Thứ Năm, 4 tháng 6, 2020

Phân tích khổ 1_4 bài thơ Viếng lăng Bác

Thời gian vẫn trôi đi và bốn mùa luôn luân chuyển. Con người chỉ xuất hiện một lần trong đời và cũng chỉ một lần ra đi mãi mãi vào cõi vĩnh hằng. Nhưng những gì là thơ, là văn, là nghệ thuật đích thực thì vẫn còn mãi mãi với thời gian. Tác phẩm Viếng lăng Bác của nhà thơ Viễn Phương là một trong số những tác phẩm nghệ thuật như thế. Bài thơ Viếng lăng Bác thể hiện đầy cảm xúc tình cảm thiết tha, niềm khâm phục, ngưỡng vọng, biết ơn và ước nguyện của tác giả nói riêng và nhân dân miền Nam nói chung đối với Bác. Ấn tượng sâu trong lòng người đọc là dòng cảm xúc nghẹn ngào của tác giả khi đến thăm lăng và lời nguyện ước chân thành dâng lên chủ tịch Hồ Chí Minh là trong đoạn thơ:

Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác

Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát

Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam

Bão táp mưa sa, đứng thẳng hàng.

Mai về miền Nam thương trào nước mắt

Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác

Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây

Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này…

Bài thơ Viếng lăng Bác của nhà thơ Viễn Phương được sáng tác trong không khí xúc động của nhân dân cả nước trước sự kiện to lớn là lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh đã hoàn thành sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Là một thành viên trong đoàn đại biểu miền Nam ra thăm miền Bắc, nhà thơ được vào lăng viếng Bác. Tình cảm yêu thương, kính phục cùng nỗi tiếc thương vô hạn vị lãnh tụ anh minh – Người Cha già vĩ đại của dân tộc Việt Nam đã trở thành nguồn thi hứng dạt dào, thôi thúc Viễn Phương viết nên bài thơ được đánh giá là một trong những bài thơ hay nhất về Bác Hồ.Cảm hứng bao trùm bài thơ là niềm xúc động thiêng liêng, thành kính, lòng biết ơn và tự hào pha lẫn nỗi xót đau khi tác giả vào lăng viếng Bác. Cảm hứng ấy chi phối giọng điệu và âm hưởng chung của toàn bài. Nhà thơ đã đem hết tâm huyết của mình để quan sát, chọn lọc và sáng tạo ra những hình ảnh có tính chất tượng trưng sâu sắc để thể hiện phẩm chất cao quý tuyệt vời của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Từ miền Nam, nhà thơ ra thăm miền Bắc với niềm sung sướng vô biên của người con xa quê đã lâu ngày.Nhà thơ vừa ngỡ ngàng vừa xúc động trước cảnh vật bên ngoài lăng:

Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác

Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát

Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam

Bão táp mưa sa, đứng thẳng hàng.

Câu thơ mở đầu ngắn gọn như một thông báo, nhưng lại phản ánh rất thật tâm trạng xúc động của nhà thơ – chiến sĩ sau bao năm mong mỏi, bây giờ mới được thỏa nguyện. Câu thơ giản dị đã bộc lộ được cảm xúc mãnh liệt của người con miền Nam xa sau bao nhiêu năm mong mỏi mà bây giờ mới được ra thăm lăng Bác. Chữ "con" cất lên sao mà ngọt ngào, ấm áp nhưng cũng không vơi bớt lòng thành kính, trân trọng đến thế. Một tiếng con thôi nhưng cũng đủ để thể hiện lòng kính yêu tới nhường nào đối với một vị cha già dân tộc. Tiếng con ấy thật đẹp.  Khoảng cách về không gian địa lý được thu hẹp và khoảng cách giữa lãnh tụ và nhân dân cũng trở nên thân mật như tình cha con một nhà. Trên thực tế thì kiểu xưng hô của Viễn Phương không hề mới, trước ông thì đã có nhiều nhà thơ viết về Bác cũng có cách xưng hô như vậy, nhưng có lẽ chính khác biệt ở đây là con ở miền Nam, hai chữ “miền Nam” nó gợi ra khoảng cách rất xa xôi giữa miền Nam và miền Bắc, đồng thời cũng gợi lên mối quan hệ thân thiết, gắn bó giữa Bác Hồ và nhân dân miền Nam. Bởi thế mà nhà thơ Tố Hữu đã từng viết:

Bác nhớ miền Nam nỗi nhớ nhà

Miền Nam mong Bác nỗi mong cha.

Tuy chưa một lần được đón Bác, nhưng tác giả cũng như nhân dân miền Nam vẫn thấy được công lao to lớn của Bác và cả tình cảm của Bác dành cho miền Nam. Với quan hệ thân thiết như thế, với cảm xúc mãnh liệt vì xa cách như vậy thì nhà thơ đã tới viếng lăng Bác. Nhà thơ đã sử dụng phép nói giảm, nói tránh đến viếng lăng  ông dùng “thăm”để cố kìm nén nỗi đau trong lòng. Chữ “thăm” được tác giả sử dụng thật tinh tế và gợi cảm. Nó vừa giảm nhẹ nỗi đau đớn xót xa, vừa như khẳng định trong lòng mình: Bác Hồ, vị cha già kính yêu vẫn còn đó, Người chỉ đang nằm nghỉ đó thôi. Và tác giả như người con đi xa lâu ngày, nay chỉ chờ gặp lại bóng dáng người cha thân yêu. Bác dường như vẫn còn sống mãi trong muôn triệu trái tim, khối óc của người con đất Việt. Câu thơ đã khái quát được hoàn cảnh và cảm xúc của tác giả, đó cũng là cảm xúc của tất cả người dân Việt Nam dành cho Bác - vị cha già của dân tộc. Câu thơ giản dị đã bộc lộ được cảm xúc mãnh liệt của người con miền Nam xa sau bao nhiêu năm mong mỏi mà bây giờ mới được ra thăm lăng Bác. Tác giả ra viếng lăng Bác mà như trở về quê nhà thăm người cha kính yêu sau bao năm xa cách của mình vậy.

Người con xa lần đầu tiên về với quê cha đã xúc động trước hàng tre xanh quanh nơi ở của Người. Đến với lăng Bác, bắt gặp hình ảnh hàng tre xanh xanh thắm tươi, nhà thơ dâng trào những cảm xúc yêu thương, tự hào về nhân dân, về Tổ quốc thân yêu của mình.

Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát

Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam

Bão táp mưa sa, đứng thẳng hàng.

Tác giả khéo léo chọn hình ảnh cây tre, hình ảnh thân thuộc của đất nước để mờ bài thơ rộng hơn, xa hơn nhưng cũng gần gũi hơn bao giờ hết. Hình ảnh “hàng tre” vô cùng thân thuộc, bình dị ở mọi làng quê Việt Nam làm cho lăng Bác tự nhiên mà thật gần gũi, người ta không thấy ở đây những lăng tẩm xa hoa, tráng lệ như của vua chúa xưa mà lại giống như một ngôi nhà mà biết bao nhiêu ngôi nhà khác trên mọi miền quê của đất nước Việt Nam. Nhắc đến hình ảnh cây tre, ta lại nghĩ tới dất nước, tới dân tộc Việt Nam với bao đức tính cao quí. Đó là hình tượng, biểu tượng của dân tộc, của sức sống bền bỉ và kiên cường, hàng tre hiên ngang trong bão táp mưa sa, tượng trưng cho sức sống và sức mạnh chiến đấu kiên cường, không khuất phục khó khăn của dân tộc ta. Từ láy "xanh xanh" gợi đến một vẻ đẹp của đất nước, của con người Việt Nam tràn đầy sức sống, vững bền.Cảm xúc trào dâng, khiến ông bật lên tiếng cảm thán đầy cảm xúc “ôi” chất chứa lòng tự hào. Nó là niềm thổn thức của nhà thơ bỗng được trào dâng một cách mãnh liệt. Dân tộc ta trải qua “bão táp mưa sa” – chiến tranh liên miên, cuộc sống còn nhiều khó khăn nhưng vẫn kiên cường, bất khuất. Đúng như Nguyễn Duy đã từng khẳng định: “Thân gầy guộc lá mong manh/ Mà sao nên lũy nên thành tre ơi”. Nhà thơ đã vận dụng thành công thành ngữ “bão táp mưa sa" để thể hiện những khó khăn, vất vả mà cây tre phải đương đầu cũng như những vất vả, truân chuyên mà bao thế hệ người Việt đã chiến đấu để chiến thắng. Kết hợp thành ngữ "bão táp mưa sa" với nghệ thuật nhân hóa "đứng thẳng hàng" làm nổi bật cho vẻ đẹp thanh cao, ý chí bất khuất kiên cường của mỗi công dân nước Việt. Dù trải qua bao thăng trầm chống giặc ngoại xâm nhưng nhân dân ta vẫn chung một ý chí quyết tâm chiến thắng, giành lại độc lập cho dân tộc. Con người Việt Nam sáng ngời vẻ đẹp cứng cỏi, kiên cường, mạnh mẽ hiên ngang, bền bỉ sẵn sàng đối mặt với phong ba bão táp trong sự đoàn kết, một lòng. Hàng tre ấy còn như một đội quân anh dũng đứng canh bảo vệ giấc ngủ của Bác. Sự liên tưởng thật độc đáo. Hàng tre có thực bên lăng Bác được nhìn với con mắt liên tưởng nhân hoá và tưởng tượng vì thế thành hàng tre bát ngát, thành màu xanh sức sống dân tộc (xanh xanh Việt Nam) thành những chiến sĩ trung kiên bất chấp bão táp, mưa sa (Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng). Màu tre mãi mãi xanh tươi như sức sống bất diệt của dân tộc Việt Nam trước những thử thách khắc nghiệt của thiên nhiên và lịch sử. Hàng tre bên lăng ru giấc ngủ ngàn đời của Bác như thuở ấu thơ tre làm bạn với Người.

Từ những suy nghĩ sâu sắc về phẩm chất tốt đẹp của nhân dân ta, hai khổ thơ tiếp theo tác giả nói về Bác. Người con ưu tú của dân tộc, là "tinh hoa và khí phách của nhân dân Việt Nam (Phạm Văn Đồng). Cuộc đời Bác như mặt trời. Giấc ngủ Bác như vầng trăng. Bác trở nên bất tử hòa nhập vào trời xanh. Các hình ảnh vĩnh hằng kì vĩ vầng trăng, trời xanh... nối tiếp nhau trong bài thơ cho thấy cái mãi mãi, cái vô cùng cao cả ở một con người. Bác ra đi là nỗi tiếc thương, sự mất mát không gì bù đắp được trong lòng ai. Vẫn biết Người bất tử cùng non nước nhưng có một sự thật là Bác đã mãi mãi đi xa, dân tộc Việt Nam không thể có Bác lần thứ hai trong đời...

Bài thơ kết thúc trong  sự thương nhớ và tâm nguyện của nhà thơ sau khi viếng Bác và trở về miền Nam để tiếp tục dựng xây, bảo vệ đất nước, bảo vệ miền Nam kiên cường, máu lửa của tổ quốc:

Mai về miền Nam thương trào nước mắt

Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác

Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây

Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này…

Khi phải rời miền Bắc, rời lăng Bác nhà thơ đã không thể nào kìm được lòng mình nữa, tuôn trào nước mắt. Những khổ thơ ở trên đã diễn tả cảm xúc mãnh liệt nhưng nhà thơ vẫn cố kìm giữ trong đến khổ thơ cuối thì cảm xúc của nhà thơ đã tuôn theo dòng nước mắt tuôn rơi. Từ ngữ biểu cảm” thương trào” đã bộc lộ được nỗi xúc động trào dâng lên tới đỉnh điểm. Nghĩ đến ngày mai về miền Nam, nỗi thương xót trào rơi nước mắt. Không phải rưng rưng, rơm rớm, mà là trào, một cảm xúc thật chân thành, mãnh liệt. Câu thơ “Mai về miền Nam thương trào nước mắt” như một lời giã biệt. Lời nói giản dị diễn tả tình cảm sâu lắng, thiết tha. Từ “trào” diễn tả cảm xúc thật mãnh liệt, luyến tiếc, bịn rịn không muốn xa nơi Bác nghỉ. Đó là không chỉ là tâm trạng của tác giả mà còn là của muôn triệu trái tim khác. Được gần Bác dù chỉ trong giây phút nhưng không bao giờ ta muốn xa Bác bởi Người ấm áp quá, rộng lớn quá. Tình cảm ở đây chân thành và bộc trực biết bao! Câu thơ không chút gì chải chuốt. Vậy mà đọc lên không thể nào không xúc động.

Tiếc nuối có, thương nhớ có, bởi vậy mà nhân vật trữ tình giã biệt mà vẫn khắc khoải bịn rịn, bày tỏ ước nguyện cá nhân:

Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác

Muốn làm đoá hoa tỏa hương đâu đây

Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này…

Điệp ngữ "muốn làm" được nhắc đi nhắc lại đến ba lần cùng nhịp thơ dồn dập thể hiện khao khát chân thành, tha thiết của tác giả. Nhà thơ ước muốn được làm con chim, đóa hoa tỏa hương, cây tre trung hiếu. Tất cả đều là những sự vật đời thường giản dị, gắn liền với thiên nhiên gần gũi. Muốn làm con chim để để mang tiếng hót vui vẻ đến với Bác, làm đóa hoa để tỏa hương tô điểm cuộc đời, đặc biệt là cây tre gần gũi ẩn dụ cho vẻ đẹp thủy chung, son sắt của người Việt. Hình ảnh hàng tre quanh lăng Bác được lặp ở câu thơ cuối như mang thêm nghĩa mới, tạo ấn tượng sâu sắc, làm dòng cảm xúc được trọn vẹn.“Cây tre trung hiếu” là hình ảnh ẩn dụ thể hiện lòng kính yêu, sự trung thành vô hạn với Bác, nguyện mãi mãi đi theo con đường cách mạng mà Người đã đưa đường chỉ lối. Đó là lời hứa thủy chung của riêng nhà thơ và cũng là ý nguyện của đồng miền Nam, của mỗi chúng ta nói chung với Bác. Hình ảnh cây tre có tính chất tượng trưng một lần nữa nhắc lại khiến bài thơ có kết cấu đầu cuối tương ứng như một lời thề sắt son của nhà thơ nói riêng, nhân dân Việt Nam nói chung nguyện đi theo con đường của Bác. Mai trở về miền Nam nhưng tấm lòng chân thành đã được gửi lại trọn vẹn nơi lăng Bác. Ba câu thơ khuyết chủ ngữ ấy như là lời thay mặt cho triệu triệu đồng bào Việt Nam bày tỏ cảm xúc thành kính, tha thiết tới lãnh tụ. Tấm long của những người đã một lần được về thăm lăng, những người chưa một lần được đến thăm lăng nhưng tất cả muôn triệu tấm lòng luôn hướng về Bác kính yêu. Dù Bác đã ra đi nhưng Bác sẽ còn sống mãi trong trái tim của Viễn Phương nói riêng, nhân dân Việt Nam ta nói chung. Ước nguyện cao đẹp được hóa thân để được bên Bác cũng là ước nguyện đẹp nhất, chất chứa trọn vẹn tấm lòng trân quý của nhân dân ta.

“Viếng lăng Bác” là bài thơ hay về Bác của nhà thơ Viễn Phương. Tuy mộc mạc, giản dị như sự thật nhưng bài thơ không những giàu hình ảnh mà còn giàu chất suy tưởng, chất lãng mạn trữ tình đằm thắm. Bài thơ ngắn mà ý thơ, hình tượng thơ, cảm xúc thơ sâu lắng, hàm súc và đẹp. Viễn Phương đã chọn thể thơ mỗi câu tám từ, mỗi khổ bốn câu, toàn bài bốn khổ – một sự cân đối hài hoà để biểu hiện một giọng điệu thơ nghiêm trang, kính cẩn làm nên sức gợi cảm sâu lắng, không dễ gì quên.

Bác Hồ đã đi xa, nhưng hình ảnh Bác, sự nghiệp cách mạng và công đức của Bác vẫn sống mãi trong tâm hồn dân tộc. Bài thơ của Viễn Phương đã thể hiên rất hay và chân thành tình cảm của hàng triệu con người Việt Nam đối với lãnh tụ Hồ Chí Minh. Trang thơ khép lại, mà lòng ta cứ bồi hồi:

Chúng ta hãy bước nhẹ chân, nhẹ nữa

Trăng trăng ơi hãy yên lặng cúi đầu…

Trọn cuộc đời Bác có ngủ yên đâu

Nay Bác ngủ, chúng ta canh giấc ngủ.

(Chúng con canh giấc ngủ Bác, Bác Hồ ơi! – Hải Như)