Thứ Ba, 30 tháng 3, 2021

Cảm nhận khổ cuối bài Nói với con của Y Phương

 

Tham khảo và chỉnh sửa từ dinhnghia.com.vn

Cha là bóng cả ngã che con

Là suối tình thương không bao giờ vơi cạn. (Ca dao)

Quả thật, nếu tình mẫu tử ngọt ngào và bao la như biển khơi, ôm ấp và vỗ về ta thì tình phụ tử lại càng thiêng liêng và cao cả gấp bội. Đối với người con, hình bóng của cha chính là “bóng cả”, là “suối tình thương” và là tấm gương sáng cho con noi theo. Chính vì lẽ đó mà tình phụ tử luôn là nguồn cảm hứng bất tận cho biết bao thi nhân xưa và nay. Trong đó có Y Phương – một nhà thơ dân tộc Tày với những tác phẩm mang âm hưởng của miền núi non đại ngàn. Bài thơ giúp ta hiểu thêm về sức sống và vẻ đẹp tâm hồn của một dân tộc miền núi, gợi nhắc tình cảm gắn bó với truyền thống, với quê hương và ý chí vươn lên trong cuộc sống. Lời tâm tình của người cha đối với đứa con mộc mạc mà sâu sắc:

Người đồng mình thương lắm con ơi

Cao đo nỗi buồn

Xa nuôi chí lớn

Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn

Sống trên đá không chê đá gập ghềnh

Sống trong thung không chê thung nghèo đói

Sống như sông như suối

Lên thác xuống ghềnh

Không lo cực nhọc

Người đồng mình thô sơ da thịt

Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con

Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương

Còn quê hương thì làm phong tục

Con ơi tuy thô sơ da thịt

Lên đường

Không bao giờ nhỏ bé được nghe con

Nghe con.

Bài thơ “Nói với con”, được sáng tác năm 1980. Như lời tác giả chia sẻ, năm 1979, vợ chồng ông đón chào đứa con đầu lòng và bài thơ này được ông sáng tác để tặng riêng con gái khi cô được một tuổi. Bài thơ ca ngợi tình cảm gia đình, những phẩm chất cao đẹp của người đồng mình và tình yêu quê hương, đất nước trong bối cảnh còn rất nhiều khó khăn, gian khổ sau cuộc chiến vừa đi qua. Bài thơ có 28 câu, thường chia theo bố cục ba phần, trải dài qua đó là lời nói ân tình của người cha đối với con về đạo làm người, về lẽ sống vượt lên mọi nghịch cảnh bằng niềm tin về văn hóa truyền thống của dân tộc. Tình cảm và lời nhắn gửi dành cho con trong khổ cuối bài thơ đã thể hiện khái quát tình yêu thương bao la mà người cha đã ấp ủ.

Phần đầu bài thơ, tác giả đã mang đến lời thủ thỉ về nguồn cội sinh dưỡng của mỗi người. Đó chính là những khoảnh khắc hạnh phúc, yêu thương trong vòng tay của gia đình, xóm làng. Đến khổ thứ hai, người cha ân cần nhắc nhở con về những phẩm chất cao đẹp của dân tộc mình qua tiếng gọi “người đồng mình”:

 

Người đồng mình thương lắm con ơi

Cao đo nỗi buồn

Xa nuôi chí lớn.

Câu thơ “Người đồng mình thương lắm con ơi” được lặp lại một lần nữa. Có lẽ tác giả muốn khắc sâu vào tâm trí con những điều tốt đẹp và phẩm chất của người đồng mình. Điệp ngữ “Người đồng mình” được lặp lại nhưng không còn là “yêu” mà là “thương”. Nếu trên kia “yêu lắm con ơi” là yêu cuộc sống vui tươi bình dị, yêu bản làng thơ mộng, yêu những tấm lòng chân thật nghĩa tình, thì đến đây niềm ước vọng càng thêm tha thiết: “thương lắm con ơi”."Thương" là một trạng thái tình cảm không chỉ xuất phát từ trái tim yêu thương chân thành nữa mà còn gói gém cả sự sẻ chia, đồng cảm ở trong lòng. Tình cảm được nâng lên nhiều lần bởi sau từ “thương” đó là những những nỗi vất vả, gian khó của con người quê hương. Chính vì thế, "người đồng mình" – những con người cùng miền đất, quê hương, dân tộc cùng chí hướng đã đoàn kết, gắn bó, sẻ chia và đồng cảm với nhau mà dựng xây quê hương mình trở nên ngày một giàu đẹp hơn. Người cha biểu lộ tình cảm yêu thương chân thành về gian truân, thử thách cùng ý chí mà người đồng mình đã trải qua. Người cha thương buôn làng còn nghèo đói, còn vất vả, khó khăn nhưng cũng chính từ đó con hãy tự hào với sức sống của dân tộc mình.

Nhà thơ sử dụng nghệ thuật tương hỗ lấy “cao” so với “nỗi buồn”, lấy “xa” so với “chí lớn” thể hiện hình ảnh gần gũi, đậm chất tư duy của người miền núi. Y Phương đã diễn tả những trạng thái khác nhau của "người đồng mình". "Nỗi buồn – chí lớn" là khái niệm vô hình nhưng đã được tác giả hình dung cụ thể như có hình, có khối. "Người đồng minh" buồn, lo lắng, khắc khoải ở trong lòng vì trước mắt họ là biết bao nhiêu là khó khăn, gian nan thử thách; khi mà cả quê hương họ còn chưa vươn tới được tầm cao văn minh, vẫn còn quanh quẩn với cái đói, cái nghèo. Nhưng "Người đồng mình" không bao giờ nhụt chí, mà luôn mạnh mẽ, vững vàng đối diện với những khó khăn, thách thức ấy, đưa quê hương tiến lên phía trước, trở nên giàu mạnh, phát triển, văn minh. Câu thơ giản dị, mộc mạc, chân chất những đã diễn tả được tinh thần, ý chí quật cường, mạnh mẽ của người dân vùng cao. Con cũng đừng mặc cảm,tự ti mà trái lại hãy nghĩ tích cực, tự tin và sống mạnh mẽ. Hai câu thơ “Cao đo nỗi buồn/ Xa nuôi chí lớn” không chỉ là bài học người cha muốn gửi riêng đến con mà Y Phương của muốn gửi đến bao người.

Tình cảm và ước muốn của người cha ngày càng mạnh mẽ và kiên quyết hơn:

Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn

Sống trên đá không chê đá gập ghềnh

Sống trong thung không chê thung nghèo đói

Sống như sông như suối

Lên thác xuống ghềnh

Không lo cực nhọc

Cha nói với con, dạy bảo con về đạo lí làm người. Trong bất cứ thời gian nào, hoàn cảnh nào "cha vẫn muốn", cha vẫn mong con biết ngẩng cao đầu và sống đẹp.

Nếu như hội họa, người họa sĩ dùng đường nét để sáng tạo, âm nhạc, người nghệ sĩ dùng âm thanh để tạo nên tác phẩm hay trong điêu khắc dùng hình khối để sáng tác thì văn chương dùng ngôn từ làm chất liệu. Nhà thơ đã chọn lọc, sử dụng điệp từ “sống” cùng phép liệt kê “đá, thung” đã khắc họa một bức tranh làng bản núi đồi thật đẹp. Cuộc sống của người miền núi được nhà thơ đã sử dụng rất nhiều những hình ảnh để nói tới như: "đá gập ghềnh", "thung nghèo đói", "lên thác xuống ghềnh" có ý nghĩa diễn tả những khó khăn, vất vả, nghèo đói và nhọc nhằn mà họ đã và đang phải đương đầu. Điệp ngữ "sống ... không chê" (2 lần), kết hợp với nhịp thơ nhanh, dồn dập và biện pháp so sánh "như sông như suối" có tác dụng diễn tả sức sống mạnh mẽ, mãnh liệt, bền bỉ của những người con miền núi cao trước cuộc sống khó khăn, vất vả khi mà chiến tranh lùi xa. nhà thơ thể hiện niềm tự hào về "người đồng mình" với sức mạnh, ý chí thật phóng khoáng, đoàn kết, gắn bó thiết tha của họ đối với nơi chôn rau cắt rốn của mình. Cụm từ phủ định nhưng mang ý khẳng định “không chê” được tác giả nhấn mạnh một điều tiên quyết, con không bao giờ được phép quên đi những khó khăn, vất vả của quê hương mình, con hãy nhớ và không ngừng vươn lên. Dùng thành ngữ “lên thác xuống ghềnh”, Y Phương gợi ý một cách sống cho con mình đó chính là hãy sống như tự nhiên, hãy biết mềm dẻo, linh hoạt như con suối của bản làng để vượt qua những khó khăn trên đường đời. Thành ngữ “lên thác xuống ghềnh” được tác giả sử dụng ở đây khá đặc sắc, nó tạo âm hưởng thơ thêm trúc trắc, giàu sức gợi. Nhịp thơ tuôn chảy mạnh mẽ gợi lên sức sống bền bỉ, mãnh liệt của con người trước vất vả, cực nhọc của cuộc đời. Nhà thơ biết rằng, con cũng như tất cả mọi người đều có những ước mơ, hoài bão như sông suối vì tất cả đều hướng ra nơi mênh mông của biển khơi để thấy cuộc đời rộng lớn và có nhiều điều cần phải học hỏi hơn. Người cha muốn nhắc nhở con về thái độ sống phóng khoáng, mạnh mẽ. “Không lo cực nhọc” vì khó khăn, thử thách mà con người phải đối mặt trên cuộc đời sẽ giúp con học được cách tự chủ bản thân, vững vàng trước sóng gió,

Không dừng lại ở đó, "người đồng mình" còn hiện lên là những con người bản lĩnh, mạnh mẽ, giàu nghị lực sống và luôn mang trong mình lòng tự tôn dân tộc với khát vọng dựng xây đất nước:

Người đồng mình thô sơ da thịt

Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con

Hình ảnh ẩn dụ “thô sơ da thịt” đối lập “chẳng…nhỏ bé” càng làm toát thêm vẻ đẹp mạnh mẽ không chỉ ở bên ngoài mà còn tiềm ẩn bên sâu trong tinh thần của con người miền núi. Hình ảnh "thô sơ da thịt" diễn tả vẻ đẹp mộc mạc, bình dị, chân chất, khẳng khái của "người đồng mình". Người đồng mình do cuộc sống vất vả, bước đầu còn gian nan nên vẻ ngoài của họ có phần đen đúa, thô kệch. Nhưng họ không hề "nhỏ bé" về tâm hồn mà ngược lại rất giàu lòng tự trọng, giàu chí khí, niềm tin cao đẹp với khát vọng dựng xây, phát triển quê hương.

Hiểu rõ  hoàn cảnh của quê hương của dân tộc mình, người cha còn nhắn nhủ con hãy sống có ích và đừng quên đi nguồn cội của mình. Muốn vậy, "người đồng mình" phải lao động:

Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương

Còn quê hương thì làm phong tục.

Câu thơ có hai lớp nghĩa tả thực và ẩn dụ. Và tác giả đã miêu tả cuộc sống lao động của họ qua cụm từ "tự đục đá" thường thấy của người dân miền núi cao. Công việc của họ rất vất vả, nặng nhọc nhưng họ sẵn sàng tự nguyện làm vì sự phát triển của quê hương mình. Cụm từ “tự đục đá kê cao quê hương” thể hiện ý chí mạnh mẽ, tinh thần tự lực tự cường của người đồng mình. Từ những công việc vất vả, từ bàn tay lao động của họ sẽ đưa quê hương, đưa đất nước lên tầm cao mới, phát triển vững mạnh. Nhà thơ không dùng mĩ từ để ca ngợi tinh thần ấy mà ông chọn từ “đục đá, kê cao” một cách gần gũi và bình dị, đậm chất sử dụng ngôn ngữ của người dân tộc Tày. Nhưng hình ảnh "kê cao quê hương" còn là hình ảnh ẩn dụ, biểu tượng cho lòng tự hào, tự tôn dân tộc của "người đồng mình". Chính những con người cần cù, nhẫn nại, bằng đôi tay lao động của mình đã làm nên quê hương, làm nên phong tục tập quán lâu đời tốt đẹp của dân tộc mình. Cách diễn đạt đó thật khác lạ song cũng độc đáo không kém. Một bàn tay gầy dựng nên quê hương rồi từ chính mảnh đất ấy làm nên những phong tục giàu giá trị. đó là truyền thống, là nét văn hóa cần phải giữ gìn. Đó là cách thể hiện tình yêu quê hương, đất nước, là cách nhìn, cách nghĩ nâng niu và trân quý bao giá trị văn hóa ngàn đời. Hình ảnh thơ vừa cụ thể, vừa mang ý nghĩa thực, vừa có sức khái quát, vừa mang ý nghĩa ẩn dụ sâu xa. Đọc câu thơ người đọc thấy người cha như đang nhắn gửi với con về những phẩm chất tốt đẹp của người đồng mình. Tiếng gọi ấy còn được lặp lại trong khổ thơ như một điệu hát ru thân thương, trìu mến. Người cha tự hào, ca ngợi về phẩm chất tốt đẹp của người đồng mình: sống rộng mở, bao la, biết kiên trì và trân trọng những nét đẹp truyền thống của quê hương, nguồn cội. Quê hương và những truyền thống tốt đẹp chính là nền tảng, là điểm tựa tinh thần vững chắc giúp con người vươn lên.

Để kết lại trọn vẹn cảm xúc trào dâng ở hai khổ trước, khổ cuối cùng với bốn câu thơ đã hoàn chỉnh ý thơ thêm trọn vẹn:

 

Con ơi tuy thô sơ da thịt

Lên đường

Không bao giờ nhỏ bé được

Nghe con.

Càng lúc hình ảnh và lời nói của người cha hiện lên càng lớn lao, nhanh chóng thôi thúc con trên đường đời. Cách so sánh đối lập “thô sơ da thịt” nhưng “không nhỏ bé” như khẳng định niềm tin cha tin ở con sẽ phát huy được truyền thống quê hương, sẽ nhớ đến lời cha dạy, sẽ không bao giờ nhỏ bé dù đi bất cứ nơi đâu và hơn hết là không bao giờ quên đi nguồn cội.  Một lần nữa, cha lại gửi gắm nỗi niềm của mình, mong con ghi nhớ và tự hào những phẩm chất tốt đẹp của người đồng mình, đừng tự ti mà hãy tự tin, hãy trưởng thành trên đường đời với những hành trang ấy. “Lên đường” là hình ảnh ẩn dụ để chỉ con đường đời, con đường đi tới tương lai, khi đó, con phải thật mạnh mẽ, vững vàng, không được phép yếu mềm buông xuôi trước thách thức của cuộc đời. Cách nói “nghe con” như một lời cầu khiến thể hiện sự chân thành, vừa là một lời khuyên chí tình dành cho con, cũng như thế hệ trẻ của buôn làng. Giọng thơ nhỏ nhẹ chân tình kết hợp với các từ “con ơi”, “nghe con” sao mà ấm cúng, thân thương. Đó không còn là lời thơ trang hoàng mà trở thành một tiếng gọi vang vọng từ tâm hồn sâu thẳm từ đáy lòng của cha. Rất tự nhiên mà sâu sắc, bài thơ đã động vào dây đồng cảm của chúng ta, khiến ta phải suy nghĩ về trách nhiệm, bổn phận của mình với quê hương, đất nước.

Sau tất cả, những lời cha viết nên trên trang thơ cũng chỉ mong con hãy luôn gắn bó với truyền thống, dân tộc mình, mong con vươn lên bất chấp khó khăn, gian khổ. Khi đọc bốn câu thơ cuối, ta thấy lời của cha không hề mang ý răn đe, giáo điều mà là những lời tâm tình thủ thỉ với con như một người bạn lớn. Do vậy, những lời dạy ấy có thể sẽ khắc sâu vào trong tâm trí con dễ hơn. Lời thơ gửi con cũng chính là lời gửi đến mình. Ta bắt gặp tiếng thơ đồng điệu với nhà thơ Hoàng Trung Thông:

Lời của cha như tiếng sóng thầm thì

Hay tiếng lòng của cha từ một thời sâu thẳm

Lần đầu tiên trước biển khơi vô tận

Cha lại gặp mình trong tiếng ước mơ con. (Những cánh buồm – Hoàng Trung Thông)

Bên cạnh giọng thơ thiết tha, trìu mến, các hình ảnh thơ được tác giả lựa chọn vừa cụ thể vừa có tính khái quát, vừa mộc mạc mà vẫn giàu chất thơ. Đoạn thơ chứa chan ý nghĩa lại đằm thắm và sâu sắc. Nó tựa như một khúc ca nhẹ nhàng mà âm vang. Lời thơ tâm tình của người cha sẽ là hành trang đi theo con suốt đời và có lẽ mãi mãi là bài học bổ ích cho các bạn trẻ – bài học về niềm tin, nghị lực, ý chí vươn lên.

Bài thơ Nói với con đã thể hiện tình cảm gia đình ấm cúng, ca ngợi truyền thống cần cù, sức sống mạnh mẽ của quê hương và dân tộc. Nó giúp ta hiểu thêm về sức sống và vẻ đẹp tâm hồn của một dân tộc miền núi, gợi nhắc tình cảm gắn bó với truyền thống, với quê hương và ý chí vươn lên trong cuộc sống. Bài thơ gửi đến bài học tích cực về lối sống tự hào dân tộc mình, là việc hòa nhập như không hòa tan đi chính cá tính của mình, của dân tộc mình.

 Nhà thơ  thành công trong việc sử dụng thể thơ tự do, ngôn ngữ thân thuộc, gần gũi và giàu hình ảnh đậm chất vùng núi cao. Bài thơ giản dị với những hình ảnh vừa cụ thể vừa mang ý nghĩa biểu tượng liên quan đến nếp sống của người dân tộc Tày, giàu sắc thái biểu đạt và biểu cảm. Cách nói giàu bản sắc của người miền núi tạo nên một giọng điệu riêng cho lời tâm tình mộc mạc mà sâu sắc của người cha đối với đứa con.

Qua những từ ngữ và hình ảnh giàu sức gợi cảm, lối nói miền núi mộc mạc, cách ví von sinh động cùng với giọng điệu thiết tha trìu mến, đoạn thơ đã ca ngợi những đức tính tốt đẹp của người đồng mình. Từ đó, người cha nhắn gửi những ước mong đến con hãy luôn sống ngẩng cao đầu, luôn tự hào về quê hương mà trân trọng, gìn giữ và yêu mến…Người cha đã dạy con đạo lý cao cả “uống nước nhớ nguồn”, đồng thời phải biết chấp nhận gian khó và vươn lên bằng ý chí của mình. Bài thơ chính là một đóa hoa thơm góp vào mảng đề tài quê hương, đất nước. Cho ta thêm yêu thêm nhớ quê nhà thân thuộc của mình:

 Quê hương ơi! Xa rồi nhớ thành thơ

Tiếng mẹ đẻ, gặp nhau mừng khôn xiết

Ai cũng vậy xa lâu rồi mới biết

Những ngôn từ không đủ viết…quê hương!

 

 

 

Thứ Hai, 29 tháng 3, 2021

Phân tích khổ 1 của bài thơ Nói với con (Y Phương)

 


Mỗi con người sinh ra đều có gia đình, quê hương, nguồn cội. Nơi ấy đã nuôi dưỡng ta lớn, dạy ta bài học đường đời đầu tiên, cho ta từng ấy thời gian yêu thương, san sẻ. Hai tiếng quê hương luôn là đề tài truyền cảm hứng vô tận cho các thi nhân. Y Phương – một nhà thơ của núi rừng Tây Bắc, nhà thơ của hoa ban, hoa gạo và những dòng suối rì rào – đã truyền tình yêu gia đình, yêu quê hương, niềm tự hào dân tộc vào Nói với con thông qua lời của một người cha nhắc nhở con trước lúc con lên đường. Cả bài thơ là từng lời chân thành, mộc mạc trong đó khổ đầu với những ý thơ đẹp, Y Phương đã gửi vào lòng người tình cảm gắn bó với gia đình, quê hương, đó là tình cảm thiêng liêng đáng giữ gìn:

Chân phải bước tới cha

Chân trái bước tới mẹ

Một bước chạm tiếng nói

Hai bước tới tiếng cười

Người đồng mình yêu lắm con ơi

Đan lờ caì nan hoa

Vách nhà ken câu hát

Rừng cho hoa

Con đường cho những tấm lòng

Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới

Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời.

Gia đình! Tiếng gọi thân thương bắt đầu cho mọi tình cảm tốt đẹp của con người. Gia đình là cái nôi ấm là điểm tựa vững chắc của mỗi người làm bến đỗ bình yên sau những gian truân vất vả của cuộc đời. Nơi ấy là nơi mẹ về sau buổi chợ trưa với vành nón lá “quê hương là cầu tre nhỏ/ mẹ về nón lá nghiêng che” (Quê hương – Đỗ Trung Quân). Là nơi có cha tẩn mẩn gọt từng nan tre là cho con cánh diều be bé. Gia đình là nơi con bước những bước đầu tiên chập chững, là nơi lưu giữ tiếng nói,tiếng cười con trẻ. Xuyên suốt toàn bộ mạch cảm xúc của khổ thơ đong đầy sự đầm ấm và yên vui của tình cảm gia đình tình yêu quê hương đất nước.

Trong bốn dòng thơ đầu bài thơ là hình ảnh của người con lớn lên trong tình cảm gia đình êm ái yêu thương. Ở đó còn toát lên tình yêu thương dạt dào sâu nặng và người cha dành cho đứa con thân yêu của mình:

Chân phải bước tới cha

Chân trái bước tới mẹ

Một bước chạm tiếng nói

Hai bước tới tiếng cười.

Hiện lên qua từng con chữ vần thơ là một mái nhà đầm ấm yên vui có cả cha có mẹ và có cả con. Ở đó, cha mẹ đã dìu dắt và nâng đỡ con từng bước đi tiếng nói nụ cười đầu tiên trong cuộc đời. Bằng những từ ngữ giàu hình ảnh cùng với phép liệt kê “chân phải, chân trái, tiếng nói, tiếng cười”, Y Phương đã vẽ ra trước mắt người đọc không khí ấm cúng, hạnh phúc của một gia đình. Ở đó, có một đứa trẻ đang vừa lên một đang cố bước những bước chân non nớt về phía cha mẹ mình. Không có gì đáng yêu hơn là đôi bàn chân hồng hồng đi trên sàn nhà và đôi tay bé xíu vẫy vẫy cha mẹ. Trong sự đáng yêu ấy là cả niềm mong đợi, vui sướng của mẹ cha khi lần đầu được nghe con bập bẹ “mẹ ơi, cha ơi”, lần đầu nhìn thấy con vững chãi bước đi trên chính đôi chân của mình. Câu thơ mộc mạc cứ như một lời kể nhưng bên trong lại là những tình cảm thân thương, trìu mến của cha mẹ dành cho đứa con bé bỏng. Nụ cười của con, tiếng nói của con làm sống lại những kỉ niệm tưởng chừng đã mất khi cha mẹ còn là một đứa trẻ:

Bàn chân từng đạp bằng sắt đá

Trở về làng bập bẹ tiếng đầu tiên. (Tên làng- Y Phương).

Những bước đi của con là bước đi của thời gian, bước đi nối tiếp nhau của các thế hệ. Ngày xưa, ông bà đã từng nắm lấy đôi bàn tay cha mẹ dìu đi thì bây giờ đôi tay cha mẹ đủ trưởng thành để dìu dắt con, làm chỗ dựa cho con để con yên tâm khôn lớn. Điểm tựa vững chắc là gia đình đã nuôi dưỡng tâm hồn con lớn lên từng ngày.

Con con chỉ lớn lên trong vòng tay của cha mẹ trong tình yêu thương của gia đình mà là còn trong sự đùm bọc của quê hương trong vẻ đẹp của người đồng mình:

Người đồng mình yêu lắm con ơi

 Đan lờ cài nan hoa

Vách nhà ken câu hát

Rừng cho hoa

Con đường cho những tấm lòng.

Từ tình cảm gia đình sâu nặng, người cha hướng con đến tình cảm dành cho quê hương, cho dân tộc mình. Tác giả đã khéo léo dùng cụm từ “người đồng mình” để nhắc đến những con người giản dị, mộc mạc nơi rừng núi. Người đồng mình cũng là người quê mình nhưng trong “đồng” ta thấy được cả sự đoàn kết, gắn bó: cùng chung quê hương – đồng hương, cùng chung tấm lòng: đồng lòng, cùng chung chí hướng – đồng chí vì tất cả chúng ta là đồng bào!

Cha đang kể cho con nghe về người đồng mình trong cuộc sống sinh hoạt.

Con lớn lên không chỉ nhờ vào tình yêu của cha mẹ, tình cảm gia đình mà còn nhờ vào công sức lao động của người đồng mình. Họ là những con người có đôi bàn tay tài hoa khéo léo:

Đan lờ cài nan hoa

Vách nhà ken câu hát.

Hai động từ “cài” và “ken” đã cho thấy rõ sự tài hoa trong cách dùng từ của nhà thơ Y Phương. Tác giả đang hướng bạn đọc đến với sự kết nối giữa giá trị lao động và giá trị nghệ thuật. Và có thể thấy bức vách ở đây không chỉ là bức vách cụ thể bằng đất bằng đá nữa mà nó đã trở thành một chủ thể văn hóa. Y Phương đã miêu tả đôi bàn tay với những chi tiết nhỏ nữa là phi lý nhưng lại tái hiện lên được nét đặc trưng của người dân tộc Tày, đó chính là sự tài hoa tâm hồn đầy lãng mạn. Cụm từ “vách nhà ken câu hát” đã làm bừng dậy một không gian văn hóa của người dân tộc Tày ở tỉnh Cao Bằng. Vách nhà được làm bằng nhiều tấm gỗ hoặc tre xếp xít nhau,ken chặt vào nhau tạo thành bức tường vững chắc, phần nào nói lên được cuộc sống lao động vất vả, thiếu thốn của người dân nơi đây. Tuy vậy ta không thấy tiếng thở than cho sự vất vả ấy mà trái lại Y Phương đã nói lên được tinh thần lạc quan, hăng say lao động của con người. Trong khó khăn, họ vẫn hát ca bên đống lửa, điệu khèn, tiếng sáo, điệu múa uyển chuyển của cô thôn nữ làm cuộc sống của người dân giàu hơn mọi thứ, một đời sống tinh thần phong phú. Các động từ “đan, cài, ken” đều có chung một nét nghĩa đó là gắn kết các vật lại với nhau một cách bền chặt nhất. Phải chăng tác giả đã khéo léo dụng từ để nói được tinh thần đoàn kết, gắn bó,san sẻ của người đồng mình trong mọi hoàn cảnh, đó cũng là đức tính là bản sắc văn hóa vùng miền.

Bên cạnh đó, sự hùng vĩ của núi rừng và sự thơ mộng của thiên nhiên miền núi cũng góp phần bồi đắp cho đời sống tình cảm của người con ngày một lớn hơn:

Rừng cho hoa

Con đường cho những tấm lòng.

Nhắc đến núi rừng, chúng ta lại nghĩ đến những con suối dữ dội,những trận mưa lũ mịt mù “mưa nguồn suối lũ nhưng mây cùng mù” hay những rừng cây cao vút chạy tít tấp đến chân trời. Đối với người đồng bào mình, núi rừng là cội nguồn của sự sống, là người mẹ chở che, núi rừng cho con người mọi thứ cần thiết cho đời sống hằng ngày. Để nói đến điều tuyệt vời mà núi rừng mang lại cho con người, Y Phương chỉ dùng một từ “hoa”. Hoa ở đây không đơn thuần là đặc trưng của đại ngàn hoa cỏ mà còn mang ý nghĩa chỉ vẻ đẹp, sự tinh túy, sự hòa quyện giữa nét đẹp hoang dã và tình yêu của con người dành cho thiên nhiên. Hình ảnh hoa như một tín hiệu thẩm mĩ  góp phần diễn đạt điều tác giả đang muốn khái quát: chính những gì đẹp đẽ của quê hương đã hun đúc nên tâm hồn cao đẹp của con người ở đó. Cả “rừng” và “con đường” đều được nhân hóa để nơi ấy không chỉ là nơi đứa con khôn lớn mà còn là chỗ dựa tinh thần cho những bước đi của con vào đời. Mỗi con đường con ra suối, lên núi, băng rừng hay trở về nhà đều mang “những tấm lòng”. Điệp từ “cho” mang nặng nghĩa tình. Thiên nhiên đã che chở, nuôi dưỡng, bồi đắp tâm hồn cũng như lối sống của con người. Đó là tấm lòng của quê hương dành cho mỗi con người cũng là tấm lòng của người đồng mình dành cho nhau: thủy chung, hiền lành, rộng mở. Quê hương ấy chính là cái nôi để đưa con vào cuộc sống êm đềm.

Từ tình cảm của quê hương, xứ sở, người cha đã không kìm được nỗi hạnh phúc, tự hào để nhắc cho con mình ngày đầu tiên nhớ mãi:

Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới

 Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời.

Kết quả của “ngày cưới” mà tác giả vẫn luôn nhớ chính là đứa con, là sinh linh bé bỏng cha mẹ luôn bảo vệ và nâng niu. Qua đây Y Phương muốn nhắn nhủ với con rằng yêu thương chính là cội nguồn của tất cả, như việc sống và tồn tại hiện nay của mỗi người. Con bây giờ đã đủ trưởng thành, sắp lên đường lập chí, lập thân, nhưng cha vẫn không quên nhắc nhở con sự thiêng liêng của hôn nhân khởi đầu là ngày cưới. Mọi niềm vui, mọi trách nhiệm của con người cũng được nuôi dưỡng từ đây.

Ba hình ảnh: con người - mảnh đất quê hương - ngày cưới của cha mẹ gợi thức dậy ở đứa trẻ tình yêu thương, lòng gắn bó với cội nguồn sinh dưỡng. Rằng, con được sinh ra và được nâng niu trong một thế giới đầy sắc màu cổ tích. Đó là thế giới của những con người tài hoa, những tâm hồn lãng mạn, là thế giới của những con đường xuyên những cánh rừng đầy hoa và gần gũi hơn nữa, con được sinh ra từ tình yêu tha thiết giữa cha và mẹ (bằng chứng là nỗi nhớ “ngày đầu tiên đẹp nhất trong đời”). Một thế giới như thế sẽ đủ sức bao bọc con trong những êm đềm, những yêu thương; đủ sức nuôi lớn tâm hồn con và xứng đáng để con không phụ lòng.

Đẹp làm sao các hình ảnh thơ vừa cụ thể, mộc mạc, cô đọng mà vừa phong phú, sinh động, giàu chất thơ. Với thể thơ tự do với nhịp điệu, giọng thơ tha thiết, nhiều hình ảnh mộc mạc nhưng giàu sức gợi cảm kết hợp một số biện pháp nghệ thuật như nhân hóa, ẩn dụ, đoạn thơ đã làm nổi bật sự gắn bó sâu nặng của con người đối với gia đình, quê hương, đồng bào mình. Đó là tình cảm đáng trân trọng, đáng giữ gìn và nó trở thành nét đẹp văn hóa của con người Việt Nam. Những đặc sắc về nghệ thuật cộng hưởng hài hoà với những cung bậc tình cảm khác nhau của cha đã tạo nên dư âm sâu lắng cho bài thơ.

Mọi tình cảm tốt đẹp của con người đều được nuôi dưỡng từ những điều bình dị nhất. Trong đó có tình cảm gia đình, tình yêu quê hương, đất nước. Y Phương đã mượn lời người cha nhắc nhở con trước lúc con lên đường cũng là muốn nhắc nhở chúng ta sống ân nghĩa, thủy chung, hướng về nguồn cội. Đoạn thơ đã bồi đắp cho ta thêm về tình yêu gia đình và tình yêu quê hương đất nước. Từ đó tự nhắn nhủ với bản thân mỗi người phải cố gắng rèn luyện hơn chăm chỉ học tập để xây dựng nước nhà một giàu đẹp và phát triển.

Thứ Bảy, 13 tháng 3, 2021

Phân tích khổ cuối Mùa xuân nho nhỏ

 


“Mùa xuân nho nhỏ” là một trong những bài thơ tiêu biểu trong gia tài thơ xuân Việt Nam, được nhà thơ Thanh Hải viết trên giường bệnh, trước khi mất chỉ vài ngày. Đó là lời tự bạch chân thành với những tâm niệm đầy tính nhân văn về lẽ sống và đời thơ. Bài thơ nhanh chóng chinh phục người đọc bởi âm hưởng, ngân nga mà sâu lắng, bởi năng lượng cảm xúc dồi dào truyền tải và lan toả tình yêu đời, yêu cuộc sống. Nhà thơ Thanh Hải đã từng viết nhiều về đất Huế quê hương, và khúc ca cuối cùng của ông cũng là khúc ca giành cho Huế:

Mùa xuân ta xin hát

Khúc Nam ai Nam bình

Nước non ngàn dặm mình

Nước non ngàn dặm tình

Nhịp phách tiền đất Huế.

Bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” là lời tâm sự chân thành, cảm động của nhà thơ, thể hiện tình yêu quê hương thiết tha và khát vọng dâng hiến mùa xuân cuộc đời cho mùa xuân của đất nước. Bài thơ ít nói đến Huế nhưng sao người đọc vẫn nhận ra một điều, bài thơ vẫn đậm đà chất Huế. Chất Huế nằm trong cảnh sắc nên thơ trong tâm hồn dịu dàng, đằm thắm trong những bài thơ ngũ ngôn, trong những bài dân ca Huế. Và đặc biệt chất Huế đậm đà ở khổ cuối trong tiếng hát, tình yêu nước non, tình yêu quê hương đất nước.

Nếu bài thơ mở đầu đã mở ra một bức tranh xứ Huế thật đẹp với hình ảnh phong phú, màu sắc rực rỡ, âm thanh sinh động, rộn rã, được họa lên từ những vần thơ có nhạc… thì đến khổ cuối, giọng thơ trầm lắng, nhà thơ trở về với tình yêu, niềm tự hào lớn lao về xứ Huế trong giá trị truyền thống in dấu thời gian. Kết thúc bài thơ là âm thanh tiếng hát: “Mùa xuân ta xin hát”, tạo nên âm hưởng vang mãi. Câu thơ “Mùa xuân ta xin hát” diễn tả niềm khao khát bồi hồi của nhà thơ đối với quê hương yêu dấu buổi xuân về. Nhà thơ muốn hát lên điệu Nam ai, Nam bình, điệu dân ca tha thiết xứ Huế để đón mừng mùa xuân. “Nam ai, Nam bình” là những làn điệu tiêu biểu của ca Huế, chất chứa âm điệu buồn ai oán, những cảnh đời buồn đau thất vọng, hoặc âm điệu trong trẻo yên bình của cuộc sống an lành. “Phách tiền” là một loại nhạc cụ dân gian được chế tác đơn giản bằng những thanh gỗ có gắn những đồng tiền, thường tấu lên nhạc điệu nhịp nhàng, rộn rã cho những bài ca Huế tươi vui. Dường như những âm điệu buồn vui rất đặc trưng Huế ấy đã “ăn” vào máu thịt, luôn thường trực và ám ảnh nhà thơ. Mùa xuân đất Huế đã khơi dậy cảm hứng trào dâng bật lên thành tiếng hát tha thiết và sâu nặng tình yêu quê hương.

Phải yêu đời, lạc quan lắm mới có thể hát lên trong hoàn cảnh nhà thơ lúc đó. Quê hương đất nước Việt Nam trải dài ngàn dặm, chan chứa tình yêu vì thế mà Thanh Hải muốn hòa nhập vào mùa xuân đất nước. Quê hương đất nước trải dài ngàn dặm, chứa chan tình yêu thương. Đó là “ngàn dặm mình”, “ngàn dặm tình” đối với non nước và xứ Huế quê mẹ thân thương! Câu thơ của người con đất Huế quả là “dịu ngọt”. Đây có lẽ cũng là một trong những vẻ đẹp của tác phẩm mà bất kì ai cũng cảm nhận được. Lời ca như vang vọng, gợi mở ra một cái tình nhỏ bé trong cái ngàn dặm rộng lớn, mênh mang nhưng vẫn rất gần gũi, tràn đầy yêu thương và ấm áp. Câu hát gợi nhắc lòng người nhớ về nghĩa tình thuỷ chung, nhớ về quê hương đất nước, non nước Việt Nam cũng như đất trời xứ huế tươi đẹp quá! Một câu hát truyền thống sẽ đi mãi cùng trái tim một người con đã suốt đời chiến đấu hy sinh vì tổ quốc, đến giấy phút cuối cùng cũng còn mong mỏi mãnh liệt hơn bao giờ hết khát vọng cống hiến vẹn toàn cho quê hương đất nước.

Tiếng hát đằm thắm hiền hoà xen với những tiếng phách giòn giã, tươi vui đã kết lại bài thơ. Bài thơ khơi lên là dòng sông là tiếng chim hót vang trời xứ Huế. Kết thúc lại là nước non và tiếng hát tươi vui cả tình yêu nước non ngàn dặm, tình yêu quê hương đất nước. Không chỉ hay về ý thơ mà còn hay ca ngôn từ, cả nhịp điệu trong bài. Cảm ơn nhà thơ đã mang đến cho người đọc về một bài học,về một lí tưởng sống thực sự cao đẹp biết bao.”sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình”.

“Mùa xuân nho nhỏ” – Món quà chi tay với cuộc đời của Thanh Hải vẫn mãi để lại dư vang trong lòng bao con người với tình yêu cuộc sống thiết tha, mãnh liệt. Và đâu đây nó đã ngân vang trong lòng bao thế hệ bạn đọc một tình cảm yêu đời, yêu cuộc sống. Để rồi mỗi chúng ta biết sống đẹp hơn, làm nhiều điều có ý nghĩa cho cuộc đời để còn lại một dấu ấn đẹp dù khi chỉ còn là cát bụi. “Đừng hỏi Tổ Quốc đã làm gì cho ta, mà hãy hỏi ta đã làm gì cho Tổ Quốc hôm nay”. Hãy sống có trách nhiệm với quê hương, với đất nước, đặt trách nhiệm cao hơn quyền lợi của bản thân nhé mọi người!

 

Phân tích khổ 4_5 Mùa xuân nho nhỏ - Liên hệ bài học cuộc sống; Khổ 4 Viếng lăng Bác

 


Nếu phải chọn ra ý nghĩa nhân văn nhất của thơ ca trong đời sống thì đó là việc thơ ca đã cống hiến cho cuộc đời này những tiếng lòng đẹp đẽ, những mảng sáng cao thượng trong tâm hồn của các thi nhân. Bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của nhà thơ Thanh Hải xứng đáng mang ý nghĩa cao đẹp ấy. Bài thơ Mùa xuân nho nhỏ là tiếng lòng tha thiết yêu mến và gắn bó với đất nước, với cuộc đời; thể hiện ước nguyện chân thành của nhà thơ được cống hiến cho đất nước, góp một mùa xuân nho nhỏ của mình vào mùa xuân lớn của cuộc đời. Ước nguyện dâng hiến cao đẹp ấy được nhà thơ Thanh Hải thể hiện chân thành qua các câu thơ đầy xúc động:

Ta làm con chim hót

Ta làm một cành hoa

Ta nhập vào hoà ca

Một nốt trầm xao xuyến

Một mùa xuân nho nhỏ

Lặng lẽ dâng cho đời

Dù là tuổi hai mươi

Dù la khi tóc bạc.

Thanh Hải là nhà thơ xứ Huế. Vùng đất hữu tình với con sông Hương thơ mộng và núi Ngự Bình trang nghiêm vun đắp cho hồn thơ Thanh Hải bay cao. Bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” được nhà thơ sáng tác trong khi nằm trên giường bệnh, trước khi mất ít lâu. “Mùa xuân nho nhỏ” là tiếng thơ đầy cảm hứng đón nhận thanh sắc, đất trời mùa xuân, cảm nhận đầy tự hào về bước đi lên thanh xuân của đất nước. Tác giả đã cảm nhận được một mùa xuân trỗi dậy từ tâm hồn mình. Đó là mùa xuân của lòng người, mùa xuân của sức sống tươi trẻ, mùa xuân của cống hiến và hoà nhập.

 Đọc hai khổ thơ lòng ta bồi hồi, xao xuyến về ước nguyện cao đẹp của nhà thơ Thanh Hải. Với thể thơ năm chữ, mang âm hưởng dân ca nhẹ nhàng tha thiết, giàu hình ảnh, cấu trúc thơ chặt chẽ mang một nét đặc sắc riêng. Vấn đề ý nghĩa cuộc sống của mỗi cá nhân được Thanh Hải thể hiện một cách chân thành, tha thiết, bằng giọng văn nhỏ nhẹ như lời tâm sự, lời gửi gắm của mình với cuộc đời:

Ta làm con chim hót

Ta làm một cành hoa

Ta nhập vào hoà ca

Một nốt trầm xao xuyến

        Tác giả không mơ một giấc mơ vĩ đại, không ước vọng lớn lao, chỉ là những mong muốn đơn sơ bình dị. Thanh Hải suy nghĩ về mình, về trách nhiệm đóng góp của mình trong mùa xuân của đời. Nếu ở khổ thơ đầu mùa xuân thiên nhiên được báo hiệu bằng hình ảnh một bông hoa đang nở rộ, bằng âm thanh thanh thót của tiếng chim chiền chiện thì giờ đây nhà thơ cũng muốn làm con chim hót, một cành hoa để góp phần làm nên một mùa xuân đẹp cho đời. Trong cái lớn lao của đất trời vào xuân, nhà thơ Thanh Hải chỉ muốn góp phần làm một tiếng chim trong giọng hót của muôn loài chim để âm thanh thêm rộn rã, tưng bừng, mang niềm vui đến cho mọi người. Làm một cành hoa trong hương sắc của muôn hoa để góp thêm vẻ đẹp tươi thắm rực rỡ cho đời. Đặc biệt hơn nữa là tác giả còn muốn làm một nốt trầm trong bản hoà tấu muôn lời muôn điệu của cuộc sống. Tác giả chỉ muốn làm một nốt trầm không vút cao, chỉ là một nốt trầm phụ bè của giàn hợp xướng làm nền cho bè vút lên nhưng là một nốt trầm xao xuyến lòng người, làm cho đời sinh động đáng yêu. Số từ “một” đặt trước “cành hoa”, “nốt trầm” thể hiện sự khiêm tốn của nhà thơ. Không làm được một vườn hoa thì hãy làm một bông hoa bé nhỏ. Không làm một giàn hợp xướng thì hãy làm một nốt trầm xao xuyến. Đọc từng câu thơ, ta thấy nhịp thơ hối hả, gấp rút như nhịp sống quê hương, như ước mong cháy bỏng mà khiêm tốn của nhà thơ được dâng hiến cho đời.

Chỉ xin làm một bông hoa, một tiếng chim, một nốt trầm để tô điểm làm đẹp, làm vui cuộc sống. Ước nguyện của nhà thơ sao mà đáng yêu, gần gũi lạ kì. Ước nguyện hoá thân của nhà thơ không cao xa, vĩ đại mà gần gũi thân thương. Những ước muốn tưởng như giản dị ấy lại có một ý nghĩa lớn lao đó là phải đóng góp những gì tươi đẹp nhất cho cuộc đời, cho đất nước, dù đó là sự cống hiến khiêm nhường, giản dị. Điều đó không chỉ ước muốn của riêng tác giả mà là của tất cả mọi người, tất cả chúng ta. Thông qua việc chuyển đổi đại từ “tôi” sang “ta”, nguyện ước riêng đã trở thành nguyện ước chung.

Không những vậy, khát vọng cống hiến ấy rất khiêm tốn, thầm lặng không ngừng nghỉ. Khiêm tốn ở chỗ tất cả ước nguyện của nhà thơ đọng lại ở hai câu thơ:

Một mùa xuân nho nhỏ

Lặng lẽ dâng cho đời

Hình ảnh thơ ở đây lặp lại nhan đề “mùa xuân nho nhỏ” là điểm sáng thẩm mỹ của bài thơ. Mùa xuân là một khái niệm về thời gian. Vậy mà nhà thơ đã cụ thể hoá thành hình khối nho nhỏ để thể hiện tấm lòng mình. Không phải là một mùa xuân xanh, một mùa xuân hồng mà là một mùa xuân nho nhỏ. Chính với khát vọng làm một tiếng chim hót, làm một cành hoa xinh, làm nốt nhạc trầm là Thanh Hải đã tạo ra một mùa xuân nho nhỏ để hoà mình vào mùa xuân lớn lao của đất nước. Từ láy “nho nhỏ” và điệp ngữ “lặng lẽ” kết hợc động từ “dâng” đã nói lên thái độ tự nguyện, chân thành cống hiến cho đất nước suốt cuộc đời mình. Dâng hạnh phúc, sự sống cho đời. Nhưng trong cái xuân đời riêng vào mùa xuân bao la bất tận của cuộc đời là khát vọng khiêm tốn đáng yêu của một người thiết tha muốn cống hiến cho tổ quốc và ý thức rất rõ giới hạn của cá nhân mỗi người trước cái vô hạn rộng lớn của cuộc đời.

Điều đáng quý là nhà thơ không muốn cống hiến một cách phô trương mà cống hiến một cách âm thầm lặng lẽ. Điểm đáng nổi bật ở đây là tác giả Thanh Hải dẫu chỉ mong được đóng góp cho đời một mùa xuân nho nhỏ một cách thầm lặng nhưng lại miệt mài không dứt, không ngừng nghỉ dù trẻ hay tuổi già .

Dù là tuổi hai mươi

Dù là khi tóc bạc.

Mùa xuân nho nhỏ chính là tấm lòng đáng quý của nhà thơ Thanh Hải đối với cuộc đời.  Lời thơ rắn rỏi, điệp ngữ "dù là" khẳng định thái độ tự tin trước những khó khăn trở ngại của đời người, mang ý nhấn mạnh giúp tác giả thể hiện thành công Ước nguyện dâng hiến mùa xuân cuộc đời mình cho mùa xuân lớn của đất nước. Tuổi trẻ cống hiến hi sinh, bất chấp thách thức thời gian, tuổi già bệnh tật khẳng định quyết tâm cống hiến không giới hạn. Khát vọng ấy đã trở thành tâm nguyện bất diệt, khẳng định tình yêu tha thiết đối với cuộc sống và quê hương, đất nước của nhà thơ. Biết rằng tác giả đang nằm trên giường bệnh khi sáng tác bài thơ này. Thấy được thái độ lạc quan, những khát vọng của ông, ta cảm thấy ông thật đáng quý, đáng khâm phục biết bao. Ý thức về trách nhiệm đối với quê hương đất nước, khát vọng được sống được cống hiến trở thành lẽ sống trong cuộc đời tác giả. Lời thơ không chỉ là ước nguyện của riêng một nhà thơ mà còn là lời kêu gọi mọi người hãy chung vai gắng sức xây dựng một cuộc đời tươi đẹp trong tương lai. Tâm nguyện này, ta bắt gặp đâu đó trong những vần thơ của Tố Hữu :

Nếu là con chim, chiếc lá

Thì chim phải hót, chiếc lá phải xanh

Lẽ nào vay mà không có trả

Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình.

 Sự hi sinh âm thầm, lặng lẽ hiến dâng tài năng, sức lực, tuổi trẻ cho cuộc đời nào phải chỉ có trong thơ Tố Hữu, nhà văn Nguyễn Thành Long trong truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” cũng đã khắc họa nên bức chân dung nhân vật anh thanh niên cùng nhiều nhân vật khác. Họ chính là minh chứng sinh động nhất của hình ảnh “mùa xuân nho nhỏ” mà Thanh Hải gửi gắm đến chúng ta qua bài thơ cuối đời của ông.

Với thể thơ 5 chữ, cách gieo vần đầy biến hóa, câu thơ giàu nhạc điệu đặc biệt hình ảnh bất ngờ lí thú "Một mùa xuân nho nhỏđã thể hiện khát vọng sống cao đẹp, muốn làm "Một mùa xuân nho nhỏ" dâng hiến cho cuộc đời. Từ đó mở ra một suy nghĩ về ý nghĩa giá trị sống của mỗi cá nhân là sống có ích, cống hiến cho cuộc đời chung. Đó là lẽ sống đẹp sống cống hiến cho cuộc đời một cách khiêm nhường, tha thiết.

Liên hệ bài học cuộc sống

Từ ước nguyện của nhà thơ, mỗi chúng ta hôm nay - những người con của dân tộc Việt Nam hôm nay, những người sống trong mùa xuân đất nước có suy nghĩ gì? Xác định cho mình lí tưởng sống ra sao? Vâng! Không thể khác chính là học tập rèn luyện và tu dưỡng thật tốt, tránh xa những trò chơi vô bổ, tránh xa những đam mê chết người. Tránh xa những cám dỗ tầm thường, những toan tính nhỏ nhen ích kỷ. Nếu không được như Thanh Hải chỉ dâng hiến thì cũng hãy như Tố Hữu: Cho và nhận, vay và trả và phải là con chim biết hót chiếc lá phải xanh. Hãy sống và học tập theo tấm gương Bác Hồ vĩ đại. Hãy sống có lí tưởng có hoài bão có niềm tin. Phải có kiến thức có nghị lực và khát vọng đi lên. Thiết thực hơn chúng ta hãy vì nụ cười, vì niềm vui trong mỗi gia đình, vì nước Việt Nam thân yêu. Hãy gắn bó yêu thương đoàn kết và chia sẻ. Từ mỗi lời tuyên truyền với gia đình cộng đồng; Từ việc chăm sóc mẹ cha đến dạy dỗ con trẻ; Từ giữ gìn nếp sống văn hóa nơi cơ quan trường học. Hãy trách nhiệm hơn với thế giới xung quanh. Không thờ ơ khi thấy một người đi đường bị bắt nạt, không như ai kia nhìn thấy kẻ gian móc ví lấy tiền không giám can ngăn. Từ biết xấu hổ là khi... hay hân hoan là lúc...; Từ chăm chỉ lao động xây dựng quê hương mỗi ngày một tươi đẹp hơn; Từ việc làm vì người khác nhiều hơn. Đừng để phải ngậm ngùi nuối tiếc về sau. "Đừng hỏi Tổ quốc đã làm gì cho ta và hãy hỏi ta đã làm gì cho Tổ quốc hôm nay?".  

Hai khổ thơ đã làm lay động tâm hồn người đọc, không chỉ bởi chất nhạc vấn vương, không chỉ bởi giai điệu vừa thiết tha vừa hào hùng thôi thúc mà còn bởi nguyện ước chân thành và khiêm tốn của nhà thơ. Nguyện ước ấy đâu còn của riêng Thanh Hải.  Thanh Hải đã gửi đến cho chúng ta một thông điệp đáng quý: mỗi người hãy sống có khát vọng, sống có cống hiến, dù chỉ là phần nhỏ bé của mình vào công cuộc bảo vệ, giữ gìn và dựng xây đất nước. Đọc đoạn thơ, bài thơ ta càng yêu hơn, trân trọng hơn lẽ sống mà Thanh Hải để lại, ta càng phải tự nhủ: Hãy sống đẹp – sống như Thanh Hải đã sống.

Liên hệ khổ 4 Viếng lăng Bác

  Và ta cũng bắt gặp ước nguyện tha thiết chân thành được hoá thân, hoà nhập vào những cảnh vật ở bên lăng Bác, ước nguyện sống đẹp, trung thành với lí tưởng của Bác, của dân tộc trong bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương.  Viễn Phương bằng một ngôn ngữ tinh tế, giàu cảm xúc sâu lắng đã diễn tả niềm kính yêu, sự xót thương và lòng biết ơn vô hạn của nhà thơ đối với lãnh tụ. Từ tình cảm thành kính, ngưỡng mộ mà toàn dân tộc Việt Nam dành cho Bác nhà thơ đã truyền cảm xúc của mình đến với người đọc khi nguyện làm tiếng chim hót, làm bông hoa đẹp , làm cây tre trung hiếu và sẵn sàng làm muôn ngàn công việc tốt để kính dâng Người :

Mai về miền Nam, thương trào nước mắt

Muốn làm con chim hót quanh lăng

Muốn làm bông hoa toả hương đâu đây

Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.

Nghĩ đến ngày mai về miền Nam, xa Bác, xa Hà Nội, tình cảm của nhà thơ không kìm nén, ẩn giấu trong lòng mà được bộc lộ thể hiện ra ngoài. Tác giả không thể nào ngăn được nữa những dòng nước mắt trào dâng và tha thiết: “Mai về miền Nam thương trào nước mắt”. Được gần Bác dù chỉ trong giây phút nhưng không bao giờ ta muốn xa Bác bởi Người ấm áp quá, rộng lớn quá. Câu thơ thật bình dị nhưng chứa chan tình thương ấp ủ sâu lắng tận đáy lòng làm cho mỗi chúng ta khi đọc lên cảm thấy vô cùng xúc động. Cũng xuất phát từ tình cảm đó cho nên nhà thơ có ước nguyện thành kính và đây có thể là ước vọng chung của tất cả mọi người đã một lần hoặc chưa một lần gặp Bác.

Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác

Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây

Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.

Điệp ngữ “Muốn làm” được nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong đoạn thơ thể hiện ước nguyện muốn tự nguyện tự giác của Viễn Phương. nhà thơ muốn làm con chim hót dâng tiếng hót vui. Muốn làm bông hoa dâng hương thơm và sắc đẹp, muốn làm cây tre trung hiếu canh giữ cho lăng Bác ngày đêm. Hình ảnh cây tre lại xuất hiện ở đoạn cuối bài thơ làm nhiệm vụ khép lại bài thơ một cách khéo léo , tạo cho người đọc một ấn tượng mạnh mẽ khó phai mờ. Hình tượng tre được chuyển hóa: “Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này”, nghĩa là muốn hóa thân thành một cây tre trong hàng tre kia để luôn được ở bên Bác. “Cây tre trung hiếu” là hình ảnh ẩn dụ thể hiện lòng kính yêu, sự trung thành vô hạn với Bác, nguyện mãi mãi đi theo con đường cách mạng mà Người đã đưa đường chỉ lối. Đó là lời hứa thủy chung của riêng nhà thơ và cũng là ý nguyện của đồng miền Nam, của mỗi chúng ta nói chung với Bác. Nhân dân Việt Nam sẽ luôn đứng cùng với nhau, đoàn kết, kiên cường trước mọi biến chuyển. Đó cũng chính là mong mỏi của Bác lúc sinh thời. Những nguyện ước nhỏ bé ấy của tác giả Viễn Phương vừa chân thành lại vừa sâu sắc. Khổ thơ khép lại là cảm giác chia tay, xa cách về không gian địa lý, thời gian nhưng nó lại gần gữi trong ý chí và tình cảm, lòng trung hiếu.

Những lời tâm sự cuối cùng của người sắp mất luôn là những lời thực, luôn chứa chan tình cảm, ước nguyện sâu lắng nhất. Lời nguyện ước khi phải rời xa người mình kính yêu nhất luôn là những lời nguyện ước đáng tin nhất... Đều xuất phát từ những cảm xúc chân thành nhất của các tác giả và tình yêu của họ đối với cuộc sống, đất nước với vị lãnh tụ kính yêu nên ước nguyện sống đẹp, sống cống hiến của các tác giả thật đáng tin theo. Bằng việc sử dụng những hình ảnh ẩn dụ, hoán dụ mới mẻ, sáng tạo độc đáo, làm nâng những hình ảnh mộc mạc, giản dị trong thiên nhiên lên thành những khát vọng cống hiến cao đẹp trở nên thật lôi cuốn, gây nhiều cảm xúc cho ngưòi đọc. Thanh Hải và Viễn Phương đã giải bày, tâm tình những điều sâu kín nhất trong lòng, và chính lúc đó hai ông đã thả hồn vào thơ, cùng chung một nhịp đập với thơ để ông và thơ luôn được cùng nhau, hiểu nhau và giải bày cho nhau, để thơ mãi trường tồn.  Khiến mỗi người đọc suy nghĩ về bản thân từ đó nuôi dưỡng trong lòng mình những đức tính tốt, trui rèn đạo đức, kiến thức để có thể xây dựng đất nước ngày càng phồn vinh, vững mạnh.

Có tình yêu nào rộng lớn hơn tình yêu quê hương đất nước? Thấm nhuần tâm tư, ước nguyện của hai nhà thơ, chúng ta càng thêm tin yêu vào mùa xuân của đất nước và “mùa xuân nho nhỏ” trong lòng mình. Chúng ta muốn cùng con chim chiền chiện hót lên khúc ca ngọt ngào gọi xuân về, học thành tài để trở thành cây tre trung hiếu của đất nước, góp phần công sức nhỏ bé để tô điểm cho mùa xuân cuộc đời thêm đẹp. 

 

Phân tích khổ 1 Mùa xuân nho nhỏ

 


Mùa xuân có thể nói là mùa đẹp nhất trong năm, tượng trưng cho tuổi trẻ, tình yêu và sức sống. Chính vì vậy, con người thường ngất ngây vui sướng trước cảnh sắc giao hòa của đất trời vào độ xuân sang. Cũng nằm trong mạch cảm xúc ấy nhưng với Thanh Hải mùa xuân của thiên nhiên còn gợi mở về mùa xuân của đất nước, về một tương lai tươi sáng phía trước. Mà trong mùa xuân ấy, con người là một nhân tố quan trọng để làm nên mùa xuân của đất nước, cuộc đời. Bằng tâm hồn nhạy cảm và tinh tế, Thanh Hải đã nắm bắt chọn vẹn vẻ đẹp của mùa xuân xứ Huế mộng mơ. Nó được thể hiện đặc biệt rõ trong khổ thơ:

Mọc giữa dòng sông xanh

Một bông hoa tím biếc

Ơi! Con chim chiền chiện

Hót chi mà vang trời...

Từng giọt long lanh rơi,

Tôi đưa tay tôi hứng!

Mùa xuân nho nhỏ được sáng tác vào năm 1980 – nghĩa là trong những ngày tháng cuối đời, trên giường bệnh của ông. Nhưng trong bài thơ không ánh lên niềm u uất của một người sắp từ giã cõi đời mà lại ánh lên một niềm tin yêu, sự lạc quan yêu đời. Có như vậy, mới thấy được hồn thơ của Thanh Hải – luôn lạc quan tin tưởng vào tương lai với một tình yêu nước cháy bỏng trong ông.

Chính vì có những giây phút đối diện với mùa đông lạnh lẽo người ta mới bắt đầu biết quý trọng mùa xuân ấm áp. Mùa xuân đến với những dấu hiệu của thiên nhiên đất trời.

Mọc giữa dòng sông xanh

Một bông hoa tím biếc

Bức tranh xuân đơn sơ giản dị nhưng lại tươi đẹp vô cùng. Bức tranh thiên nhiên hiện lên với gam màu xanh chủ đạo. Màu xanh của dòng sông, màu xanh của sự sống hay chính màu xanh báo hiệu mùa xuân đang về. Giữa bức tranh màu xanh ấy, bỗng xuất hiện sắc tím.

Biện pháp đảo ngữ “mọc” được sử dụng trong hai dòng thơ đã tạo ra một hiệu ứng đặc biệt cho bức tranh khiến người đọc có cảm tưởng như vừa tận mắt chứng kiến từ mầm non bừng nở thành bông hoa. Chính vì vậy mà bông hoa ấy nổi bật là sống dậy cả một bức tranh thiên nhiên mùa xuân. Trong cái tĩnh của dòng sông có cái động của sự sống. Bông hoa ấy có thể là bông hoa có thật cũng có thể là bông hoa trong trí tưởng tượng của nhà thơ. Sắc tím quen thuộc gợi liên tưởng đến xứ Huế. Sắc xanh, màu tím biếc đã tạo nên bức tranh xuân với những đường nét chấm phá mặn mà đằm thắm. Đó là bức tranh đa chiều mà nhìn vào con người như đọc được điệu hồn quê hương. Thiên nhiên vốn hào phóng ban tặng cho con người tất cả nếu con người biết mở rộng tấm lòng.

Thanh Hải đã điểm thêm vào bức tranh xuân ấy âm thanh của sự sống:

Ơi con chim chiền chiện

Hót chi mà vang trời

Tiếng hót trong veo của chú chim làm xao động cả không gian, đem đến cho mùa xuân niềm vui, sự rạo rực. Nếu trong thơ ca khi nói về mùa xuân thường gắn liền với hình ảnh chim én

Ngày xuân con én đưa thoi

Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.(Truyện Kiều – Nguyễn Du)

Thì trong thơ của Thanh Hải, ông lại đánh dấu nói bằng tiếng chim chiền chiện. Tiếng chim trong veo vui tươi cũng chính làm âm thanh rộn ràng của sự sống. Từ cảm thán “ơi” hướng về con chim đang bay. Người đọc có cảm giác như nhà thơ đang gọi với theo cánh chim chiền chiện bay cao vút trên bầu trời kia. Không gian của mùa xuân được mở rộng theo chiều cao. Từ "ơi" nằm ở đầu dòng thơ là tiếng gọi ngọt ngào xúc động biểu lộ niềm vui ngây ngất khi nghe âm thanh của tiếng chim. Tiếng chim chiền chiện hót gọi xuân về hay tiếng lòng náo nức của người dân xứ Huế của người dân đất Việt trước xuân sang. Tiếng chim ngân vang rung động đất trời đem niềm vui hân hoan trong lòng người. Nhà thơ cất tiếng gọi để hỏi “hót chi mà vang trời”, để hỏi tiếng chim sao mà tha thiết thế gợi cho lòng người bao cảm xúc. Câu thơ như một tiếng reo ngỡ ngàng đầy thích thú, tưởng chừng như nhà thơ cũng đang nói cười, vui đùa cùng cánh chim bay. Tiếng chim chiền chiện trong trẻo ấy ta cũng từng bắt gặp trong câu thơ của Huy Cận

Con chim chiền chiện

Hồn xanh quê nhà

Sáng nay lại hót

Tưng bừng lòng ta. (Con chim chiền chiện – Huy Cận)

Tiếng chim đang vang xa bỗng lại gần. Ngắm dòng sông ngắm bông hoa đẹp nghe tiếng chim hót nhà thơ bồi hồi sung sướng bất giác đưa tay ra hứng từng giọt âm thanh từng giọt sương sớm hay từng giọt mưa xuân long lanh:

Từng giọt long lanh rơi

Tôi đưa tay tôi hứng!

Tiếng chim như kết tinh thành những giọt sương long lanh sắc màu rơi xuống tâm hồn rộng lớn của thi nhân để rồi ông đón nhận nó bằng tất cả giác quan của mình. Từ thị giác đến xúc giác, mùa xuân được cảm nhận thật tròn đầy. Con người trân trọng nâng niu từng giọt sương của đất trời. Một chút gì tươi trẻ, hồn nhiên trong hành động “tôi đưa tay tôi hứng”. Nghệ thuật chuyển đổi cảm giác đã được nhà thơ sử dụng tinh tế khắc họa sống động hình ảnh thiên nhiên. Cử chỉ của nhà thơ bình dị mà trân trọng là cử chỉ thể hiện sự xúc động sâu xa. Đó là sự liên tưởng đầy chất thơ qua nghệ thuật chuyển đổi cảm giác thính giác thị giác xúc giác đã được huy động để cảm nhận những hình khối thẩm mỹ của âm thanh.Con người cũng trở nên ngây ngất trước khung cảnh ấy. Huế đẹp thơ mộng đã đi vào lòng người đã đi vào thơ ca muôn thuở.

Chỉ bằng vài nét phác họa, Thanh Hải đã vẽ ra cả một khung cảnh thiên nhiên rộng mở. Thanh Hải đã vận dụng linh hoạt các biện pháp tu từ, cùng với đó là giọng điệu vui tươi, hào hứng đã vẽ nên vẻ đẹp của mùa xuân thiên nhiên và sức sống của mùa xuân đất nước. Thiên nhiên hài hòa có cả dòng sông có cả đất trời, vừa có hình ảnh vừa có âm thanh. Đó là tiếng reo vui, khúc nhạc lòng của thi nhân.

Ta không thấy một Thanh Hải ốm đau, mà là một người nghệ sĩ tràn đầy tình yêu cuộc sống, tình yêu đất nước. Những vần thơ khiến ta càng thêm trân trọng hơn tấm lòng của một người nghệ sĩ lớn, nhân cách lớn. Cảm ơn Thanh Hải. Dù đang ở giai đoạn cuối của cuộc đời, người vẫn để lại cho mình những hình ảnh đẹp của quê hương.Ta vô cùng tự hào về quê hương đất nước, về con người cách mạng. Họ đã sẵn sàng hi sinh tất cả mọi hạnh phúc cá nhân giữa mùa xuân để bảo vệ nền hòa bình độc lập dân tộc.

Phân tích khổ 2_3 Mùa xuân nho nhỏ - Liên hệ Tình yêu quê hương đất nước

 

Mùa xuân là mùa của khởi đầu, thường gợi lên trong mỗi chúng ta niềm khát khao và hi vọng. Phải chăng vì thế mà Thanh Hải lựa chọn mùa xuân để khởi nguồn cảm hứng. Niềm khát khao cháy bỏng trong tâm hồn nhà thơ Thanh Hải, được gửi gắm qua bài thơ "Mùa xuân nho nhỏ" (11/1980). Bài thơ như những nốt nhạc trầm bổng, những giai điệu ngân nga cất lên tự đáy lòng của một con người tha thiết được góp phần nhỏ bé vào cuộc đời chung rộng lớn. “Mùa xuân nho nhỏ” của nhà thơ Thanh Hải thể hiện những rung động sâu xa trước vẻ đẹp của thiên nhiên đất nước, trước những hi sinh và cố gắng say sưa trong sự nghiệp bảo vệ, xây dựng Tổ quổc của toàn dân tộc. Đó là  tiếng lòng tha thiết yêu mến và gắn bó với đất nước, với cuộc đời.Thi sĩ nhìn lại cuộc đời để bộc bạch tâm niệm với quê hương, đất nước:

Mùa xuân người cầm súng

Lộc giắt đầy quanh lưng.

Mùa xuân người ra đồng

Lộc trải dài nương mạ.

Tất cả như hối hả

Tất cả như xôn xao…

Đất nước bốn ngàn năm,

Vất vả và gian lao.

Đất nước như vì sao,

Cứ đi lên phía trước.

     Mở đầu bài thơ như tiếng hát reo vui đón chào một mùa xuân đẹp đã về. Ở khổ thơ thứ nhất, nhà thơ vẽ ra trước mắt người đọc một bức tranh thiên nhiên về mùa xuân quê hương đất nước rộn rã âm thanh, nên thơ, rực rỡ sắc màu với những đường nét hài hòa, tràn đầy sức sống. Thanh Hải đã vẽ nên một bức tranh xuân tươi đẹp, đầy sức sống và quyến rũ lạ thường. Từ mùa xuân của thiên nhiên đất trời, đến khổ thơ thứ hai và ba, Thanh Hải dẫn người đọc đắm chìm vào khung cảnh mùa xuân của cuộc sống, của nhân dân và đất nước rộn ràng trong trẻo cùng những hình ảnh đậm chất sử thi. Hai khổ thơ đồng thời cũng là minh chứng cho tài năng nghệ thuật độc đáo cũng như tình yêu, niềm tự hào sâu sắc mà Thanh Hải dành cho đất nước.

Khi xưa, trong đêm đen của kiếp sống nô lệ, nhà thơ Tố Hữu – một người con xứ Huế đã từng viết:

Tôi nện gót trên đường phố Huế

Dửng dưng không một cảm tình chi

Không gian sặc sụa mùi ô uế

Như nước dòng Hương mải cuốn đi.

Đó là Huế trong quá khứ nô lệ đen tối, lầm than.Thời nay,trong hiện tại, Huế đã đổi khác, đang hối hả nhịp chiến đấu, xây dựng cùng đất nước:

Mùa xuân người cầm súng

Lộc giắt đầy trên lưng.

Mùa xuân người ra đồng

Lộc trải dài nương mạ.

Tất cả như hối hả

Tất cả như xôn xao…

Thanh Hải đã vẽ lên một bức tranh mùa xuân đất nước tuyệt đẹp với sức xuân phơi phới, từ đó làm nổi bật lên sức sống mãnh liệt của đất nước. Nhà thơ Thanh Hải đã cảm nhận và tái hiện khung cảnh mùa xuân của đất nước qua hai hình ảnh giàu ý nghĩa biểu tượng là "người cầm súng" và "người ra đồng". Sức xuân nảy nở nơi những con người chiến đấu và lao động – hai mẫu người gắn liền với chiều dài lịch sử phát triển của đất nước. Họ là những con người cụ thể, những con người làm nên lịch sử với hai nhiệm vụ cơ bản của đất nước ta trong suốt quá trình phát triển lâu dài: chiến đấu và sản xuất, bảo vệ và xây dựng Tổ quốc. Điệp ngữ “mùa xuân” không chỉ gợi tả khung cảnh thiên nhiên đất trời lúc vào xuân mà còn thể hiện được sức sống, sức trẻ tràn đầy của đất nước sau chiến tranh. Mùa xuân đến mang đến tiếng gọi của những cố gắng mới và hi vọng mới, mang đến tiếng gọi của đất nước, của quê hương đang trên đà đổi thay, phát triển. Những tiếng gọi lặng lẽ tới từ mùa xuân làm thức dậy con người, làm trái tim con người như bừng lên rạng rỡ trong không khí sôi nổi của đất nước, của muôn cây cỏ đã đi theo người lính vào chiến trường, sát kề vai, đã cùng người lao động hăng say ngoài đồng ruộng. Mùa xuân không những chắp thêm đôi cánh sức mạnh cho con người mà còn chuẩn bị cho con người những “lộc” non tươi mới, căng tràn nhựa sống. “Lộc” là nhành non chồi biếc của cỏ cây trong mùa xuân. “Lộc” không chỉ là hình ảnh tả thực mà con mang ý nghĩa ẩn dụ, tượng trưng. Đối với người chiến sĩ, “lộc” là cành lá ngụy trang che mắt quân thù trong cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc đầy cam go và ác liệt. Đối với người nông dân “một nắng hai sương”, “lộc” là những mầm xuân tươi non trải dài trên ruộng đồng bát ngát, báo hiệu một mùa bội thu. Nhưng đặc biệt hơn cả, “lộc” là sức sống, là tuổi trẻ, sức thanh xuân tươi mới đầy mơ ước, lí tưởng, đầy những hoài bão và khát vọng cống hiến của tuổi trẻ, sôi nổi trong mỗi tâm hồn con người – tâm hồn của người lính dũng cảm, kiên cường nơi lửa đạn bom rơi – tâm hồn của người nông dân cần cù, hăng say tăng gia sản xuất. “Lộc” chính là thành quả hôm nay và niềm tin, hi vọng ngày mai. Phải chăng mùa xuân của đất trời đọng lại trong lộc non đã theo người cầm súng và người ra đồng, hay chính họ đã đem mùa xuân đến cho mọi miền của Tổ quốc thân yêu?

Từ những suy nghĩ rất thực về đất nước, nhà thơ khái quát:

Tất cả như hồi hả

Tất cả như xôn xao…

Lối điệp cấu trúc song hành với các điệp ngữ “Tất cả”, “như” kết hợp với từ láy tượng hình “hối hả”, “xôn xao” nhấn mạnh khí thế tưng bừng của đất nước vào xuân thể hiện không khí khẩn trương, niềm vui náo nức bâng khuâng của tâm hồn con người trước mùa xuân lớn lao của dân tộc. Nhà thơ đã khái quát được cả một thời đại của dân tộc. Nhịp điệu khẩn trương, tất bật của nhữngcon người Việt Nam trong giai đoạn mới, thời đại mới, trong công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa như tụ trong từ “hối hả”. Còn “xôn xao” lại bộc lộ tâm trạng náo nức rộn ràng. Ý thơ khẳng định một điều: không chỉ cá nhân nào vội vã mà cả đất nước đang hối hả, khẩn trương sản xuất và chiến đấu. Tất cả đều náo nức, rộn ràng trong mùa xuân tươi đẹp của thiên nhiên, của đất nước. Nhịp thơ sôi nổi như nhịp hành khúc cho thấy niềm tin tươi sáng, cái nhìn lạc quan của Thanh Hải về tiền đồ của dân tộc cho dù trong hoàn cảnh khó khăn lúc đương thời.

Những dòng thơ của Thanh Hải thổi vào lòng người một ngọn lửa sống nhắc nhở, thôi thúc con người nhìn đời lạc quan hơn, sống có trách nhiệm, gắn bó với quê hương, đất nước. Khổ thơ đã để lại một cảm nhận về sức sống mãnh liệt của mùa xuân và đất nước, đồng thời diễn tả sự sinh sôi phát triển và sự trỗi dậy bất tận đang bừng lên khắp nơi ở cả thiên nhiên, đất trời và con người khi xuân về.

Xúc cảm trước vẻ đẹp của thiên nhiên đất nước khi bước vào mùa xuân, nhà thơ Thanh Hải đã có cái nhìn sâu sắc và tự hào về lịch sử hơn bốn nghìn năm dân tộc:

Đất nước bốn ngàn năm

Vất vả và gian lao.

Đất nước như vì sao

Cứ đi lên phía trước.

Giọng thơ có sự thay đổi từ sôi nổi, hào hùng, mạnh mẽ sang trầm lắng, tha thiết. Thông qua hệ thống các tính từ "vất vả", "gian lao", nhà thơ suy ngẫm về truyền thống hơn 4000 năm dựng nước và giữ nước của cha ông ta. Đó là một truyền thống hào hùng đầy vinh quang nhưng cũng không ít gian nan, vất vả. Với nghệ thuật nhân hóa, Tổ quốc như một người mẹ tần tảo,vất vả và gian lao, đã làm nổi bật sự trường tồn của đất nước. Để có được sự trường tồn ấy, giang sơn gấm vóc này đã thấm bao máu, mồ hôi và cả nước mắt của các thế hệ, của những tháng năm đằng đẵng lúc hưng thịnh, lúc thăng trầm. Nhưng dù trở lực có mạnh đến đâu cũng không khuất phục được dân tộc Việt Nam:

Sống vững chãi bốn nghìn năm sừng sững

Lưng đeo gươm tay mềm mại bút hoa. (Huy Cận)

Chính những năm tháng khó khăn ấy, dân tộc mình đã khẳng được ý chí, sức mạnh và bản lĩnh. Đặc biệt, phép tu từ so sánh được nhà thơ sử dụng vô cùng đặc sắc, làm ý thơ hàm súc:

Đất nước như vì sao

Cứ đi lên phía trước.

Sao là nguồn sáng bất diệt của thiên hà, là vẻ đẹp lung linh của bầu trời đêm, là hiện thân của sự vĩnh hằng trong vũ trụ. So sánh như thế, là tác giả khẳng định chiều dài lịch sử của dân tộc và đất nước trong quá khứ và hiện tại luôn có những biến cố thăng trầm nhưng chúng ta vẫn luôn cố gắng nỗ lực vươn lên. Từ đây, nhà thơ có những suy tư chiêm nghiệm về lịch sử dân tộc: Sức xuân của ngày hôm nay là sự kết tụ và phát huy sức xuân của dân tộc, dẫu phải trải qua muôn vàn khó khăn đất nước và con người Việt Nam vẫn tỏa sáng bất diệt.  Điệp ngữ “đất nước” được nhắc lại hai lần thể hiện sâu sắc ý thơ: trải qua những gian truân, vất vả, đất nước vẫn toả sáng đi lên không gì có thể ngăn cản được. Qua đó, nhà thơ bộc lộ niềm tự hào sâu sắc, mãnh liệt về lịch sử hơn 4000 năm cũng như tiền đồ của dân tộc. Câu thơ năm chữ “Cứ đi lên phía trước” sử dụng nhiều thanh trắc tạo nên một âm hưởng khỏe khoắn gân guốc chắc nịch phù hợp với hình ảnh thơ đậm chất anh hùng. Âm thanh mùa xuân đất nước vang lên từ chính cuộc sống vất vả, gian lao mà tươi thắm đến vô ngần. Câu thơ như một lời khẳng định, một sự thể hiện ý chí và lòng quyết tâm và niềm tin sắt đá của nhà thơ và của cả dân tộc về tương lai tươi sáng, tốt đẹp của quê hương, đất nước.

Bài thơ được sáng tác trong lúc đất nước đang gặp muôn vàn gian lao thử thách nhưng giọng thơ vẫn vút cao chan chứa niềm tự hào, tin yêu vào sức sống, sức trỗi dậy của đất nước. Phải là một con người yêu quê hương đất nước tha thiết và giàu lòng lạc quan yêu đời thì Thanh Hải mới sáng tạo nên những dòng thơ sâu sắc như vậy. Điều này thật đáng quý vì nó gieo vào lòng người đọc lời nhắc nhở không bao giờ được chùn bước mà hãy cứ vươn lên.

Với việc sử dụng thể thơ năm chữ giàu nhạc điệu, bút pháp lãng mạn giàu sức gợi đậm chất sử thi và kết hợp khéo léo nhiều biện pháp tu từ và từ láy tượng hình, nhà thơ đã gợi tả hình ảnh đất nước vào xuân tràn đầy sức sống, qua đó thể hiện cái tôi Thanh Hải, niềm tin, niềm tự hào tha thiết về sức sống của dân tộc. Liên hệ với hoàn cảnh sáng tác, người đọc càng yêu hơn, quý hơn những tâm sự của nhà thơ Thanh Hải, một người nghệ sĩ tài ba, một người chiến sĩ, một công dân với tâm nguyện đẹp đẽ luôn sống thủy chung, gắn bó với đất nước.

Đoạn thơ không chỉ lay động trái tim độc giả bởi chất họa gợi cảm, bởi chất nhạc xao xuyến mà còn bởi niềm tin, niềm tự hào mãnh liệt vào sức sống của đất nước, khơi dậy trong ta ý chí quyết tâm không bao giờ chùn bước trước khó khăn thử thách trong cuộc sống.

Quê hương có một vị trí quan trọng trong lòng mỗi người. Mỗi người dân Việt Nam đều có tình cảm thiêng liêng gắn bó với quê hương xứ sở của mình. Tình yêu quê hương đất nước là tình cảm yêu mến và gắn bó sâu sắc, chân thành đối với những sự vật, con người thuộc về nơi chúng ta sinh ra và lớn lên. Nhờ có tình yêu đó mà con người không ngừng cố gắng để xây dựng và phát triển quê hương, dựng xây đất nước. Một thứ tình cảm đầy thiêng liêng luôn thường trực trong trái tim mỗi con người. Tình yêu quê hương đất nước là một truyền thống tốt đẹp và đáng quý của dân tộc Việt Nam. Điều đó được thể hiện từ những buổi đầu dựng nước và giữ nước. Lịch sử dân tộc chứng kiến hơn một nghìn năm Bắc thuộc với biết bao mất mát, đau thương. Nhưng không thời nào là không có anh hùng đứng lên lãnh đạo nhân dân chống lại kẻ thù. Không thời nào là nhân dân không chung lòng đấu tranh để bảo vệ đất nước. Nhưng những năm tháng hào hùng nhất có lẽ phải kể đến cuộc đấu tranh kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ. Dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc Việt Nam - Người cũng là tấm gương sáng ngời cho lòng yêu nước thương dân sâu sắc, nhân dân Việt Nam đã đoàn kết một lòng đánh bại kẻ thù xâm lược. Biết bao nhiêu chàng trai, cô gái - họ ra đi khi tuổi đời còn quá trẻ, mang trong trái tim mình tình yêu với mảnh đất quê hương, để rồi không ngại hy sinh thân mình vì chính mảnh đất ấy. Ngày hôm nay, khi Việt Nam được hưởng nền hòa bình quý giá. Tình yêu quê hương, đất nước có lẽ xuất phát từ những điều thật bình dị. Đó có thể là lòng biết ơn, yêu mến những người đã sinh ra, dạy dỗ chúng ta. Hay là mong muốn học tập để mai này trở về xây dựng quê hương ngày một giàu đẹp. Cũng có thể đến từ sự bảo vệ và phát huy những nét văn hóa truyền thống của quê hương. Đặc biệt là lòng quyết tâm chiến đấu bảo vệ đất nước của mỗi con người trong những lúc gian nguy rình rập (chiến tranh, thiên tai, dịch bệnh…). Tình yêu quê hương đã ăn sâu vào máu thịt, đi sâu vào lòng mỗi con người. Quê hương đi vào lòng con người một cách rất tự nhiên. Người ta có thể nhớ tới quê hương đất nước của mình chỉ qua một món ăn bình dị hay một địa danh đã gắn liền với những kỷ niệm đẹp. Chính vì vậy, thế hệ trẻ hôm nay được sống trong một thế giới hòa bình, cần phải ý thức giữ gìn tình yêu quê hương, đất nước. Là một người con Việt Nam, ghi nhớ lời Bác Hồ dạy “Các Vua Hùng đã có công dựng nước. Bác cháu ta phải cùng nhau giữ nước” Dải đất hình chữ S thân thương đánh đổi bằng biết bao xương máu của thế hệ cha anh. Vì vậy mỗi chúng ta phải biết trân trọng những hy sinh lớn lao ấy, trân trọng và bảo vệ tổ quốc, xây dựng một đất nước Việt Nam ngày một giàu đẹp sánh vai với các cường quốc trên trường quốc tế.

Tình yêu đất nước là một tình cảm giản dị nhưng thiêng liêng và cao quý vô cùng như nhà thơ Xuân Diệu đã từng ca ngợi: “Tình yêu Tổ quốc là đỉnh núi bờ sông”. Với “Mùa xuân nho nhỏ”, Thanh Hải đã góp vào nền thơ hiện đại Việt Nam một bài thơ xuân đẹp. Bài thơ cho thấy một hồn thơ trong trẻo, điệu thơ ngân vang, xúc động. Tình yêu mùa xuân gắn liền với tình yêu quê hương, đất nước được Thanh Hải diễn tả sâu sắc và cảm động. Thi phẩm lay động trái tim độc giả bởi chất họa gợi cảm, bởi chất nhạc xao xuyến và đã  làm sáng lên trong ta niềm tin, niềm tự hào mãnh liệt vào sức sống của đất nước, khơi dậy trong ta ý chí quyết tâm không bao giờ chùn bước trước khó khăn thử thách trong cuộc sống.  Chúng ta cần phải luôn ý thức được trách nhiệm của bản thân trong việc bảo vệ đất nước, sẵn sàng cống hiến khi Tổ quốc cần, cố gắng lao động tích cực xây dựng xã hội vững mạnh…