Thứ Năm, 11 tháng 6, 2020

DÀN Ý PHÂN TÍCH ĐOẠN TRÍCH CẢNH NGÀY XUÂN CỦA NGUYỄN DU

DÀN Ý PHÂN TÍCH ĐOẠN TRÍCH CẢNH NGÀY XUÂN CỦA NGUYỄN DU

A. Mở bài

- Nguyễn Du là đại thi hào của dân tộc Việt Nam, danh nhân văn hóa thế giới, ông đã để lại cho đời một sự nghiệp văn chương đồ sộ, trong đó, tiêu biểu nhất là "Truyện Kiều".

- Đoạn trích Cảnh ngày xuân là một trong những đoạn trích thể hiện năng lực miêu tả thiên nhiên tài tình của Nguyễn Du.

(Nói đến Truyện Kiều người ta thường hay đề cập đến Nguyễn Du ở khía cạnh là một nhà nhân đạo lớn mang trong mình một tình yêu thương con người bao la, rộng lớn, biết đồng cảm xót xa trước những khổ đau bất hạnh của người khác. Nhất là đối với cuộc đời của những người phụ nữ tài hoa mà bất hạnh trong xã hội cũ. Nhưng nói đến Nguyễn Du, người ta không thể không bàn đến những thành công đặc sắc của ông về nghệ thuật miêu tả thiên nhiên, cảnh vật, con người vô cùng nên thơ, sống động, đa dạng, một tài năng nghệ thuật miêu tả bậc thầy xưa nay hiếm có. Đoạn trích “Cảnh ngày xuân” là một đoạn thơ tiêu biểu cho tài năng hơn người ấy.)

B. Thân bài

1. Khái quát

Khung cảnh ngày xuân với những đường nét thanh tao, bức tranh sinh hoạt của con người trong tiết thanh minh cùng với khung cảnh một buổi chiều tàn được tái hiện tinh tế và có hồn trong bức tranh thiên nhiên ngày xuân của Nguyễn Du.

( Nhắc đến những đoạn thơ tả cảnh tuyệt bút, đoạn trích “Cảnh ngày xuân” là một ví dụ tiêu biểu cho thấy biệt tài vẽ tranh bằng chữ của đại thi hào Nguyễn Du. Với đoạn trích này, nhà thơ đã khắc họa nên một bức tranh về khung cảnh ngày xuân với những nét đẹp vô cùng tươi mới và tràn đầy sức sống. Khung cảnh ngày xuân với những đường nét thanh tao, bức tranh sinh hoạt của con người trong tiết thanh minh cùng với khung cảnh một buổi chiều tàn được tái hiện tinh tế và có hồn trong bức tranh thiên nhiên ngày xuân của Nguyễn Du.)

2. Phân tích

a. 4 câu đầu: Bức tranh xuân đầy sức sống

- Hai câu thơ đầu vừa nói đến thời gian, vừa gợi được không gian:

+ Cách nói "con én đưa thoi", “đã ngoài" cho thấy sự trôi chảy nhanh chóng của thời gian. Thời gian của mùa xuân thấm thoắt trôi mau, đã bước sang tháng ba.

 - Không gian khoáng đạt và đậm chất xuân được gợi lên qua những cánh én chao lượn rộn ràng, ánh sáng trong veo, không gian trong trẻo  tràn ngập ánh nắng - “thiều quang".

+ Thiều quang là ánh sáng đẹp. Mùa xuân gồm có ba tháng tức là có chín mươi ngày. Chín mươi ngày xuân là chín mươi ngày ánh sáng đẹp đẽ bao trùm lên không gian cảnh vật.

- Hai câu sau miêu tả bức tranh xuân tuyệt mĩ. Cảnh vật đơn giản với cỏ xanh, hoa trắng nhưng hiện lên không gian khoáng đạt, rộng lớn, tươi đẹp

+ “Cỏ non xanh tận chân trời”: Cỏ non xanh tươi mơn mởn, trải dài đến tận chân trời xa xôi vô tận.Gam màu xanh chủ đạo, tạo nên một không gian bao la, bát ngát khoáng đạt tươi mới, tràn đầy sức sống.

+ “Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”: Hình ảnh hoa lê gợi lên sự mới mẻ, tinh khôi, thanh khiết kết tinh của đất trời được điểm xuyết trong không gian.

_ Màu trắng của cành lê dường như nổi bật hơn giữa nền trời xanh biêng biếc. Cái màu trắng tinh khiết ấy tập trung mọi sự chú ý, làm xao động lòng người.

_ Cách diễn đạt thật sáng tạo - đảo trật tự cú pháp “trắng điểm một vài bông hoa” gợi sức sống của mùa xuân đang trỗi dậy, trong từng ngọn cỏ, từng bông hoa mới.

b. 8 câu tiếp: Khung cảnh lễ hội trong tiết thanh minh

-  Lời giới thiệu (2 câu thơ đầu): Nghệ thuật tiểu đổi cùng việc tách từ "lễ hội" làm đôi tả hai hoạt động cùng diễn ra trong ngày hội xuân: lễ tảo mộ và hội đạp thanh.

+ Lễ là để tri ân tổ tiên

+ Hội là dịp những người trẻ tuổi đi du xuân, thưởng thức vẻ đẹp của mùa xuân.

- Buổi lễ hội tưng bừng, tấp nập (4 câu tiếp)

+ Các từ ghép hai âm tiết: "gần xa", "yến anh", "chị em" cùng các từ láy "sắm sửa", "nô nức", "dập dìu"...thể hiện tâm trạng náo nức, tươi vui, sự rộn ràng trong lòng người du xuân.

+ Hình ảnh ẩn dụ "nô nức yến anh"vừa gợi hình ảnh từng đoàn người nhộn nhịp chơi xuân vừa gợi những xôn xao chuyện trò, gặp gỡ; những háo hức, tình tứ của những đôi lứa uyên ương.

+ Biện pháp so sánh "Ngựa xe như nước áo quẩn như nêm" tái hiện sự đông đúc, từng đoàn người chen vai thích cánh đi chơi xuân. Cho ta cảm nhận được niềm vui ngày hội đang lan tỏa, bao trùm lên khắp nhân gian.

=> Không khí mùa xuân lễ hội tươi vui, nhộn nhịp, căng tràn nhựa sống, làm ta ngây ngất đắm say trước hương xuân, hương tình nồng nàn phơi phới như giăng mắc, lan tỏa đâu đây.

-  Khoảng lặng của lễ hội

+ Là giây phút con người thăm viếng, sửa sang quét tước phấn mộ người thân, đốt tiền giấy gợi một truyền thống đẹp trong đạo lí của dân tộc: uống ước nhớ nguồn và gợi lối sống ân tình, trân trọng, biết ơn quá khứ.

_ Từ láy “ngổn ngang” gợi lên hình ảnh những nấm mồ nằm bơ vơ, trơ trọi, rải rải đây đó khắp nơi làm cho không gian có gì đó lạnh lùng tê tái.

_ Hình ảnh “Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay” gợi lên hình ảnh những người còn sống đang đốt giấy tiền vàng bạc để tỏ lòng thương tiếc cho người thân.

=> Nguyễn Du đã khắc họa thành công một truyền thống văn hóa lễ hội xa xưa. Đó là một nét đẹp trong đời sống tâm linh, văn hóa của người Việt thuở xa xưa.

c. 6 câu cuối: Cảnh chị em Kiều du xuân trở về

- Bức tranh mùa xuân trong buổi chiều tà vẫn rất đẹp, rất êm đềm nhưng đã thấm đẫm tâm trạng của con người.

- “Tà tà bóng ngả về tây”: gợi khoản thời gian buổi chiều, gợi sự vắng lặng. “Tà tà” gợi ra những ánh nắng nhè nhẹ đang lả lướt buông về phía cuối phương trời xa. 

- “Chị em thơ thẩn dan tay ra về”: Hội vui kết thúc, con người “thơ thẩn” quay trở về. Hai chữ “thơ thẩn” bộc lộ trạng thái bần thần, nuối tiếc, lạc lõng, bơ vơ của chị em Kiều khi ra về.

- Các hình ảnh Ngọn tiểu khê đang in những bóng dài lên cung đường; dòng nước quẩn quanh uốn khúc, róc rách; dịp cầu cuối ghềnh bắc ngang,… như đang ánh lên một nỗi bâng khuâng, nuối tiếc, tiếng nấc rủ rỉ, trơ trọi, vướng mắc đến nao lòng.

- Nhiều từ láy được sử dụng: “thanh thanh”, “nao nao”, “nho nhỏ”: không chỉ gợi cảnh sắc mà còn gợi tâm trạng con người, đó là nét buồn thương, nuối tiếc.

- Các cảnh vật được soi chiếu dưới ống kính từ gần đến xa, từ nhỏ bé đến to lớn như đang cố níu lại, cố tận hương nốt những dư vị ngọt ngào, đẹp đẽ cuối cùng còn sót lại.

Cảnh và người như giao hòa vào nhau, nâng đỡ nhau, tô điểm nhau làm nên một bức tranh cuối ngày thật đẹp. Bức tranh xuân chứa chan tình người, hương xuân ấm áp, gợi lên trong lòng người biết bao rung cảm, khát khao giao hòa.

3. Đánh giá

- Nhịp thơ như dòng trôi nhẹ nhàng, lững lờ với các thanh trắc đan xen, nối nhau liên tiếp.

- Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình cổ điển đặc sắc. Tất cả đã vẽ nên một bức tranh ánh chiều chan chứa màu sắc; âm thanh; và cả hồn người lay động.

(Thông qua việc kết hợp kể, tả và gợi, nhà thơ không chỉ phác họa bức tranh cảnh vật mà còn khắc họa ít nhiều bức tranh tâm cảnh. Nguyễn Du nói đến mùa xuân, nói đến không khí lễ hội và đồng thời cũng đã gợi lên tinh thần, tâm trạng bịn rịn, tiếc nuối, thơ thẩn, nao nao của con người khi tham gia lễ hội ấy. Nội dung ấy đã được chuyển tải thành công còn nhờ vào nghệ thuật sử dụng từ ngữ (đặc biệt là từ láy) và cách xây dựng bố cục ba phần rõ rệt với cao trào là không khí tấp nập của ngày hội.)

C. Kết bài

Cảnh ngày xuân đã giúp ta thấy được ngòi bút tài hoa của đại thi hào khi miêu tả vẻ đẹp của thiên nhiên. Tác giả dựng lên bức tranh ngày xuân rạo rực với không khí lễ hội đầy vui tươi. Từ đó cũng cho thấy tâm hồn nhạy cảm và đầy tinh tế của những con người trẻ tuổi mà ở đây là Thúy Kiều.

(Cảnh mùa xuân hiện lên qua đoạn thơ là một khung cảnh rất êm đềm, tươi sáng, cảnh sắc thiên nhiên đất trời hòa hợp tươi đẹp với cuộc sống và lòng người. Cảnh thiên nhiên ấy dù được miêu tả có tính chất ước lệ nhưng vẫn là cảnh sắc thân thương của dân tộc, của đất nước. Đoạn thơ cũng là bức tranh thiên nhiên lễ hội, mùa xuân tươi đẹp trong sáng, là một trong những bức tranh thiên nhiên tươi đẹp nhất trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du.)