DÀN Ý PHÂN TÍCH BÀI THƠ VIẾNG LĂNG BÁC CỦA VIỄN
PHƯƠNG
A. Mở bài
- Viễn Phương là một cây bút có mặt sớm nhất của
lực lượng văn nghệ giải phóng ở miền Nam thời chống Mĩ cứu nước. Thơ của ông
bình dị mà trữ tình, mộc mạc, chân chất nhưng nhẹ nhàng, sâu lắng.
- Bài thơ Viếng
lăng Bác thể hiện lòng thành kính và niềm xúc động của nhà thơ đối với Người
khi vào lăng viếng Bác với giọng trang trọng, tha thiết thể hiện niềm yêu
thương, biết ơn Bác.
(Bác Hồ - Vị cha
già vĩ đại của dân tộc Việt Nam. Người đã dành cả cuộc đời cho sự nghiệp giải
phóng dân tộc thống nhất đất nước. Đến tận những hơi thở cuối cùng, lòng Bác vẫn
luôn đau đáu nỗi niềm thống nhất ba miền đất nước. Nhưng tiếc thay, khi Bắc Nam
sum họp một nhà thì Bác không còn nữa. Lòng thương nhớ, nỗi niềm nhớ tới Bác của
đồng bào và chiến sĩ miền Nam, cũng như toàn thể dân tộc dồn nén bao nhiêu năm
đã được nhà thơ Viễn Phương thể hiện trong bài Viếng lăng Bác đầy xúc động. Bài
thơ là tiếng nói, là nỗi niềm tâm sự của nhận dân Nam bộ và nhân dân cả nước
dành cho Bác.)
B. Thân bài
1. Khái quát
- Đây là một
trong những bài thơ cảm động và xuất sắc nhất viết về lãnh tụ Hồ Chí Minh.
- Bài thơ tả lại
một ngày ra thăm lăng Bác, từ tinh sương đến trưa, đến chiều. Nhưng thời gian
trong tưởng niệm là thời gian vĩnh viễn của vũ trụ, của tâm hồn. Cả bài thơ bôn
khổ, khổ nào cũng trào dâng một niềm thương nhớ bao la và xót thương vô hạn.
(Sinh thời, Bác Hồ
luôn luôn nghĩ đến miền Nam, ngày đêm thương nhớ miền Nam. Với Bác, miền Nam là
niềm vui, là hạnh phúc, là nỗi đau không lúc nào nguôi: “Bác nhớ miền Nam nỗi
nhớ nhà” (Tố Hữu). Và tình cảm những nhân dân miền Nam dành cho Bác cũng như
tình cảm của những người con dành cho cha của mình. “Miền Nam mong Bác nỗi mong
cha” (Tố Hữu). Từ chiến trường
miền Nam, nhà thơ Viễn Phương mang theo bao tình cảm thắm thiết của đồng bào và
chiến ra viếng lăng Bác Hồ kính yêu.)
2. Phân tích
a. Khổ 1:
Niềm xúc động nghẹn ngào khi đến thăm lăng Bác
- Câu thơ “Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác” gợi ra
tâm trạng xúc động của một người từ miền Nam bao nhiêu năm mong mỏi bây giờ được
ra lăng viếng Bác
+ Đại từ xưng hô “con” rất gần gũi, thân thiết, ấm áp
tình thân mật, diễn tả tâm trạng của người con ra thăm cha sau nhiều năm mong mỏi
+ Cách nói giảm
nói tránh, cùng việc sử dụng từ “thăm”
để giảm nhẹ nỗi đau mất mát, cũng là cách nói thân tình của diễn tả tâm trạng
mong mỏi của tác giả. Bác vẫn còn sống
mãi để giờ đây người con vượt ngàn đường
xa xôi để ra thăm cha.
- Hình ảnh hàng
tre là vừa là tả thực vừa là hình ảnh ẩn dụ đa nghĩa.
+ Từ láy “bát ngát” hiện lên trước mắt mà một màu
xanh ngút ngàn trải dài và lan ra quanh lăng
+ Hàng tre gợi
lên những liên tưởng thân thuộc của hình ảnh làng quê, đất nước. Tre gần gũi với
người trong đấu tranh chống giặc và bảo vệ xây dựng đất nước.
+ Từ cảm thán “Ôi”, biểu thị niềm xúc động tự hào về sức
sống mạnh mẽ của dân tộc ta.
+ “Hàng tre xanh xanh Việt Nam” là minh chứng
sinh động hùng hồn cho phẩm cách của con người Việt Nam. Cây tre trở thành biểu
tượng cho sức sống bền bỉ, kiên trung và thẳng thắn của dân tộc. Màu xanh của tre chính là màu xanh của sức sống
Việt Nam, màu xanh của hy vọng, hạnh phúc và hoà bình.
+ Thành ngữ “bão táp mưa sa” vừa nói về sự khắc nghiệt
của thời tiết, vừa ẩn dụ cho những khó khăn mà Việt Nam đã gặp phải.
+ Hình ảnh nhân
hóa “đứng thẳng hàng” biểu tượng cho
tình đoàn kết, tinh thần yêu thương, đùm bọc.
=> Đó là tinh
thần đoàn kết đấu tranh, chiến đấu anh hùng, không bao giờ khuất phục kẻ thù tất
cả vì độc lập tự do của nhân dân Việt Nam. Đó cũng là lời hứa của nhân dân miền
Nam trước lăng Người, mãi mãi trung thành với đất nước và quyết tâm gìn giữ những
thành quả mà dân tộc ta đã giành lấy được.
b. Khổ 2:
Cảm xúc của tác giả khi hòa cùng dòng người vào viếng lăng
- Cặp hình ảnh
sóng đôi mặt trời: một hình ảnh ẩn dụ và một hình ảnh thực:
+ Mặt trời đi qua trên lăng: vật thể vĩnh
hằng của vũ trụ, giúp duy trì sự sống cho muôn loài trên trái đất.
+ Mặt trời trong lăng: ẩn dụ về Bác Hồ, ví
Bác như là mặt trời của dân tộc Việt Nam, nguồn sáng vĩnh hằng soi đường chỉ lối
cho dân tộc, ngợi ca sự vĩ đại của Bác.
+ Màu sắc “rất đỏ” gây ấn tượng sâu xa, nói lên tư
tưởng cách mạng và lòng yêu nước nồng nàn của Bác. chính Người đã là rạng rỡ dân tộc ta,nhân dân
ta,non sông đất nước ta.
=> Dù rằng đã ra
đi mãi mãi nhưng Bác vẫn luôn bất tử, tư tưởng HCM vẫn luôn trường tồn, soi đường
dẫn lối cho dân tộc ta đứng lên.
+ “Ngày ngày” vốn đã là một từ láy, lại được
dùng điệp ngữ nên càng gợi nên cảm giác thời gian như kéo dài vô tận như tấm
lòng của người dân chưa bao giờ thôi nhớ Bác.
- Hình ảnh “dòng người đi trong thương nhớ” là dòng
người nườm nượp vào lăng viếng Bác, ai cũng chung một tâm trạng nhớ thương và
biết ơn vô hạn đối với Bác.
- Hình ảnh ẩn dụ “tràng hoa” diễn tả tấm lòng biết ơn, sự
sự yêu mến, thành kính của nhân dân đối với Bác Hồ vĩ đại. Mỗi người dân là một bông hoa và dòng người đi
trong thương nhớ chính là tràng hoa dâng lên Bác.
- Bảy mươi chín mùa xuân chỉ một cuộc đời
ý nghĩa và vĩ đại .Cả một cuộc đời ấy ,Bác chỉ một lòng lo cho nước cho dân
,chưa bao giờ suy nghĩ cho riêng mình.
+ Từ “dâng” càng tô đậm thêm tình cảm kính
yêu trân trọng, biết ơn sâu sắc nhất và trọn vẹn nhất.
⇒ Sự biết ơn công lao to lớn của chủ tịch Hồ
Minh, niềm thành kính của người dân Việt Nam với vị lãnh tụ của dân tộc
c. Khổ 3:
Niềm xúc động nghẹn ngào khi vào lăng,
nhìn thấy di hài Bác
- Nói giảm nói
tránh “Giấc ngủ bình yên”: nhằm giảm
đi nỗi đau, vừa thể hiện thái độ nâng niu, trân trọng giấc ngủ của Bác.
- Nhân hóa “vầng trăng sáng dịu hiền”: chỉ ánh đèn
tỏa ra từ lăng, đó cũng là ẩn dụ chỉ tâm hồn cao đẹp, nhân cách thanh cao của
Người.
+ Trăng vừa biểu tượng cho vẻ đẹp nhân
cách thanh cao của Bác, vừa là người tri kỉ theo Bác từ những năm tháng còn sống
cho tới lúc Người đi vào cõi vĩnh hằng.
=> Người đang
ngủ,lặng lẽ và yên bình. Ngày ngày mặt trời vẫn đi qua, đêm đêm ánh trăng vẫn
chiếu rọi dịu hiền và thanh mát. Trong
lòng mỗi người dân Việt Nam,Bác mãi mãi bất diệt.
- Trời xanh “mãi mãi”: tấm lòng, đạo
đức của Người cao vợi, vẫn mãi xanh trong cao cả dù Người đã ra đi
- Hình ảnh vầng trăng, trời xanh: Bác trường tồn,
vĩnh hằng cùng non sông đất nước.
- Ẩn dụ chuyển đổi
cảm giác “nghe nhói ở trong tim”, nhà
thơ như nghe thấy nỗi đau cứ nhức nhối như cắt cứa trong tim mình. Trong niềm
vui thống nhất độc lập của dân tộc,chúng con lại thiếu vắng Người. Còn nỗi mát
mát ,đau thương nào lớn hơn nữa. Đó không chỉ là nỗi đau riêng tác giả mà của cả
triệu trái tim con người Việt Nam.
⇒ Với dân tộc Việt Nam, Bác Hồ không bao giờ mất,
Bác vẫn sống.
d. Khổ 4:
Những tình cảm, cảm xúc trước lúc ra về. Ý thơ sâu lắng, hình ảnh thơ đẹp và độc
đáo, cách biểu hiện cảm xúc "rất Nam Bộ".
- “Mai về miền Nam thương trào nước mắt”:
cảm xúc trực tiếp lưu luyến không muốn rời xa. Tạm
biệt Người ở lại với giấc ngủ ngàn thu
mà bước chân của những người con miền Nam như nặng trĩu
- Điệp ngữ “muốn làm”: niềm dâng hiến tha thiết,mãnh
liệt, muốn làm một điều gì đó vì Bác.
- Phép liệt kê, ẩn
dụ “con chim, đóa hoa, cây tre”: để
dâng tiếng hót vui tươi cho Người; để góp thêm hương sắc cho khu vườn thiên
nhiên quanh lăng, và để đứng canh giấc ngủ cho Người. Ước muốn cuối cùng trước
khi rời lăng chính là lời hứa mãi mãi kiên trung với đất nước, quyết giữ gìn đất
nước, sống xứng đáng với ý nguyện của Người.
- Hình ảnh ẩn dụ cây tre được lặp lại tạo kết cấu đầu cuối
tương ứng thể hiện đạo lí sáng ngời của con người Việt Nam tận trung với nước,
tận hiếu với dân, đời đời trung thành với sự nghiệp cách mạng của Bác.
⇒ Chủ thể “con”
đến đây không xuất hiện thẻ hiện ước nguyện này không phải của riêng tác giả mà
là của tất cả mọi người, của dân tộc ta đối với Bác.
3. Đánh giá
+ Với thể thơ 8
chữ, giọng điệu thiết tha, sâu lắng, sử dụng linh hoạt các biện pháp tu từ quen
thuộc, ngôn ngữ thơ giản dị mà cô đọng.
+Bài thơ là tấm
lòng yêu thương, kính trọng và biết ơn Bác.
(Viễn Phương đã rất
thành công khi đi từ cảm xúc cá nhân đối với lãnh tụ đến tình yêu mến vô hạn của
quân dân miền Nam kính yêu dành tặng cho Người. Đặc biệt, nhà thơ đã hình tượng
hóa sâu sắc hình ảnh Hồ Chí Minh bằng những biểu tượng có sức khái quát cao độ,
khẳng định mạnh mẽ sức sống vĩnh hằng của Người trong lòng dân tộc. Ông đã nhẹ
nhàng đóng góp vào nền thơ ca Việt Nam một khúc ca réo rắt tình cảm yêu thương,
ngợi ca sự nghiệp vĩ đại của Bác.)
C. Kết bài
-Viễn Phương đã
thay nhân dân miền Nam nói riêng và nhân dân cả nước nói chung dâng lên Bác niềm
cảm xúc chân thành, lòng tôn kính thiêng liêng.
- Bài thơ sẽ tiếp tục sống trong lòng người đọc,
gợi nhắc cho những thế hệ kế tục thành quả rực rỡ của cách mạng cách sống sao
cho xứng đáng với sự hi sinh của một con người vĩ đại mà giản dị- Chủ tịch Hồ
Chí Minh.
(Có thể nói thơ
Viễn Phương dễ nhớ, giàu cảm xúc, nhưng không bị lụy hay cường điệu nỗi đau…
Thơ ông chân thật như tâm hồn, như tiếng nói người Nam Bộ. Thơ Viễn Phương nền
nã, thì thầm, man mác, bâng khuâng, day dứt, không gút mắt, cầu kỳ, kênh kiệu
hay khoa ngôn. Bởi thế, thật dễ hiểu, qua bao năm tháng, bài thơ Viếng lăng Bác
vẫn còn vang vọng mãi trong lòng người đọc, đặc biệt là đối với người dân Nam Bộ.)