Thứ Năm, 11 tháng 6, 2020

DÀN Ý PHÂN TÍCH BÀI THƠ ÁNH TRĂNG CỦA NGUYỄN DUY

DÀN Ý  PHÂN TÍCH BÀI THƠ ÁNH TRĂNG CỦA NGUYỄN DUY

A. Mở bài

- Nguyễn Duy là một trong những những tác giả viết hay về trăng. Ông là một nhà thơ tiểu biểu của thế hệ trẻ sau năm 1975. Những sáng tác của ông sâu sắc, đa nghĩa, thể hiện sự đa diện của cuộc sống.

- Bài thơ Ánh trăng nói tới hình ảnh quen thuộc trong thi ca, nhưng với một hơi thở hiện đại, mang nhiều suy tư, ý nghĩa ánh trăng trở nên khác biệt. Bài thơ là lời ân hận trong tâm sự sâu thẳm của nhà thơ về sự vô tình trước những kỉ niệm thời quá khứ.

(Những sáng tác thơ của Nguyễn Duy sâu lắng và thấm đẫm cái hồn của ca dao, dân ca Việt Nam. Thơ ông không cố tìm ra cái mới mà lại khai thác, đi sâu vào cái nghĩa tình muôn đời của người Việt. Ánh trăng là một bài thơ như vậy. Đến với bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy, chúng ta bắt gặp hình ảnh vầng trăng mang ý nghĩa triết lí sâu sắc. Trăng đối với nhà thơ có ý nghĩa đặc biệt: đó là vầng trăng tri kỉ, vầng trăng tình nghĩa và vầng trăng thức tỉnh. Nó như một hồi chuông cảnh tỉnh cho mỗi con người có lối sống quên đi quá khứ.)

B. Thân bài

1. Khái quát

- Bài thơ viết về thiên nhiên- một trong những chủ đề quen thuộc của thơ ca nói chung.

- Bài thơ mượn đề tài thiên nhiên để nói tới suy ngẫm, chiêm nghiệm của nhà thơ và con người, cuộc đời.

(Ánh trăng ra đời vào năm 1978 tại thành phố Hồ Chí Minh - nơi đô thị của cuộc sống tiện nghi hiện đại, nơi những người từ  chiến trận trở về đã để lại sau lưng cuộc chiến gian khổ mà nghĩa tình. Bài thơ mượn đề tài thiên nhiên để nói tới suy ngẫm, chiêm nghiệm của nhà thơ và con người, cuộc đời theo trình tự thời gian từ quá khứ đến hiện tại gắn với các mốc sự kiện trong cuộc đời con người.)

2. Phân tích

a. Khổ 1: Dòng hoài niệm mở ra. Kí ức tuổi trẻ sống chan hòa với thiên nhiên, sống chân chất giản dị:

- “Hồi nhỏ…hồi chiến tranh”: đánh dấu mốc thời gian. Gợi nhắc về mối quan hệ gắn bó giữa trăng và nhà thơ thủa ấu thơ đến trưởng thành.

- Hồi nhỏ sống: với đồng, với sông, với bể. -> Tác giả nhớ đến kỉ niệm của mình với trăng lúc nhỏ: Vầng trăng tuổi thơ trải rộng trên một không gian bao la.

+Điệp từ “với” được lặp lại ba lần càng tô đậm thêm sự gắn bó chan hòa của con người với thiên nhiên, với những tươi đẹp của tuổi thơ.

+ Phép liệt kê tăng cấp “đồng, sông, bể”: Tuổi thơ gắn bó với sông nước, trăng sao đầy ắp kỉ niệm. Chỉ thứ tự từ hẹp đến rộng, từ quê hương đến đất nước, mở rộng hơn là sự gắn bó giữa những con người ở quê hương đến đồng đội nhân dân

Như vậy khi còn nhỏ nhân vật trữ tình sống chan hòa với thiên nhiên.

- “Hồi chiến tranh ở rừng” – những năm tháng gian khổ, ác liệt thời chiến tranh. Trăng ở bên, bầu bạn cùng trải qua bao gian khổ của cuộc sống chiến đấu.

+ Nghệ thuật nhân hóa “vầng trăng thành tri kỉ”: Trong rừng cùng nhau, trăng là người bạn thân thiết, tri âm tri kỉ, là đồng chí cùng chia sẻ những vui buồn trong chiến trận với người lính – nhà thơ. Cùng chia ngọt sẻ bùi, đồng cam cộng khổ; cùng hân hoan trong niềm vui thắng trận, cùng xao xuyến, bồn chồn, khắc khoải mỗi khi người lính nhớ nhà, nhớ quê…

=> Trăng đã thật sự trở thành “tri kỉ” của người lính trong những năm tháng máu lửa.

b. Khổ 2: Những năm tháng gian lao đã qua của cuộc đời người lính gắn bó với thiên nhiên, đất nước bình dị, hiền hậu.

- Phép ẩn dụ so sánh “trần trụi, hồn nhiên” kết hợp với phép liệt kê “thiên nhiên, cây cỏ”: làm nổi bật chất trần trụi, chất hồn nhiên người lính những năm tháng ở rừng. Họ sống đơn giản, mộc mạc mọi buồn vui sướng khổ đều gắn bó với trăng. Đó cũng chính là hình ảnh con người lúc bấy giờ: vô tư, hồn nhiên, trong sáng.

-  Cấu trúc không bao giờ … quên… vầng trăng tình nghĩa” thể hiện tình cảm thắm thiết với vầng trăng. Vầng trăng đã gắn bó thân thiết với con người từ lúc nhỏ đến lúc trưởng thành, cả trong hạnh phúc và gian lao.

- Nghệ thuật Nhân hóa “cái vầng trăng tình nghĩa”: khẳng định mối quan hệ giữa người và trăng là bền vững mãi mãi. Trăng là vẻ đẹp của đất nước bình dị, hiền hậu; của thiên nhiên vĩnh hằng, tươi mát, thơ mộng. Nay vầng trăng không những trở thành người bạn tri kỉ, mà đã trở thành “vầng trăng tình nghĩa” biểu tượng cho quá khứ nghĩa tình.

-  Ngỡ: nghĩ là, tưởng là, vậy mà kết quả lại ngược lại. Mạch thơ biến đổi đánh dấu một sự thay đổi lẽ ra phải trân trọng.

=> Trăng là người bạn, trăng hiện diện như hình ảnh của quá khứ tình nghĩa.

c. Khổ 3: Sự thay đổi trong mối quan hệ giữa nhà thơ và vầng trăng trong hiện tại. Tác giả tạo ra sự đối lập giữa con người quá khứ và con người hiện tại, giữa sự thiếu thốn trong quá khứ với sự “hiện đại” đầy đủ của thực tại.

- Khi chiến tranh kết thúc, người lính từ giã núi rừng trở về với thành phố nơi đô thị hiện đại.

+ Đất nước hòa bình.

+ Hoàn cảnh sống thay đổi: người lính từ giã núi rừng trở về với thành phố nơi đô thị hiện đại, sống sung túc.

+ Nghệ thuật liệt kê “ánh điện cửa gương” chỉ rõ cuộc sống đầy đủ, tiện nghi, khép kín trong những căn phòng hiện đại.

-  Mặc dù vậy trăng vẫn tròn đầy lặng lẽ đi qua thành phố nhưng người bạn năm xưa chỉ coi trăng như một vật chiếu sáng.

+ Hình ảnh nhân hóa so sánh “vầng trăng đi qua ngõ - như người dưng qua đường”: thể hiện một sự bội bạc vẫn thường xảy ra trong cuộc sống hằng ngày: có mới nới cũ.

_ Vầng trăng vẫn “đi qua ngõ”, vẫn tròn đầy, vẫn thủy chung tình nghĩa nhưng vầng trăng bây giờ đối với người lính năm xưa giờ chỉ là dĩ vãng, dĩ vãng nhạt nhòa của quãng thời gian xa xôi nào đó.

_ “người dưng qua đường”: vầng trăng giờ đây bỗng trở thành người xa lạ, chẳng còn ai nhớ, chẳng còn ai hay biết. Con người đã quên trăng, hờ hững, lạnh nhạt, dửng dưng đến vô tình.

=> Khi thay đổi hoàn cảnh, con người trong sự đủ đầy vật chất và tiện nghi dễ dàng quên đi gian khổ, đau thương từ quá khứ, có thể thay đổi về tình cảm, phản ánh một sự thực trong xã hội thời hiện đại.

d. Khổ 4: Con người gặp lại vầng trăng trong một tình huống bất ngờ

- Tình huống: mất điện, phòng tối om. Đây là tình huống quen thuộc, rất thực, tình huống tạo nên tính bước ngoặt để tác giả bộc lộ và thể hiện chủ đề tác phẩm

+ Phép đảo ngữ từ láy “thình lình”, “đột ngột” được đưa lên đầu câu nhấn mạnh sự việc bất ngờ là mất điện

+ Ba động từ “vội, bật, tung” đặt liền nhau diễn tả sự khó chịu và hành động khẩn trương của nhân vật trữ tình đi tìm nguồn sáng

- Ngay lúc đó trăng hiện ra “đột ngột” khiến con người bàng hoàng xúc động. Trăng xuất hiện đột ngột có sức rung động mạnh mẽ thức tỉnh lương tâm con người

+ Sự xuất hiện bất ngờ của vầng trăng khiến nhà thơ ngỡ ngàng, bối rối, gợi cho nhà thơ bao kỉ niệm nghĩa tình.

+ Sự đối lập giữa ánh sáng và bóng tối, giữa “phòng tối om” >< “vầng trăng tròn”: Vầng trăng đến bất ngờ làm sáng lên những góc tối trong tâm hồn, thức tỉnh sự ngủ quên trong điều kiện sống đã hoàn toàn đổi khác.

+ Người và trăng đối mặt thì tình xưa nghĩa cũ dâng lên, dường như “vầng trăng tròn” vẫn luôn chung thủy đứng chờ

=> Khổ thơ quan trọng tạo nên tính bước ngoặt cho bài thơ cũng là hồi chuông làm thức tỉnh tình nghĩa, lương tâm của con người

 e. Khổ 5: Chủ thể trữ tình lặng lẽ đối diện với vầng trăng trong tư thế im lặng cũng chính là quá khứ đối diện với hiện tại, sự thủy chung tình nghĩa đối diện với sự bạc bẽo vô tình

- Tư thế “ngửa mặt lên nhìn mặt” là tư thế trực tiếp đối mặt. Hai từ “mặt” trong cùng một dòng thơ: mặt trăng và mặt người đang cùng nhau trò chuyện. Cuộc gặp gỡ không lời giúp con người tự soi chiếu vào chính mình.

+ Phép nhân hóa, từ “mặt” thứ hai chỉ vầng trăng tròn. Đối diện với vầng trăng tình nghĩa, con người dường như thức tình được sự thiện lương: nhìn sâu vào bản thân để thấy lỗi lầm, sự thay đổi của mình

- “Rưng rưng" nghĩa là vì xúc động, nước mắt đang ứa ra, sắp khóc. Giọt nước mắt làm cho lòng người thanh thản lại, trong sáng lại, cái tốt lành hé lộ.

- Phép so sánh, liệt kê, điệp ngữ, lặp cấu tứ “như là đồng là bể - như là sông là rừng” diễn tả dòng hoài niệm ùa về và con người thấy trăng là thấy người bạn tri kỉ ngày nào. Cảm xúc chừng như nén lại nhưng cứ trào ra thổn thức

Đoạn thơ hay ở chất thơ bộc bạch chân thành, ở tính biểu cảm, ở tính hình tượng và hàm súc, từ ngôn ngữ hình ảnh đi vào lòng người, khắc sâu điều nhà thơ muốn tâm sự với chúng ta một cách nhẹ nhàng mà thấm thía.

g. Khổ 6: Bài thơ khép lại ở hình ảnh sâu lắng mang tính hàm nghĩa độc đáo, đưa tới chiều sâu tư tưởng triết lí.

- Trăng tròn đầy vành vạnh có hai lớp nghĩa: nghĩa tả thực về sự tròn đầy lung linh của trăng, thiên nhiên vũ trụ vĩnh hằng, gợi quá khứ bạn bè tươi đẹp chẳng thể phai mờ.

+ Việc lặp lại hình ảnh “vầng trăng tròn” nhằm mục đích nhấn mạnh vào vẻ nguyên vẹn, tròn đầy, thủy chung của thiên nhiên, đồng đội, nhân dân trong quá khứ.

- Trăng còn được nhân hóa “kể chi người vô tình - ánh trăng im phăng phắc” gợi thái độ bao dung, nhân hậu.

+ Sự đối lập giữa hình ảnh một vầng trăng thủy chung và sự thay đổi bội bạc của con người trong hiện tại, im lặng có lẽ là lựa chọn tốt nhất để con người tự vấn lương tâm của mình.

- Kết hợp biện pháp nhân hóa, ẩn dụ cùng các từ láy “phăng phắc”, “vành vạnh”, tác giả gợi ra sự tĩnh lặng của không gian, xoáy sâu vào tâm can người đọc về một sự day dứt.

- Cái giật mình là một phản xạ tự nhiên, thể hiện sự thức tỉnh của nhân vật, cái giật mình của sự ăn năn, hối lỗi về một lối sống bội bạc, lãng quên quá khứ.

Khổ thơ cuối mang ý nghĩa nhân văn, cái giật mình thức tỉnh của con người từng bội bạc trở nên đáng trân trọng bởi nhớ quên là lẽ thường tình, quan trọng là biết thức tỉnh lương tâm.

3. Đánh giá

- Thể thơ 5 chữ, nhịp thơ linh hoạt theo mạch cảm xúc

- Phương thức biểu đạt tự sự kết hợp với trữ tình.

- Giọng thơ mang tính tự bạch, chân thành sâu sắc.

- Hình ảnh vầng trăng – “ánh trăng” mang nhiều tầng ý nghĩa.

(Câu từ trong Ánh trăng của Nguyễn Duy giản dị như một lời bộc bạch tâm sự nhưng lại chất chứa hàm súc những ý nghĩa lớn, ám ảnh và giàu sức gợi.Giọng thơ trầm tĩnh, lối thơ bất ngờ, mới lạ. Cả bài thơ không viết hoa đầu câu và chỉ có duy nhất một dấu chấm cuối bài như là một mạch nguồn cảm xúc dạt dào của nhà thơ đồng thời thể hiện những triết lý suy ngẫm về lối sống.)

C. Kết bài

- Khẳng đinh lại giá trị làm nên thành công của bài thơ

- Bài thơ chứa đựng một ý nghĩa triết lí sống “Uống nước nhớ nguồn.”

(Con người có thể chối bỏ, có thể lãng quên bất cứ điều gì trong tâm hồn anh ta. Nhưng dù gì đi nữa thì những giá trị văn hoá tinh thần của dân tộc cũng luôn vây bọc và che chở cho con người. Vì thế Ánh trăng đã đi vào lòng người đọc bao thế hệ như một lời nhắc nhở đối với mỗi người: Nếu ai đã lỡ quên đi, đã lỡ đánh mất những giá trị tinh thần quý giá thì hãy thức tỉnh và tìm lại những giá trị đó. Còn ai chưa biết coi trọng những giá trị ấy thì hãy nâng niu những kí ức quý giá của mình ngay từ bây giờ, đừng để quá muộn.)