõ sự vận động bên trong tâm hồn đớn đau, khổ nhục của
Thúy Kiều rong những ngày đầu lưu lạc phải chịu nhiều khổ nhục, đắng cay. Lời
thơ xiết mạnh vào từng giác quan người đọc, khiến người đọc càng thêm cảm
thương cho số kiếp bèo dạt mây trôi của thiếu nữ tài sắc vẹn toàn mà bất hạnh,
từ đó làm toát lên tấm lòng cảm thương vô hạn của tác giả đối với kiếp người nhỏ
bé trong xã hội phong kiến vốn tồn tại nhiều bất công.)