Thứ Ba, 14 tháng 4, 2020

Nghị luận về ý kiến: "Nếu bạn không phải là một cái cây, lý gì bạn phải ở yên một chỗ?"



Phá vỡ các nguyên tắc, mong muốn bứt phá, quyết tâm khẳng định bản thân, dám nghĩ dám làm, sẵn sàng đối diện thử thách.... là những chân ngôn sống được các bạn trẻ đề cao.Tuổi trẻ trải nghiệm không chỉ để học tập mà còn để trưởng thành, thoát ra khỏi vỏ bọc an toàn giống như một con thuyền căng buồm ra biển lớn. Các bạn nghĩ sao về câu hỏi sau: “Nếu bạn không phải là một cái cây, lý gì bạn phải ở yên một chỗ?”
Câu nói dùng biện pháp so sánh không ngang bằng: Cái cây đứng yên một chỗ nhưng vẫn vuơn minh ra xa và lên cao. Cây đứng một chỗ nhận tất cả những gì nó cần: Ánh sang, nước, chất dinh dưỡng nhưng bản thân nó vẫn luôn khao khát được vươn ra xa hơn. Thế nên rễ nó mới dài, tủa đi khắp nơi, thế nên tán nó vươn rộng và càng không ngừng vươn cao để nhìn được những vùng đất xa lạ. Còn chúng ta, các bạn trẻ, may mắn hơn cái cây, ta có thể tự dịch chuyển mình đi khắp chốn, thế thì tại sao lại không? Thoát ra khỏi vùng an toàn của mình là bước đầu tiên của trải nghiệm. Câu nói muốn đưa ra lời khuyên tuổi trẻ phải tìm đến với những mảnh đất mới, trải nghiệm những công việc mới để tích lũy thêm vốn sống của mình. Khuyến khích mọi người hãy thoát ra khỏi cuộc sống an nhàn, ít thách thức của mình để trải nghiệm những điều thú vị, bất ngờ chờ đón ta ở phía trước.
Chính sự trải nghiệm mới mang lại cho chúng ta những bài học vô giá. Nhàtriết học gia Jeans-Jacques Rousseau đã từng nói: “Người sống nhiều nhất không phải người sống lâu năm nhất mà là người có nhiều trải nghiệm phong phú nhất.” Sự trải nghiệm cũng giống như một người thầy ở trường đời, một người thầy của cuộc sống. Một sinh viên tự mình đi làm thêm trang trải cuộc sống mới hiểu được đồng tiền khó kiếm như thế nào. Một start-up trẻ phải thử nghiệm, phải thất bại mới biết được cách vận hành một mô hình kinh doanh. Một người bôn ba du lịch khắp thế giới mới biết được ở nước bạn, người ta làm được những gì mà quê hương mình chưa làm được, tiếp nhận những luồng tư tưởng mới và thay đổi cách nhìn nhận của mình.
Tâm lý của số đông là ngại thay đổi, sợ mạo hiểm, không dám đánh đổi cuộc sống yên ấm nhưng vô vị của mình lấy một cuộc sống đầy bão táp nhưng thú vị, hấp dẫn. Nhưng muốn có sự trải nghiệm, trước hết bạn phải có đủ dũng khí để thoát ra khỏi những thói quen của chính bản thân. Trải nghiệm không chỉ là khám phá mảnh đất mới, thưởng ngoạn một danh thắng mà còn là khám phá tiềm năng của chính con người bạn trong nhiều hoàn cảnh khác nhau. Thoát ra khỏi vùng an toàn chúng ta sẽ có cơ hội nếm trải những cay đắng ngọt bùi của cuộc sống nhiều hơn, có thể phải chịu đựng những va vấp, thất bại, phải trả giá nhưng qua đó ta rút ra được những bài học để trưởng thành hơn. Đó cũng là cách để ta rèn luyện cho mình một bản lĩnh kiên cường đối mặt với khó khăn, thách thức. Không có trải nghiệm, không dám mạo hiểm chắc chắn bạn sẽ không thành công và chấp nhận sống một cuộc sống tẻ nhạt. Cái giá của trải nghiệm là ban đầu bạn sẽ cảm thấy sợ hãi, lo lắng, bất an, hoài nghi và rất nhiều cảm xúc tiêu cực khác nữa nhưng đó chỉ là những cảm xúc thoáng qua ban đầu mà thôi. Khi đã quen với nó thì mọi cảm xúc đều tan biến thay vào đó sẽ là sự hào hứng, thích thú, tò mò, vui sướng và hài lòng. Chắc chắn bạn sẽ lại nhận thêm rất nhiều thứ khác tuyệt vời hơn mà bạn chưa bao giờ ngờ tới.
Trải nghiệm là một thái độ sống tích cực, chủ động để tạo nên những giá trị mới, ghi lại dấu ấn cá nhân. Chúng ta biết đến thành trình phiêu lưu ký của chú dế mèn ngỗ ngược để rồi trưởng thành sau những vấp ngã. Chẳng phải ai đã nói: “Hòn đá lăn thì không mọc rêu”. Không một ai trên đời phải hối hận vì trải nghiệm quá nhiều bởi lẽ với trải nghiệm thì bao nhiêu cũng không đủ. Thế mà bạn vẫn muốn để tuổi trẻ trôi qua mà không có chút trải nghiệm nào sao? Tuổi trẻ đừng sống hoài sống phí như chú ếch nhỏ trong đáy giếng chỉ thấy bầu trời nhỏ bé như miệng giếng. Cũng đừng sống bằng những trải nghiệm của người khác mà hãy sẵn sàng sách ba lô lên và đi.
Người trẻ cần trải nghiệm để khám phá cuộc sống và chính mình. Cần tạo điều kiện để tuổi trẻ được trải nghiệm cuộc sống tốt đẹp và hữu ích. Nhưng thực tế, nhiều bạn trẻ chưa coi trọng hoạt động trải nghiệm để bản thân trưởng thành. Đó là những người chỉ chú ý vào việc học tập, thi cử mà chưa chủ động, tích cực trải nghiệm, rèn kĩ năng sống. Một số khác lại đắm chìm trong thế giới ảo. Cá biệt, có những bạn trẻ lại lao vào thử nghiệm những điều có hại, sa vào tệ nạn… Họ đang sống cuộc sống nghèo nàn, thụ động, nhàm chán, vô ích…
Con người không nên tự giam giữ mình bằng những thói quen để cảm thấy được an toàn, hãy sống dấn thân để trải nghiệm những điều thú vị đó là cách làm cho cuộc sống của mình có ý nghĩa nhất. Mọi hành trình đều bắt đầu từ một bước chân. Ngay ngày mai, hãy thử làm những việc bạn chưa từng làm, dù nhỏ bé và đơn giản nhất thôi: hãy cười với một người lạ cùng tòa nhà, hãy đi một con đường khác tới trường, hãy gọi một món ăn nghe tên thật lạ, hãy nghĩ một cách giải quyết khác cho công việc quen thuộc hàng ngày… Những thứ nhỏ bé này có thể đem đến cho bạn nhiều nguồn cảm hứng để bắt đầu trải nghiệm khác to lớn hơn, bắt đầu hành trình lắp ghép cuộc đời mình bằng những điều mới mẻ và thú vị.
Trải nghiệm cũng không có nghĩa là thay đổi toàn bộ cuộc sống của mình mà có thể chỉ là những thay đổi trong quan hệ với mọi người như chào một người cùng tòa nhà…. Dù là nhỏ bé nhưng chắc chắn sẽ đem lại niềm vui cho cuộc sống của bạn.

Thứ Bảy, 11 tháng 4, 2020

Vai trò của sáng tạo


Teve Jobs đã từng cho rằng: “Đôi khi bạn sẽ mắc sai lầm khi sáng tạo. Điều quan trọng là phải nhanh chóng thừa nhận nó và tiếp tục phấn đấu.” Đó chính là những lời truyền cảm hứng đến cho chúng ta, khi chúng ta gặp phải bế tắc trong công việc vì nghĩ mãi không lên được những ý tưởng mới, độc đáo, lạ. Sáng tạo là một yếu tố giúp ta định vị được bản thân, giúp ta phát triển thêm tư duy rộng mở, bản thân bứt phá được thêm nhiều thứ khác.
Vậy, sáng tạo là gì? Sáng tạo là say mê, tìm tòi để tạo ra những giá trị mới về vật chất, tinh thần hoặc tìm ra cái mới, cách giải quyết mới mà không bị gò bó phụ thuộc vào cái đã có. Sáng tạo là dám nghĩ khác, dám làm khác. Những hoạt động như tìm thấy những ý tưởng mới mẻ, những điều chưa ai làm, chưa ai nghĩ tới, và từ đó làm nên giá trị cho những ý tưởng đó, những điều đó bao gồm cả giá trị vật chất và giá trị tinh thần thì đó được xem là sáng tạo. Cùng với sự quyết đoán và tính kiên trì thì sáng tạo chính là những đức tính quan trọng để mỗi người đạt được ước mơ và hoài bão của mình.
Người hay sáng tạo luôn say mê, tìm tòi và phát hiện cái mới mẻ, đem đến cho công việc những giải pháp hiệu quả nhất, mau chóng nhất, tiết kiệm nhất. Người sáng tạo cũng rất linh hoạt trong xử lí các tình huống, không bao giờ đi theo lối mòn hoặc dựa dẫm vào những thứ sẵn có, không định kiến tư duy. Lúc nào họ cũng hướng đến hiệu quả trong công việc, hướng đến sự tiến bộ chung của cả cộng đồng. Nhà phát minh nổi tiếng Thomas Edison, nhờ sự sáng tạo đã tạo ra những phát kiến tiêu biểu, giúp ích cho cuộc khởi nguồn cho rất nhiều cuộc cách mạng khoa học, kỹ thuật. Chính nhờ những suy nghĩ khác thường bởi sáng tạo, Nhà bác học Albert Einstein đã tạo ra “Thuyết tương đối” giúp Vật Lý học hiện đại thế giới đã có một bước tiến vĩ đại.
Tại sao con người cần sự sáng tạo?  Sáng tạo là một việc, là một hành động rất rất quan trọng với cá nhân bản thân mỗi một người trong xã hội.giúp con người vượt qua những khó khăn của hoàn cảnh, rút ngắn thời gian để đạt được mục đích nhanh chóng. Cuộc sống xã hội ngày càng tiến bộ, thế nên con người ta cũng phải dần tiến bộ theo. Có sự sáng tạo chúng ta sẽ biết vận động và suy nghĩ theo chiều hướng tích cực và tốt đẹp hơn. Có sự sáng tạo chúng ta sẽ tự suy nghĩ, tự phát triển tư duy, phát triển năng lực bản thân của chúng ta. Có sự sáng tạo chúng ta mới có cơ thể hội phát huy, để bộc lộ ra rõ nét hơn những năng lực, những tư duy tiềm ẩn trong bản thân. Chính sáng tạo giúp con người tạo ra những ý tưởng mới, mang tính chất đột phá rất nhiều để mang lại cho xã hội thêm nhiều lợi ích, thêm nhiều các sự phát triển mới, để hướng tới cuộc sống đẹp hơn.
Bên cạnh đó sáng tạo cũng có những rủi ro, những thất bại mà chung qui lại là những khó khăn sóng gió mà ai cũng phải trải qua, cũng phải gặp qua trong cuộc đời của mỗi chúng ta. Chính vì lẽ đó, Steve Jobs mới có câu nói trên: “Đôi khi bạn sẽ mắc sai lầm khi sáng tạo. Điều quan trọng là phải nhanh chóng thừa nhận nó và tiếp tục phấn đấu.”. Sáng tạo không phải là điều dễ dàng, chúng ta phải biết nỗ lực, phấn đấu để vượt qua thì cái đạt được vô cùng có giá trị.  Sáng tạo thường mang lại nhiều lợi ích trong học tập, trong công việc và trong cuộc sống bao gồm giá trị vật chất và tinh thần.
Nhưng bên cạnh đó vẫn có nhiều bạn trẻ rất thụ động trong học tập, lao động. Họ không chủ động tìm tòi, học hỏi và thậm chí là cũng không có ý thức về sự sáng tạo. Họ làm theo những cái đã có sẵn, chấp nhận làm theo khuôn mẫu, hành động rập khuôn. Họ chỉ thích dựa dẫm vào người khác, không tích cực đổi mới cách nghĩ cách làm khiến cho công việc trì trệ, kém hiệu quả. Những người như thế thật đáng chê trách.
Thiếu sự sáng tạp sẽ luôn thụ động ngay trong chính suy nghĩ, không đáp ứng được những sự thay đổi theo chiều hướng tiến bộ của xã hội. Chính vì thế mỗi chúng ta ai cũng cần phải có ý thức học tập, trau dồi kĩ năng nhiều hơn trong việc sáng tạo. Sáng tạo trong chính suy nghĩ, chính hành động của chúng ta.
Để có sự sáng tạo quả thật không phải điều đơn giản. Sáng tạo cũng cần phải trải qua quá trình học tập, thu thập kiến thức, rèn luyện và trau dồi các kĩ năng thì mới có thể linh động, nhạy bén. Hãy học tập, làm việc một cách chủ động không cần nhờ quá nhiều vào sự giúp đỡ của người khác. Phải biết tự học, tự tìm tòi tìm hiểu, mở rộng thêm kiến thức, sự hiểu biết thì mới có khả năng sáng tạo tốt được. Chúng ta ai cũng cần phải phát triển thêm những phẩm chất tốt đẹp khác như tính kiên trì, khiêm tốn, quyết đoán… Hãy tin vào bản thân mình có thể mở ra một cánh cửa mới của thế giới. Hãy luôn tích cực năng động sáng tạo, đừng cảm thấy xấu hổ khi có điều gì sai sót.
Nhà văn Lỗ Tấn từng nói một câu rất hay: “Trên bước đường thành công không có dấu chân của kẻ lười biếng”. Quả thật đúng như vậy, sự lười biếng lao động, lười biếng suy nghĩ, lười biếng sáng tạo sẽ dẫn đến việc ngu dốt mà ngu dốt và lười biếng thì không thể nào tạo nên được sự nghiệp thành công, tương lai rực rỡ mang lại vinh quang được cho con người. Để thành công, cách duy nhất là mỗi bản thân con người chúng ta phải biết tự thân vận động, làm việc, suy nghĩ và sáng tạo không ngừng trong công việc cũng như trong đời sống.

Lung linh vẻ đẹp của NHỮNG NGÔI SAO XA XÔI – Lê Minh Khuê





Có một thời để nhớ, có một thời đẹp hơn mọi lời ca, một thời mà cả nước lên đường phơi phới bước chân trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước vĩ đại.  Trường Sơn ơi, rầm rập bước quân hành. Hình ảnh các cô gái thanh niên xung phong trên tuyến đầu lửa đạn đã trở thành đề tài văn học. Mảnh trăng cuối rừng - Nguyễn Minh Châu, Lá đỏ - Nguyễn Đình Thi, Khoảng trời hố bom - Lâm Thị Mỹ Dạ... đã khắc họa vẻ đẹp kiêu hùng của thời đại. Lê Minh Khuê, một nhà văn nữ trưởng thành trong chiến tranh đã đóng góp cho nền văn học Việt Nam truyện ngắn Những ngôi sao xa xôi đã tạo nét duyên dáng của cây bút trẻ. Truyện đã phản ánh thành công khốc liệt của chiến tranh đồng thời ánh lên vẻ đẹp tâm hồn như những vì sao lung linh ngời sáng của những cô gái thanh niên xung phong trên tuyến lửa Trường Sơn. 
Bước vào tác phẩm ta thấy Lê Minh Khuê đã phác họa khung cảnh và không khí trọng điểm trên tuyến đường Trường Sơn chỉ bằng một vài nét chấm phá miêu tả hiện thực cô đọng nhưng cũng đủ khái quát khốc liệt chiến tranh. Và có lẽ thành công của tác phẩm là nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật và ngôn ngữ trần thuật. Với sự lựa chọn cách trần thuật ở ngôi thứ nhất, Phương Định là người kể cũng là nhân vật chính của truyện. Nhà văn Lê Minh Khuê đã miêu tả rất cụ thể thế giới nội tâm, những cảm xúc và suy nghĩ của ba cô gái thanh niên xung phong. Truyện viết về đề tài chiến tranh nên có nhiều chi tiết về bom đạn, chiến đấu, hi sinh nhưng chủ yếu là hướng vào thế giới nội tâm, làm hiện lên vẻ đẹp tâm hồn của con người trong hoàn cảnh khốc liệt. Có được sự thành công đó phần lớn là nhờ vào cách lựa chọn ngôi kể phù hợp của tác giả. 
Truyện ngắn Những ngôi xa xôi của Lê Minh Khuê có cốt truyện khá đơn giản. Truyện kể về ba cô thanh niên xung phong tên là Thao, Nho và Phương Định. Họ làm thành một tổ trinh sát mặt đường trên cao điểm tại một vùng trọng điểm trên tuyến đường Trường Sơn. Đây là nơi tập trung nhiều bom đạn và sự nguy hiểm, ác liệt. Hoàn cảnh sống và chiến đấu của ba cô gái đặc biệt gian khổ nguy hiểm và công việc của họ cũng đầy nguy hiểm hi sinh. Ngay giữa ban ngày, họ phải phơi mình ra giữa vùng trọng điểm đánh phá của máy bay địch. Sau mỗi trận bom họ phải lao ra trọng điểm, đo ước tính khối lượng đất đá lấp hố bom địch đào xới, đếm bom chưa nổ và phá bom. Đây là một công việc hết sức mạo hiểm, luôn phải đối mặt với cái chết, luôn căng thẳng thần kinh, đòi hỏi họ phải hết sức dũng cảm và bình tĩnh. Nhưng với họ công việc nguy hiểm ấy đã trở thành quen thuộc, bình thường: “Có nơi đâu như thế này không: đất bốc khói, không khí bàng hoàng, máy bay ầm ì xa dần. Thần kinh căng như dây chão, tim đập bất kể nhịp điệu, chân chạy mà vẫn biết rằng khắp chung quanh có nhiều quả bom chưa nổ. Có thể nổ bây giờ, có thể chốc nữa. Nhưng nhất định sẽ nổ... Rồi khi xong việc, quay lại nhìn cảnh đoạn đường một lần nữa, thở phào chạy về hang.”
Những cô gái làm trinh sát mặt đường ấy, có cùng xuất thân là những cô gái Hà Nội, có cá tính và hoàn cảnh riêng khác nhau nhưng ba cô đều có phẩm chất chung của thanh niên xung phong ở chiến trường là có tinh thần trách nhiệm cao với nhiệm vụ, không sợ hy sinh, có tình đồng đội gắn bó. Đó là mẫu người sẵn sàng “Đi bất cứ nơi đâu khi Tổ quốc đang cần”. Ngoài ra, họ còn có những nét tính cách chung của các cô gái trẻ là dễ xúc cảm, nhiều ước mơ, hay mơ mộng, dễ vui mà cũng dễ trầm tư và thích làm đẹp cho cuộc sống của mình dù đang sống ở chiến trường. Cụ thể là chị Thao rất thích chép bài hát, chép cả lời hát bịa của Phương Định. Còn Nho thích thêu thùa và Phương Định, những lúc rảnh rỗi lại thích ngắm mình trong gương hay ngồi bó gối mơ màng. Đó là nét đẹp lãng mạn trong khói lửa chiến tranh, là sức sống dâng tràn mặc mưa bom bão đạn như Bùi Minh Quốc cũng từng viết:
Trong một góc vườn cháy khét lửa napan
Em sửng sốt gặp một nhành hoa cúc
Và em gọi đó là hạnh phúc.
(Bài thơ về hạnh phúc) 
Nho, Thao, Phương Định sống trong một tập thể, họ hết sức gắn bó yêu thương nhau nhưng ba cô gái vẫn có những nét tính cách riêng không ai giống ai. Chị Thao thì ít nhiều từng trải hơn, không dễ dàng hồn nhiên, mơ mộng và dự tính tương lai có vẻ thiết thực hơn nhưng cũng không thiếu những khát khao và rung động của tuổi trẻ. Chị chiến đấu rất dũng cảm, bình tĩnh nhưng lại rất sợ khi nhìn thấy máu chảy và sợ cả vắt nữa. Còn Nho là người nhỏ tuổi nhất, tính cô lại càng trẻ con. Nho thích mút kẹo. Hàng ngày cô được cưng chiều và luôn nhận phần việc nhẹ hơn. Nhưng không phải vì thế mà cô ỷ lại công việc cho Thao và Phương Định. Cô vẫn dũng cảm, cứng rắn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình. 
Phương Định là nhân vật chính của truyện được Lê Minh Khuê tập trung ngòi bút để miêu tả. Cô vốn là con gái Hà Nội vào chiến trường. Cô có thời học sinh hồn nhiên vô tư bên người mẹ. Cô có một căn buồng nhỏ ở một đường phố yên tĩnh của thủ đô trong những  ngày thanh bình trước chiến tranh. Những kỉ niệm ấy, luôn sống trong lòng cô ngay giữa chiến trường dữ dội. Nó vừa là niềm khát khao, vừa là dòng suối làm dịu mát tâm hồn cô trong hoàn cảnh căng thẳng, khốc liệt của chiến tranh. 
 Nói về ngoại hình, Lê Minh Khuê không hề miêu tả chi tiết mà tác giả rất tinh tế khi để cho nhân vật tự đánh giá mình: “Tôi là con gái Hà Nội. Nói một cách khiêm tốn, tôi là một cô gái khá. Hai bím tóc dày, tương đối mềm, một cái cổ cao, kiêu hãnh như đài hoa kèn. Còn mắt tôi thì các anh lái xe bảo: “Cô có cái nhìn sao mà xa xăm!”. Chính đôi mắt cô đẹp như một ánh sao giữa bầu trời vừa gần mà lại vừa xa đã tạo cảm xúc bao anh lính lái xe qua cung đường Trường Sơn khói lửa. Cô thấy vui và tự hào về điều đó nhưng cô chưa dành riêng tình cảm cho một ai. Vậy cũng đủ cho ta nhận thấy Phương Định là một cô gái đẹp.  
Bên cạnh vẻ đẹp về hình thức, Phương Định lôi cuốn người đọc bởi vẻ đẹp hồn nhiên, trong trẻo của tâm hồn. Vào chiến trường đã ba năm, đã quen với những thử thách nguy hiểm, giáp mặt hàng ngày với cái chết nhưng Phương Định cũng như đồng đội của cô không mất đi sự hồn nhiên trong sáng và những mơ ước về tương lai. Cô là người nhạy cảm hồn nhiên hay mơ mộng và thích hát. Cô đã kể rằng “Tôi thích nhiều bài hát. Những bài hành khúc bộ đội hay hát trên những ngả đường mặt trận. Tôi thích dân ca quan họ mềm mại, dịu dàng. Thích Ca-chiu-sa của hồng quân Liên Xô. Thích ngồi bó gối mơ màng: “Về đây khi mái tóc còn xanh xanh ...”. Đó là dân ca Ý trữ tình giàu có, phải lấy giọng thật trầm. Thích nhiều”. Thấy mưa đá rơi ngoài hang cô vui thích cuống cuồng như trẻ con, đem cục đá vào cho Nho rồi lại chạy ra. Cơn mưa đá tan đi nhanh chóng, cô thẫn thờ không phải vì tiếc những viên đá mà vì cô nhớ đến mẹ, đến cái cửa sổ, đến những ngôi sao to trên bầu trời thành phố...
Là người nhạy cảm, nhưng cô lại không hay biểu lộ tình cảm của mình mà luôn tỏ ra kín đáo giữa đám đông. Người ngoài nhìn vào tưởng là kiêu kỳ nhưng kì thực cô lại là người rất giàu tình cảm. Cô yêu mến những người đồng đội trong tổ trinh sát mặt đường của mình và cả đơn vị nữa. Khi Nho bị thương vì sức ép của bom, Phương Định đã tiêm và chăm sóc cho Nho hết sức chu đáo. Đặc biệt Phương Định còn dành tình yêu và niềm cảm phục của mình cho tất cả những người chiến sĩ mà cô gặp hằng đêm trên trọng điểm của con đường vào mặt trận. Cô đã bộc bạch lòng mình: “Thực tình trong suy nghĩ của tôi, những người đẹp nhất, thông minh can đảm và cao thượng nhất là những người mặc quân phục, có ngôi sao trên mũ”. 
Phương Định còn là người giàu lòng tự trọng, có tinh thần dũng cảm trong chiến đấu và là người có tinh thần trách nhiệm cao với công việc, không ngại gian khổ hy sinh. Phẩm chất đó của Phương Định đã được thể hiện rõ qua từng cảm giác, ý nghĩa dù chỉ thoáng qua của Phương Định trong một lần phá bom. Mặc dù đã rất quen với công việc nguy hiểm này, một ngày cô có thể phá đến năm quả bom, nhưng mỗi lần phá bom vẫn là một thử thách với thần kinh, cảm giác của Phương Định. Mỗi lần phá bom Phương Định lại có cảm giác là “Các anh cao xạ” ở trên kia đang dõi theo từng động tác, cử chỉ của cô. Cô hiểu các anh “không thích cái kiểu đi khom khi có thể cứ đàng hoàng mà bước tới”. Và lòng tự trọng đã kích thích lòng dũng cảm của cô giúp cố lấy được tư thế “tôi không sợ nữa. Tôi sẽ không đi khom..”.  Ở bên quả bom, kề sát với cái chết im lìm và bất ngờ, từng cảm giác của cô cũng trở nên sắc nhọn hơn: “Thỉnh thoảng lưỡi xẻng chạm vào quả bom. Một tiếng động sắc đến gai người cứa vào thịt tôi. Tôi rùng mình và bỗng thấy tại sao mình làm quá chậm. Nhanh lên một tí! Vỏ quả bom nóng. Một dấu hiệu chẳng lành”. Sau khi đã đặt mìn cạnh quả bom chạy về nơi ẩn nấp cô căng thẳng chờ quả bom nổ “Liệu mìn có nổ, bom có nổ không? Không thì làm cách nào để châm mìn lần thứ hai?”. Qua sự miêu tả chân thật, Phương Định hiện lên với vẻ đẹp nội tâm phong phú, tâm hồn trong sáng, sống có lí tưởng và trách nhiệm. Một vẻ đẹp đầy cao thượng.
Lê Minh Khuê đã miêu tả rất chi tiết, cụ thể, tinh tế đến từng cảm giác, ý nghĩ. Mỗi lần phá bom là một thử thách với thần kinh. Ở bên quả bom, kề sát với cái chết im lìm và bất ngờ, từng cảm giác con của con người như cũng trở nên sắc nhọn hơn.
Trường Sơn đông nắng tây mưa
Ai chưa qua đó như chưa hiểu mình.
(Tố Hữu)
Lãng mạn là nét đẹp của những chàng trai, cô gái trên cung đường Trường Sơn khốc liệt, là chủ nghĩa anh hùng ca cách mạng, là đỉnh cao của một thời kỳ văn học. Mối tình đầy lãng mạn, đầy lý tưởng của Nguyệt, cô gái thanh niên xung phong và Lãm, anh bộ đội lái xe trong Mảnh trăng cuối rừng của Nguyễn Minh Châu hay tấm gương hy sinh của những cô gái thanh niên xung phong trong Khoảng trời – hố bom của Lâm Thị Mỹ Dạ:
Em đã lấy tình yêu Tổ quốc của mình thắp lên ngọn lửa
Đánh lạc hướng thù hứng lấy luồng bom.”
Nhiều và còn biết bao nhiêu nữa những tấm gương hy sinh của những cô gái ở Ngã ba Đồng Lộc... đã góp phần cho “Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân” (Lê Anh Xuân). 
Bằng ngòi bút miêu tả tâm lí nhân vật sinh động, chân thực và cách lựa chọn ngôi kể, giọng điệu trần thuật phù hợp với nhân vật kể tạo cho chuyện có giọng tự nhiên, thoải mái, trẻ trung và có chất nữ tính. Lời kể thường dùng những câu ngắn, nhịp nhanh, tạo được không khí khẩn trương trong hoàn cảnh chiến trường. Ở những đoạn hồi tưởng, nhịp kể chậm lại, gợi nhớ những kỉ niệm tuổi niên thiếu hồn nhiên, nhạy cảm của một cô học sinh thành phố thích mơ mộng. Truyện viết về chiến tranh, có những chi tiết, sự việc về bom đạn, chiến tranh, hi sinh, nhưng chủ yếu vẫn hướng vào thế giới nội tâm, làm hiện lên vẻ đẹp tâm hồn của con người trong chiến tranh. Lê Minh Khuê đã làm nổi bật lên vẻ đẹp tâm hồn, tư tưởng và những phẩm chất tốt đẹp của các cô gái thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn. Đó cũng chính là hình ảnh tiêu biểu về thế hệ trẻ Việt Nam thời chống Mĩ cứu nước đầy gian khổ hy sinh nhưng vẻ vang oai hùng. 

Nguồn: Thạc sĩ Hồ Thị Giáng Thu (giáo viên trường THCS Phan Bội Châu, quận Tân Phú)





Thứ Năm, 9 tháng 4, 2020

Phân tích bài thơ Nói với con của Y Phương.



Y phương là một trong số ít nhà thơ người dân tộc thiểu số thành công và gắn bó lâu dài với hoạt động sáng tác nghệ thuật. Tuy viết không nhiều nhưng các tác phẩm của ông đã để lại một dấu ấn sâu đậm trong nền văn học Việt Nam thế kỉ 20. Thơ ông là tiếng lòng chân thật và dung dị, thể hiện tâm hồn trong sáng và mạnh mẽ, đồng thời cũng điển hình cho cách tư duy giàu hình ảnh của con người miền núi. Thế giới nghệ thuật thơ Y Phương có không gian, thời gian và qui luật tâm lí riêng, Bài thơ “Nói với con” là một tác phẩm đặc trưng cho phong cách thơ Y Phương. Bài thơ với giọng điệu thổ cẩm ngọt ngào, gợi nhắc tình phụ tử cao quý, sự tự hào và ngợi ca truyền thống cần cù nghĩa tình và sức sống mạnh mẽ của người dân tộc, của dân tộc và quê hương.
Nhà thơ Xuân Quỳnh từng viết:
Muốn cho trẻ hiểu biết
Thế là bố sinh ra
Bố bảo cho biết ngoan
Bố dạy cho biết nghĩ.
Những người cha không chỉ là đấng sinh thành mà còn là người dưỡng dục là người thầy đầu tiên của chúng ta. Y Phương từng tâm sự rằng bài thơ “Nói với con” là lời tâm sự của nhà thơ với đứa con gái đầu lòng.  Ông viết bài thơ nói với con khi con gái của ông còn rất nhỏ. Bài thơ "Nói với con" mang đến những xúc cảm chân thành và bình dị  về những lẽ để làm người. Bài thơ lấy cảm hứng từ tình yêu thương vô bờ của một người cha dành cho con của mình, từ đó mượn lời nói cùng con để ngợi ca về cội nguồn sinh dưỡng của mỗi con người, qua đó cũng thể hiện sự tự hào về truyền thống của quê hương, về sự sống bền bỉ của dân tộc. Nói với con là tác phẩm đi từ cái riêng đến cái chung, từ tình cảm gia đình mà mở rộng ra là tình cảm quê hương, từ những kỉ niệm gần gũi thân thuộc mà nâng lên thành lẽ sống cao đẹp. Tâm sự với con cũng là nhà thơ tâm sự với chính mình. Người cha luôn mong mỏi ở đứa con thân yêu của mình sự mạnh mẽ rắn rỏi, sự vững vàng chắc chắn và bền bỉ trên đường đời của mình. Qua đó sâu sắc và khéo léo, tác giả đã nhấn mạnh trách nhiệm của người làm con.
Ngay từ những dòng thơ đầu, người đọc cũng nhận ra tình cảm mà gia đình và quê hương yêu dấu dành cho đứa con. Mượn lời nói cùng con, người cha đã khéo léo nhắc nhở về cội nguồn sinh dưỡng, về truyền thống của dân tộc, cái nôi nuôi con khôn lớn chính là tình yêu thương gia đình và tình cảm của quê hương đồng mình. Con lớn lên trong tình yêu thương vô bờ bến mà cha mẹ dành cho – tình gia đình:
Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười.
Đồng mình chính là cái nôi đầu tiên của con. Tình cảm với quê hương với gia đình chính là sợi dây vô hình, là điểm tựa tinh thần, cũng là nơi dựa vững chắc cho đứa con. Giọng điệu nhẹ nhàng như những lời thủ thỉ, nhà thơ Y Phương đã giúp cho ta thấy được những niềm hạnh phúc bình dị. Đọc bài thơ Nói với con, người đọc sẽ thấy những cung bậc nhẹ nhàng và chứa chan tình cảm. Nhịp thơ 2/3, cấu trúc đối xứng, nhiều từ được láy lại,tạo ra một âm điệu tươi vui, quấn quýt: “chân phải” – “chân trái”, rồi “một bước” – “hai bước”, rồi lại “tiếng nói” – “tiếng cười”…. Kết hợp những hình ảnh cụ thể, giàu chất thơ kết hợp với nét độc đáo trong tư duy, cách diễn đạt của người miền núi, bốn câu thơ mở ra khung cảnh một gia đình ấm cúng, đầy ắp niềm vui, đầy ắp tiếng nói cười. Những bước đi chập chững đầu tiên của con là cả niềm hạnh phúc lớn lao của cha mẹ và gia đình. “Tiếng nói, tiếng cười” trong những bước chân ấy chính là sự rộn vang lấp lánh trong ánh mắt hạnh phúc của cha mẹ. Từng câu, từng chữ đều toát lên niềm tự hào và hạnh phúc tràn đầy.Cả ngôi nhà như rung lên trong “tiếng nói”, “tiếng cười” của cha, của mẹ.Mỗi bước con đi, mỗi tiếng con cười đều được cha mẹ đón nhận, chăm chút mừng vui. Trong tình yêu thương, trong sự nâng niu của cha mẹ, con lớn khôn từng ngày. Ta có thể hình dung được gương mặt tràn ngập hạnh phúc yêu thương của cha mẹ. Gắn kết gia đình bền chặt đã được hình thành từ những giây phút hạnh phúc bình dị, đáng nhớ ấy. Khi con dần Lớn lên, cha mẹ vẫn luôn dõi theo những bước chân ấy trên mọi nẻo đường. Gia đình và quê hương, nơi ấy có cha mẹ và những người thân yêu, vẫn luôn là nơi dựa tinh thần vững chắc. Lời thơ đã chạm đến sợi dây tình cảm gia đình sâu kín của mỗi con người nên tạo được sự đồng cảm, rung động sâu sắc đến độc giả. Tình cha mẹ – con cái thiêng liêng, sâu kín, mối dây ràng buộc không thể xóa nhòa.
Không những thế, ta còn thấy được người cha ấy đã cho con biết niềm vui của lao động cũng như tình nghĩa của người đồng mình:
Người đồng mình yêu lắm con ơi!
Đan lờ cài nan hoa
Vách nhà ken câu hát.
Quê hương tươi đẹp, thấm đượm nghĩa tình như bầu sữa tinh thần thứ hai giúp cho con trưởng thành. Quê hương hiện ra qua hình ảnh của người đồng mình. Nói với con về những “người đồng mình”, nhà thơ như đang giới thiệu ân cần đây là những người bản mình, người vùng mình, người dân quê mình gần gũi, thân thương. Cách gọi như thế, cùng với hô ngữ “con ơi” khiến lời thơ trở nên tha thiết, trìu mến. Người cha cất cao câu hát nhắc con ân tình của người đồng mình. Người đồng mình là những con người đáng yêu, đáng quý. Đó là nhịp sống và lao động của những con người núi rừng chất phác và chân thật. Cuộc sống lao động cần cù và tươi vui của họ được gợi ra qua những hình ảnh thật đẹp! “Nan hoa” “Câu hát” đều là những hình ảnh giàu sắc thái…. Những nan nứa,nan tre dưới bàn tay tài hoa của người quê mình đã trở thành “nan hoa”. Vách nhà không chỉ ken bằng tre, gỗ mà còn được ken bằng những câu hát si, hát lượn. Các động từ “cài”, “ken” vừa miêu tả chính xác động tác khéo léo trong lao động vừa gợi sự gắn bó, quấn quýt của những con người quê hương trong cuộc sống lao động. Cái “yêu lắm” của “người đồng mình” là gì nếu không phải là cốt cách tài hoa, là tinh thần vui sống? Phải chăng, ẩn chứa bên trong cái dáng vẻ thô mộc là một tâm hồn phong phú, lãng mạn biết bao?
Song song đó, rừng núi quê hương thơ mộng, nghĩa tình cũng góp phần hun đúc cho người con tinh thần, tình yêu thương để trưởng thành:
Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng.
Nếu như hình dung về một vùng núi cụ thể, chắc hẳn mỗi người có thể gắn nó với những hình ảnh khác cách nói của Y Phương: là thác lũ, là bạt ngàn cây hay rộn rã tiếng chim thú hoặc cả những âm thanh “gió gào ngàn, giọng nguồn thét núi”, những bí mật của rừng thiêng… Nhưng Y Phương chỉ chọn một hình ảnh thôi, hình ảnh “hoa” để nói về cảnh quan của rừng. Nhưng hình ảnh ấy có sức gợi rất lớn, gợi về những gì đẹp đẽ và tinh tuý nhất. Hoa trong “Nói với con” có thể là hoa thực – như một đặc điểm của rừng – và khi đặt trong mạch của bài thơ, hoa chính là sự biểu trưng của cái đẹp. Hình ảnh này là một tín hiệu thẩm mĩ góp phần diễn đạt điều tác giả đang muốn khái quát: chính những gì đẹp đẽ của quê hương đã hun đúc nên tâm hồn cao đẹp của con người ở đó. Quê hương còn hiện diện trong những gì gần gũi, thân thương. Đó cũng chính là một nguồn mạch yêu thương vẫn tha thiết chảy trong tâm hồn mỗi người, bởi “con đường cho những tấm lòng”. Điệp từ “cho” mang nặng nghĩa tình. Thiên nhiên đem đến cho con người những thứ cần để lớn, giành tặng cho con người những gì đẹp đẽ nhất.Thiên nhiên đã che chở, nuôi dưỡng con người cả về tâm hồn và lối sống. Bằng cách nhân hoá “rừng”“con đường” qua điệp từ “cho”, người đọc có thể nhận ra lối sống tình nghĩa của “người đồng mình”. Rừng mình cho hoa để tâm hồn người đồng mình thêm yêu thương, phong phú và trân trọng những giá trị tinh thần. Nghĩa tình dân tộc đã nuôi dưỡng tâm hồn con, thiên nhiên thơ mộng đẹp đẽ đã chắp cánh cho tâm hồn con. Tác giả Y Phương thật tinh tế khi đã vận dụng lối diễn đạt thiên về hình ảnh cụ thể và sinh động của người dân tộc.
Quê hương ấy chính là cái nôi để đưa con vào cuộc sống êm đềm. Sung sướng ôm con thơ vào lòng, người cha nói với con về kỉ niệm có tính chất khởi đầu cho hạnh phúc gia đình:
Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới
Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời.
Bằng những hình ảnh thơ đẹp, giản dị; bằng cách nói cụ thể, độc đáo mà gần gũi của người miền núi, người cha muốn nói với con rằng: vòng tay yêu thương của cha mẹ, gia đình,nghĩa tình sâu nặng của quê hương làng bản- đó là cái nôi đã nuôi con khôn lớn,là cội nguồn sinh dưỡng của con. Con hãy khắc ghi điều đó. Hãy biết yêu quý gia đình, quê hương, hãy trân trọng từng khoảnh khắc đầm ấm, yên vui, hạnh phúc của gia đình, từng vẻ đẹp của quê hương. Người cha cũng mong con hãy hiểu những điều đó mà thêm yêu cuộc sống. Mạch thơ có sự đan xen, mở rộng: từ tình cảm gia đình mà nói tới quê hương. Đoạn thơ vừa là một lời tâm sự của người cha mong muốn đứa con phải biết tự hào về truyền thống quê hương, phải luôn tự tin, vững bước trên đường đời.
Trong cái ngọt ngào của kỉ niệm về gia đình và quê hương, người cha đã tha thiết nói với con về những phẩm chất tốt đẹp của người đồng mình. Người đồng mình biết lo toan và giàu mơ ước (Giàu ý chí, nghị lực):
Người đồng mình thương lắm con ơi!
Cao đo nỗi buồn
Xa nuôi chí lớn.
Mở đầu đoạn thơ thứ hai nhà thơ lại lặp lại câu thơ “Người đồng mình thương lắm con ơi” (khác với câu thơ trong đoạn trước một chữ “yêu” bằng “thương”). Nếu trên kia “yêu lắm con ơi”– yêu cuộc sống vui tươi bình dị, yêu bản làng thơ mộng, yêu những tấm lòng chân thật nghĩa tình, thì đến đây người cha nói “thương lắm con ơi”– bởi sau từ “thương” đó là những  những nỗi vất vả, gian khó của con người quê hương. Nghệ thuật điệp ngữ đã nhấn mạnh được cảm xúc đang trào dâng trong tâm trạng nhà thơ trước bao nỗi niềm thiêng liêng, da diết của quê hương. Tiếng lòng nhà thơ như đang thổn thức với nhưng cơn “nấc” yêu lắm, thương lắm trước cái “đẹp” và cái “khó” của quê hương. Nhà thơ tiếp tục “Nói với con” về những cái “đẹp” của người “đồng mình”. Cái “đẹp” đó là nghị lực và ý chí của con người quê hương: “Cao đo nỗi buồn/ Xa nuôi chí lớn”. Nhà thơ đã dùng cái cao của trời và cái xa của đất làm thước đo nỗi buồn và ý chí vươn lên. Nét đặc sắc ở đây là tác giả đã dùng những cái vô cùng của thiên nhiên để thể hiện tầm kích chí hướng của con người. Sắp xếp tính từ “cao”, “xa” trong sự tăng tiến, nhà thơ cho thấy khó khăn, thử thách càng lớn thì ý chí con người càng mạnh mẽ cũng như để nhấn mạnh cuộc sống tự nhiên, mạnh mẽ đầy khoáng đạt của những người đồng mình. Họ là những con người hăng say lao động bằng cả tấm lòng. Dù có khó khăn chồng chất, dù có nghèo đói nhưng người đồng mình vẫn luôn sống ngẩng cao đầu, vẫn luôn kiên định về vững chí. Câu thơ cô đúc, đăng đối, chắc nịch như câu tục ngữ đã diễn tả một cách mạnh mẽ, dứt khoát một thái độ, một phương châm ứng xử rất đẹp của con người xứ núi: dẫu gian khó nhưng con người nơi đây không vì thế mà dời bỏ quê hương, ngược lại họ tìm mọi cách để thích nghi với cái khó, cải biến cái khó như cây rừng đã từng sinh sôi phát triển trên núi đá, xanh tốt trong thung, trong khe.
Với cách nói có chút cường điệu, người cha muốn con phải biết yêu thương và tự hào về quê hương dù nó không to nhất, không đẹp nhất.
Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn.
Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trên thung không chê thung nghèo đói
Sống như sông như núi
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc…
Câu thơ “Dẫu làm sao thì cha cũng muốn” nghe có chút ngậm ngùi nhưng lại chuyển tải hết niềm mong mỏi của cha. Con sẽ thế nào, tất cả do con quyết định. Bởi người cha biết rằng, trong cuộc sống mới, khi mà đời sống vật chất được đề cao hơn bao giờ hết, thì việc giữ gìn và phát triển đạo lí, tình người là một nhiệm vụ hết sức khó khăn.
Quê hương lúc nào cũng chân thật, tự nhiên, không tham lam, không giả dối. Họ muôn đời lam lũ trong đói nghèo, kham khổ đi lên nhưng lúc nào cũng mạnh mẽ, không bao giờ kiêu ngạo hay bị khuất phục. Đó là những đức tính quý báu cuả người đồng mình, người cha mong con ghi lấy, nhớ lấy, tìm thấy và gìn giữ mãi mãi trong phong ba bão tố đường đời. Ông xây dựng nên một loạt các hình ảnh gợi sự khó khăn, vất vả: “đá gập ghềnh”, “thung nghèo đói” nhưng dường như cuộc sống càng khó khăn bao nhiêu thì con người càng phải vươn lên không ngừng, đấu tranh vượt qua nó. Và trong những hình ảnh ấy có lẽ hình ảnh của đá là ám ảnh nhất. Nó vừa gợi lên cuộc sống cực nhọc nhưng cũng lại gợi lên cái thế ngẩng cao đầu trên đá của con người. Cuộc sống của người đồng mình còn rất là nghèo, khó khăn và gian khổ vẫn còn nhiều gian nan, thử thách, chính vì thế mà thành ngữ: “lên thác xuống ghềnh” đã khẳng định thêm một lần nữa cuộc sống khó khăn của người đồng mình trong giai đoạn khó khăn khi vừa bước ra khỏi chiến tranh được 5 năm. Y Phương gợi lên cái khó, cái khổ của quê hương không phải để nhắc con biết “thương” mà cao hơn thế là dạy con biết vượt lên những cái “khó”, phát huy cái “đẹp” của quê hương. Đó là sự cần cù, tinh thần lạc quan, ý chí không lùi bước trước khó khăn. Điệp ngữ “sống”, “không chê - không lo” không phải nhấn mạnh cái khó, cái khổ mà nhấn mạnh lời dạy con phải có ý chí nghị lực vươn lên; không sợ khó không sợ khổ, không được coi khinh quê hương, dân tộc. Người đồng mình thật kiên cường biết bao, sống như sông, như núi – vững vàng vượt qua mọi sóng gió gian nan. Cha mẹ cũng mong muốn con như vậy, hiên ngang mạnh mẽ như phong thái của những người đồng mình. Đây chính là tấm lòng thủy chung son sắt với nơi chôn rau cắt rốn của nhà thơ. Khát vọng của cha đối với conL là muốn con sau này phải xây dựng quê hương. Bằng phép so sánh, điệp từ, phép đổi để bày tỏ ước nguyện của người cha. Con phải sống ý chí mạnh mẽ: “Sống như sông như suối – Lên thác xuống ghềnh – Không lo cực nhọc”. Người cha mong con sẽ khỏe mạnh, khoáng đạt, sống nghĩa tình, chung thủy với quê hương, biết chấp nhận và vượt qua khó khăn. Đây thực sự là điều cần thiết cho mỗi con người khi bước chân vào đường đời lắm chông gai, nhọc nhằn bởi lẽ “đường đi khó không phải vì ngăn sông cách núi mà vì lòng người ngại núi e sông” (Nguyễn Bá Học).  Các câu thơ đọc lên thấy nghẹn ngào, rưng rưng nước mắt như tấm lòng của người cha.
Niềm tự hào về quê hương và con người một lần nữa lại dâng trào trong lời dặn đinh ninh như sắc đá:
Người đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con.
Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục.
Đọc những dòng thơ, ta thấy mong ước của cha chính là mong con thủy chung với quê hương, biết chấp nhận khó khăn và thử thách… Lời dặn dò của người cha tha thiết hơn và cũng nghiêm khắc hơn. Vẫn là cách nói hình ảnh quen thuộc của người miền núi nhưng ý thơ ở đây mang đậm màu sắc triết lí:
Người đồng mình tuy thô sơ da thịt
 Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con.
Sự “thô sơ da thịt” là hình thức bề ngoài còn “chẳng mấy ai nhỏ bé” là nội dung. Bề ngoài thì mộc mạc, thô sơ nhưng bên trong là ý chí, nghị lực phi thường; là sự tự trọng và niềm kiêu hãnh vĩ đại. Những con người núi rừng ấy có thể thô sơ da thịt nhưng không hề nhỏ bé, không hề yếu đuối về ý chí. Bằng cách diễn đạt tương phản giữa nội dung và hình thức Y Phương đã thể hiện một sức mạnh tiềm tàng của những con người quê hương. Người đồng mình sống mộc mạc, giản dị, sống chân thật, bộc trực, không che đậy bằng những thứ phù phiếm màu mè nhưng những con người thẳng thắn ấy lại có chí khí. Nhờ phép đối lập giúp nhà thơ ca ngợi người đông mình mộc mạc, chân chất, nhưng không nhỏ bé về tâm hồn, sống phóng khoáng, mạn mẽ với khát vọng của quê hương đất nước.
Sức sống mãnh liệt của họ luôn được khẳng định với một niềm tin vững chắc. Họ kiên trì xây dựng quê hương và gìn giữ phong tục riêng. Và đó cũng là giá trị mà mỗi con người phải trân trọng và gìn giữ đến suốt cuộc đời:
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con
Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương.
Đó là sự phi thường của con người quê hương. Muốn xây dựng đất nước thì trước hết ai cũng phải lao động. “Tự đúc đá” để nói đến công việc năng nhọc nhưng tự nguyện của người đồng mình. Câu thơ thật đặc sắc, đầy tự tôn dân tộc. Đây là câu thơ tả thực nhưng rất gợi cảm. Câu thơ ấy gợi cho người đọc về một nét văn hóa của người miền núi. Đó là họ đẽo đá kê chân cột nhà, làm lối đi… Từ hình ảnh cụ thể này nhà thơ chuyển sang nghĩa khái quát “kê cao quê hương” để chỉ ý thức, tinh thần xây dựng quê hương. Bằng sự nhẫn nại hàng ngày những con người lao động thô sơ da thịt ấy đã làm nên quê hương, làm nên truyền thống, làm nên phong tục. Quê hương là phong tục, là những nét đẹp văn hóa, con người đã tiếp nhận và lĩnh hội được. Lời thơ giản dị, ca ngợi những con người cần cù, nhẫn nại bằng đôi tay lao động của mình đã làm nên quê hương đất nước với truyền thống và phong tục tập quán tốt đẹp. Theo Y phương: “Văn hóa là tài sản  lớn. Giữ cho mình và cho con cháu của mình.”. Sự tôn vinh quê hương có thể nói là vô cùng sâu sắc. Người cha ấy đã tâm tình với con của mình bằng những lời tự sâu thẳm lòng mình. Với tình phụ tử thiêng liêng, người cha đã truyền lại cho con niềm tự hào dân tộc, niềm tin vào bản thân với sức sống bền bỉ bất diệt của dân tộc. Tình cảm của người cha thật thiết tha và trìu mến biết bao.
Đằng sau những lời chân tình ấy của cha, đằng sau sự mỏi mòn lặng thầm ấy là biết bao hy vọng, biết bao ngóng trông và đợi chờ:
Con ơi tuy thô sơ da thịt
Lên đường.
Không bao giờ nhỏ bé được
Nghe con…
Bốn câu thơ cuối hình ảnh “người đồng mình” “thô sơ da thịt” lại được lặp lại. Sự lặp lại này là mượn cái hình thức giản dị bề ngoài của quê hương để gợi nhớ đến truyền thống vĩ đại của quê hương qua đó nhằm nhắc nhở, nhắn nhủ, thể hiện mong muốn con sau này lớn khôn, trưởng thành, dù đi khắp phương trời nhưng “không bao giờ nhỏ bé”, ngược lại lối sống cao thượng của quê hương, cái nôi lớn của mình. Con sẽ bước tiếp trên con đường dân tộc đã đi qua, có máu và nước mắt của bao con người. Một lối mòn nhỏ nhưng dẫn đến một chân trời mới. Truyền thống quê hương sẽ là nguồn sức mạnh để con nhận ra mình, khẳng định mình. Quê hương sẽ đồng hành cùng con để con sẽ không cô đơn mỗi khi con gặp khó khăn thử thách.
Nói về quê hương, về người đồng mình, tác giả không dấu được niềm tự hào khi nói về sự bền bỉ, sức sống mạnh mẽ của quê hương và mong muốn con gìn giữ và tiếp nối. Khép lại bài thơ bằng âm hưởng của một lời nhắn nhủ vừa nghiêm khắc vừa trìu mến bao dung. Hai tiếng “nghe con” đặt vào lòng con cả tình cha, tình mẹ và sự hoài mong của quê hương xứ sở. Mở ra một chân trời mới, quê hương nhỏ sẽ theo con đến với cuộc đời lớn, đólà điều mà người cha vừa lo lắng vừa tin tưởng trong niền hân hoan tha thiết. Giọng thơ thiết tha mến thiết tha ấy, mà nghe sao xúc động nghẹn ngào… Những lời căn dặn của người cha xuất phát từ đáy lòng. Cha dặn con phải tự tin mà bước trên đường đời. Bốn câu thơ có hai câu ngắn, được ngắt nhịp một cách mạnh mẽ giống như lời nhắn nhủ mà như là mệnh lệnh. Bởi “quê hương là chùm khế ngọt” (Đỗ Trung Quân), quê hương là nghĩa tình, là điểm tựa tình thần vững chắc với mỗi người trong suốt chặng đường phát triển của bản thân. “Lên đường” con đừng quên quê hương là nơi đã chắp cánh, gia đình là cội nguồn nuôi dưỡng con. Hãy tự hào về quê hương để mà biết phấn đấu và quyết tâm thành công. Truyền thống của người đồng mình, của quê hương sẽ là hành trang con mang theo trên mọi nẻo đường. Người cha đã truyền cho con vẻ đẹp cũng như sức mạnh của quê hương. Mong ước nhỏ bé ấy của cha hy vọng con sẽ thực hiện được. Đó chính là ước muốn cao đẹp mà chỉ có tình phụ tử mới có thể làm được.
Với thể thơ tự do, câu dài câu ngắn rất phù hợp với cuộc sống gập ghềnh của người dân vùng núi. Hình ảnh thơ mang đậm chất của núi rừng, sông suối. Kết hợp với mạch cảm xúc tự nhiên, nhẹ nhàng, không chỉ đơn thuần là những lời khuyên chân tình với con mình, đó còn là lời nhắn nhủ với tất cả chúng ta về truyền thống đạo lý “uống nước nhớ nguồn”. Bài thơ chính là một đóa hoa thơm góp vào mảng đề tài quê hương, đất nước. Cho ta thêm yêu thêm nhớ quê nhà thân thuộc của mình:
Quê hương ơi! Xa rồi nhớ thành thơ
Tiếng mẹ đẻ, gặp nhau mừng khôn xiết
Ai cũng vậy xa lâu rồi mới biết
Những ngôn từ không đủ viết…quê hương!
Bài thơ kết thúc mà âm hưởng như còn vang mãi. Tác phẩm đã nhắc nhở chúng ta về tình phụ tử, tình cảm gia đình, tình yêu quê hương đất nước. Qua những lời tâm tình thủ thỉ của người cha, chúng ta nhận thấy tình cảm lớn lao mà người cha đã dành cho đứa con của mình. Người cha ấy đã gửi gắm biết bao nghĩ suy cùng những bài học gần gũi giản dị, từ đó mong con luôn sống vững vàng, ngay thẳng và mạnh mẽ như người đồng mình. Ta nhận ra rằng Y Phương là một người cha có niềm tự hào dân tộc, quê hương sâu sắc, có tình yêu, quan tâm và luôn nhắc nhở con cái của mình. Bài thơ đó là trách nhiệm của người đi trước đối với người đi sau là phải  luôn trân trọng, gìn giữ và truyền đi những giá trị cao đẹp mà người đồng mình đã muôn đời gìn giữ.

 Nguồn: ST &


Chủ Nhật, 5 tháng 4, 2020

Phân tích bài thơ Sang thu của Hữu Thỉnh



Từ xưa, bốn mùa luân chuyển xuân hạ thu đông luôn là ngọn nguồn sáng tác cho các thi nhân. Mùa thu luôn khiến thi nhân phải động lòng thương yêu bởi đó là mùa của những gì nhẹ nhàng và dịu êm nhất, mùa của sự tĩnh lặng và những rung động sâu sắc nhất. Mùa thu đi vào thơ Nguyễn Khuyến bình dị, gần gũi; đi vào thơ Nguyễn Đình Thi là tiếng vọng từ đất nước ngàn đời. Còn mùa thu của Hữu Thỉnh qua bài thơ “Sang thu” thật đẹp, thật nên thơ và trữ tình, và tấm lòng của nhà thơ cũng thật duyên. Sang thu đã thể hiện được tâm trạng xuyến xang, bâng khuâng của nhà thơ trước những biến chuyển tinh tế của đất trời cũng như bức tranh thiên nhiên nơi đồng bằng Bắc Bộ lúc giao mùa.
 Nhà thơ là người trải nghiệm, đi nhiều và viết nhiều. Ông có nhiều sáng tác đặc sắc về cuộc sống thôn quê. Với hồn thơ dân dã, dung dị, nhẹ nhàng, đằm thắm mà đầy chất trữ tình, các bài thơ của Hữu Thỉnh luôn được bạn đọc yêu mến và đánh giá cao. Bài thơ Sang thu được tác giả sáng tác năm 1977 rất dung dị, nhẹ nhàng, giàu ý nghĩa như chính phong cách sáng tác của nhà thơ. Bài thơ Sang thu cho thấy vẻ đẹp của mùa thu có lẽ là cảm hứng bất tận cho những người nghệ sĩ. Nhà thơ đã cảm nhận cái thời khắc sang thu bằng cả một hệ thống hình ảnh thiên nhiên qua nhiều yếu tố và bằng nhiều giác quan với sự rung động thật tinh tế. Chính là sự cảm nhận tinh tế của ông đối với từng hiện tượng thiên nhiên lúc giao mùa mà những rung động ấy đã lan truyền sang ta như một tiếng nói đồng điệu.
Thiên nhiên nơi miền quê Bắc Bộ được cảm nhận từ những điều vô hình. Bức tranh thiên nhiên đẹp ấy đã được người thi nhân cảm nhận phác họa một cách tinh tế và sinh động, giàu sức biểu cảm qua xúc giác, khứu giác và thị giác. Những tín hiệu sang thu nhẹ nhàng khi đất trời giao mình chuyển mùa trong một không gian nên thơ nhẹ nhàng:
Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về.
Thiên nhiên được cảm nhận từ những gì vô hình (hương, gió), mờ ảo (sương chùng chình), nhỏ hẹp và gần (ngõ). Đó là những cảm nhận rất riêng của nhà thơ. Đầu tiên là sự cảm nhận về hương vị. Cái hương ổi chín thường khó đọng lại trong những cơn gió nồm nam thổi mạnh của mùa hè, giờ đây bỗng “phả vào trong gió se”, đem đến hương vị dịu ngọt, đằm thắm của mùa thu khiến nhà thơ ngạc nhiên đến ngỡ ngàng trước sự thay đổi của thiên nhiên. Động từ “bỗng” đặt đầu câu như một sự ngạc nhiên kỳ lạ của nhà thơ về thời khắc giao mùa đầy xao xuyến này của tác giả. Từ “phả” là động từ mạnh diễn tả dư vị nồng nàn, đậm đà mùi hương ổi đang lan tỏa trong. Gió se là gió nhẹ, khô và hơi lạnh – gió của mùa thu, gió báo hiệu mùa thu đã đến. Gió se mang theo hương ổi của đồng quê. Chính làn gió này đã mang hương ổi đi xa hòa quyện với không gian cùng đất trời tạo nên vẻ đẹp của bài thơ. Nhận ra trong gió có hương ổi là cảm nhận tinh tế của một người sống giữa đồng quê và nhà thơ đã đem đến cho ta một tín hiệu mùa thu quen thuộc dân dã mà thi vị, ông đã phát hiện ra một nét đẹp thật đáng yêu của mùa thu vùng nông thôn đồng bằng Bắc Bộ. Cảm nhận được dư vị của trái ổi thơm phả trong gió, còn có sương thu. Nhưng không phải là “sương thu man mác đầu ghềnh” của Tản Đà mà là: “Sương chùng chình qua ngõ”- một hình ảnh lung linh huyền ảo. Không còn là những hạt sương mà đã là một màn sương mỏng nhẹ trôi, đang chuyển động chầm chậm nơi đường thôn ngõ xóm. “Chùng chình” là từ láy gợi hình diễn tả hành động chậm chạp như là cố ý chậm lại, làn sương nhẹ nhàng mỏng manh e ấp như nàng thiếu nữ đôi mươi xao xuyến trước những rung động. Màn sương được nhân hóa trở nên có hồn, tinh tế đầy sinh động. Sương qua ngõ chùng chình – Ngõ ở đây vừa mang ý hiện thực là ngõ nhỏ nơi thôn xóm lại như là ẩn dụ với cửa ngõ của thời gian đang từ từ bước qua ranh giới giữa hạ và thu. Hình ảnh sương về qua ngõ với nhịp điều chùng chình, là cảm nhận của tác giả với những xúc cảm xốn xang… Nhà thơ đã thổi hồn vào câu thơ khiến cho màn sương thu chứa đầy tâm trạng, như người đi còn vương vấn, ngập ngừng khi qua ngõ nhà ai…… Đã cảm nhận được thu sang qua “hương ổi”, “gió se”, “sương chùng chình”, mà thi nhân vẫn cảm thấy ngỡ ngàng, bâng khuâng:
Hình như thu đã về.
Thu đã về thật rồi sao, lại còn phải ngẩn ngơ? Phải chăng bấy lâu nay ta đã thờ ơ với nó để đến giờ ta cảm thấy lạc lõng khó có thể khẳng định được thu đã sang hay chưa. Cả đoạn thơ không chỉ đặc sắc ở tả cảnh mà còn là sự rung rinh cảm nhận trước một cái gì đó mơ hồ,như có, như không. Cảm nhận phút giao mùa sang thu là sự ngỡ ngàng. Do ngỡ ngàng nên cả khứu giác, cả xúc giác và thị giác đều như mách bảo thu về mà vẫn chưa thể tin, chưa dám chắc. “Hình như” là sự phỏng đoán nửa tin, nửa ngờ, là cái ngỡ ngàng, ngạc nhiên trong cái cảm xúc bâng khuâng, xao xuyến của thi sĩ. Mở đầu bằng một sự tình cờ “bỗng" và khép lại khổ thơ bằng cái "hình như”, Hữu Thỉnh gửi vào lòng ng­ười đọc sự thoáng chốc, bất giác về tiết lập thu cũng như­ cảm nhận, mơ hồ mong manh trong tâm thế về sự trở về của mùa thu. Qua đó, ta hiểu tâm hồn nhà thơ nhạy cảm, yêu thiên nhiên, yêu hương thu với tình yêu tha thiết.
Từ một phản xạ tự nhiên, nhà thơ đã định thần trở lại để ngắm nhìn thu sang. Thu sang với những hình ảnh quen thuộc tiếp tục được nhà thơ phát hiện:
Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã.
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu.
Nếu như ở khổ đầu không gian bị bó hẹp, thì đến đây không gian đã rộng mở hơn, từ tầm cao cũng như tầm xa. Sự vận động của thiên nhiên trong thời khắc chuyển mùa được cụ thể hoá bằng những đổi thay của vạn vật. Từ láy “dềnh dàng” “vội vã” đã phần nào thể hiện sinh động nhịp thở của đất trời khi sang thu. Sông lúc sang thu được nhân hóa trở nên có hồn không còn cuộn chảy dữ dội như những ngày hè mưa lũ, mà êm ả dềnh dàng như đang lắng lại, đang trầm xuống, lắng lại để rồi lững lỡ trôi. Một chữ “dềnh dàng” mà nói lên được cái dáng vẻ khoan thai, thong thả của con sông mùa thu, ngỡ như nó được nghỉ ngơi thoải mái khi mùa nước lũ cuồn cuộn đã đi qua. Ta như nhận thấy dòng sông cũng dùng dằng và ngập ngừng níu kéo nhịp thở của mùa hạ. Đối lập với hình ảnh đó là hình ảnh đàn chim bắt đầu “vội vã” bay về tổ lúc hoàng hôn. Hẳn là đàn chim đã bắt đầu cảm nhận được chút se lạnh của tiết trời. Từ “bắt đầu” trong ý thơ được dùng rất độc đáo “bắt đầu vội vã” chứ không phải là “đang vội vã”. Phải tinh tế lắm, yêu và gần gũi với thiên nhiên lắm mới nhận ra được sự bắt đầu trong những cánh chim bay. Nghệ thuật đăng đối vô cùng điêu luyện của tác giả đã giúp cho hình ảnh thơ trở nên giàu chất tạo hình, đẹp hơn và thơ mộng hơn.
Cánh chim trời vội vã bay đi, “có đám mây mùa hạ” còn vương lại. Và mây lưu luyến bắc chiếc cầu: Vắt nửa mình sang thu. Hành động được nhân hóa này mang ý diễn tả sự vận động của thời gian. Không gian thơ cũng như trở nên rộng mở hơn, bao la hơn với hình ảnh đầy chất tạo hình này. Hình ảnh đám mây mềm mại như một tấm lụa nhẹ nhàng vắt ngang bầu trời. Đây là một hình ảnh rất giàu tính tưởng tượng. Một liên tưởng thú vị, một hình ảnh đầy chất thơ. Người ta thường nói: khăn vắt vai, con đường mòn vắt ngang sườn núi... Hữu Thỉnh điểm vào bức tranh thu của mình một hình ảnh mới mẻ, gợi cảm: hai nửa của một đám mây thuộc về hai mùa. Cảnh vật như trở nên vừa hư vừa thực. Mây trời cũng giống như người chỉ qua nhột từ “vắt” như giao thoa giữa hai mùa cũng chỉ ngắn ngủi trong khoảnh khắc. Phải chăng, cái ranh giới giữa mùa hạ và mùa thu mong manh lắm chỉ trong gang tấc, cái trôi lững thững của mây hạ đã dạt nửa mình sang thu. Không phải vẻ đẹp của mùa hạ cũng chưa hẳn là vẻ đẹp của mùa thu mà đó là vẻ đẹp của thời khắc giao mùa được sáng tạo từ một hồn thơ tinh tế và nhạy cảm đang say thời khắc giao mùa này. Hữu Thỉnh hẳn phải là người có tâm hồn tinh tế cùng với tình yêu tha thiết với thiên nhiên và đất nước mới có thể sáng tạo nên những vần thơ đặc sắc này. Ngòi bút tài năng này đã khiến chúng ta không thể không cảm phục.
Từ những rung động mãnh liệt và xúc cảm xuyến xang khi đất trời vào thu, nhà thơ chuyển sang giọng điệu chiêm nghiệm và suy ngẫm sâu xa:
Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi.
Những biến chuyển của nắng, mưa, sấm trong lúc giao mùa với những nhận xét tinh tế của môt người am hiểu tường tận các hiện tượng thời tiết này. Là sấm, là mưa, nắng, là những hiện tượng điển hình của mùa hạ nhưng đã có sự thay đổi mức độ trong cái khoảnh khắc giao mùa. Cái nắng chói chang của những ngày hạ đã dần nhạt màu, những cơn mưa rào vội vã cũng đã vơi dần. Lại thêm một sự đối lập: nắng vẫn còn nhưng mưa đã vơi dần. Mùa thu nắng sẽ nhạt dần, nhưng lúc giao mùa, nắng cuối hạ vẫn còn nồng, còn sáng. Những ngày sang thu, đã ít đi những cơn mưa rào ào ạt và cũng bớt đi những tiếng sấm bất ngờ thường chỉ có trong mùa hạ. Các từ ngữ: “Vẫn còn” “vơi dần” “cũng bớt bất ngờ” đã diễn tả mức độ giảm dần của hiện tượng khi đất trời sang thu. Tất cả đã đi vào chừng mực, vào thế ổn định mang nét đặc trưng của mưa nắng phút giao mùa sang thu. Những câu thơ vừa tả cảnh, vừa kín đáo bộc lộ cảm xúc giao mùa của lòng người trong mối luyến giao thấm quyện với thiên nhiên. Nhịp thơ nhịp nhàng khiến cho ta tưởng các câu mang ý nghĩa tương đương nhau nhưng không phải. Rõ ràng sự tăng cấp được sử dụng thật khéo léo trong cả ba câu thơ. Cuối cùng, chúng trở thành đòn bẩy để tôn lên vẻ trầm mặc im lìm trên những hàng cây đứng tuổi.
Trên hàng cây đứng tuổi
Lấy động tả tĩnh chính là một biện pháp nghệ thuật được sử dụng thành công trong bài thơ. Việc này khiến cho người đọc hình dung được rằng sự thét gào dữ dội hay chính mùa hạ đang mát dần và thu đậm nét hơn trước mắt bao người. Từ thu của thiên nhiên, thu của đất trời mà ở đây ta cũng có thể hiểu là thu của đất nước Việt Nam. Có nơi nào mang sắc thu vàng mộng mơ, lãng mạn như­ Việt Nam. Hữu Thỉnh không nói thu cụ thể ở nơi nào nhưng ông đã ngầm đem đến cho ta cái ngọt ngào của thu Việt Nam, thu Bắc Hà, thu Hà Nội. Mùa thu quá đẹp chắc tại lòng người yêu quê hương lắm hay sao?
Ngẫm lại cho kỹ, hình như bài thơ còn có một ẩn ý khác. Thu thiên nhiên, thu đất nước và cũng là thu của lòng người. Đơn cử hai câu kết bài thơ:
          Sấm cũng bớt bất ngờ
         Trên hàng cây đứng tuổi.
Không đơn thuần tả cảnh, đôi câu thơ kết lại bao suy ngẫm sâu sắc. Sấm chớp hay chính là tác động của ngoại cảnh, những vạng động, biến cố bất thường trong cuộc đời. Hình ảnh ẩn dụ độc đáo“hàng cây đứng tuổi” vừa gợi lên hình ảnh những hàng cây sang thu (những cành cây xum xuê, lâu năm, rễ đã cắm sâu dưới lòng đất rất chắc chắn. Những mùa mưa giông qua đi đã tôi luyện sự dẻo dai bền bỉ của những hàng cây.) vừa gợi tả những con người từng trải đã từng vượt qua những khó khăn, những thăng trầm biến động của cuộc đời. Từ những thay đổi của mùa thu thiên nhiên, liên tưởng đến những đổi thay của mùa thu đời người, để rồi ta thấu hiểu ra rằng: “Hãy biết chấp nhận, bình tĩnh sống với niềm tin. Hãy mở rộng lòng mình để yêu thiên nhiên, đất nước, con người.” Bài thơ kết thúc, nhưng dư vị vẫn còn để người đọc tiếp tục nghĩ suy thêm về cái điều nhà thơ tâm sự. Chúng khâm phục sự cảm nhận tinh tế của tác giả cũng như những chiêm nghiệm và suy ngẫm sâu sắc.
Với giọng thơ êm ái, chậm rãi và nhẹ nhàng, bài thơ đã đưa người đọc vào thế giới tâm hồn nhạy cảm của thi sĩ. Đắm mình trong âm điệu, trong từng chữ, từng câu lắng lại với các hình ảnh thân thuộc, người đọc nhận ra những rung cảm tinh tế của nhà thơ về sự biến đổi nhẹ nhàng mà rõ rệt của đất trời, của tuổi đời những con người từng trải. Đó là biểu hiện của một tâm hồn yêu sống, một tâm hồn không già theo năm tháng, một niềm tin vào cuộc đời, một hồn thơ, một nguồn thi cảm không bao giờ vơi cạn trước thiên nhiên.
Từng trải tạo nên bản lĩnh. Có nhà văn nước ngoài đã đặt tên cuốn hồi kí đời mình: Tôi thú nhận là tôi đã sống. Cái tên nặng chắc những từng trải chất chứa của đời người. Sang thu hoá ra không chỉ tả cảnh mà còn là bài thơ chính luận thế sự, kín đáo thuyết phục chúng ta tìm sức mạnh chủ động ngay trong tình thế đã “sang thu” của năm tháng đời người. Thế là tử tâm trạng thiên nhiên để tả cảnh chuyển mùa, bài thơ đã hạ trại vào tâm trạng con người mà bàn luận cách ứng xử việc đời. Gấp lại những vần thơ thu của Hữu Thỉnh, người đọc như thấy vương vấn trong tâm hồn, đánh thức tình cảm của mỗi người về tình yêu quê hương đất nước và suy ngẫm về cuộc đời.


Nguồn : ST &

Thứ Bảy, 4 tháng 4, 2020

Phân tích bài thơ Viếng lăng bác của Viễn Phương.



Nhà thơ Viễn Phương (1928 – 2005) là một trong rất nhiều tác giả đã có những đóng góp rất quan trọng cho văn học nước nhà và đã để lại những dấu ấn sâu đậm trong lòng người đọc. Bài thơ “Viếng lăng Bác” là một tác phẩm đặc sắc của ông và có sức lan tỏa rộng rãi. Bài thơ được viết để thể hiện tình cảm biết ơn, cảm phục của đồng bào Việt Nam nói chung và nhân dân miền Nam nói riêng đối với vị lãnh tụ Hồ Chí Minh kính yêu. Trong bài thơ, tác giả đã bộc lộ những cảm xúc rất đỗi chân thực của mình trong chuyến hành trình viếng lăng Bác Hồ. Đó là sự thương nhớ khôn nguôi về Người cha già vĩ đại, cảm xúc khi thấy Bác trong lăng hay những tâm tư khi sắp phải từ biệt Người.
Bài thơ “Viếng lăng Bác” được nhà thơ sáng tác vào năm 1976. Tác phẩm đã ra đời trong một hoàn cảnh hết sức đặc biệt bởi vì đó là khoảng thời gian đất nước ta đã hân hoan trong niềm vui sum họp Bắc – Nam một nhà. Ấy thế nhưng, vị lãnh tụ vĩ đại đã đồng hành cùng với biết bao chặng đường gian truân, vất vả của cách mạng Việt Nam lại không thể tận mắt chứng kiến hình ảnh đất nước hòa bình, thống nhất. Chính vì vậy, khi có cơ hội được ra Bắc để viếng lăng Bác vào chính thời điểm công trình lăng Chủ tịch được hoàn thành sau sự thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mĩ, Viễn Phương cũng như biết bao người con của miền đất phương Nam không giấu được niềm xúc động. Với cảm xúc ấy, tác phẩm đã được nhà thơ cho ra đời để ghi lại chuyến hành trình vượt ngàn cây số xa xôi để ra viếng lăng Bác với những nỗi niềm đáng trân trọng.
Những cảm xúc chân thành đã được tác giả thể hiện khi lăng Bác hiện hữu trước mắt:
Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa đứng thẳng hàng.

Ngay từ dòng thơ đầu tiên, tác giả đã nghẹn ngào thốt lên:
Con ở Miền Nam ra thăm lăng Bác
Câu thơ giản dị như một lời thông báo nhưng lại ẩn chứa bao niềm xúc cảm sâu lắng của người con miền Nam, sau bao năm tháng đợi chờ mòn mỏi nay đã được thoả nguyện ra thăm lăng Bác. Bác Hồ từng nói: “miền Nam trong trái tim tôi”. Bác luôn dành một tình cảm hết sức đặc biệt cho miền Nam. Trong suốt cuộc đời làm cách mạng của Hồ Chí Minh, có lẽ một trong những mong muốn lớn nhất của Người là được đặt chân đến mảnh đất này nhưng mong muốn ấy đã không thể trở thành hiện thực vì khi miền Nam giành được thắng lợi thì Bác lại khuất xa mãi mãi. Miền Nam cũng dành cho Bác những tình cảm chân thành và kính trọng và vô cùng đau xót khi không có cơ hội được đón Bác đến thăm. Thế nên, trong dịp đến thăm Bác lần này sau cuộc hành trình dài ngàn cây số, những người đại diện cho đồng bào phương Nam đã không thể kìm nén được nỗi xúc động khôn nguôi khi gửi lời chào đến Bác. Tiếng “con” đầu câu thơ vang lên ấm áp, thân thương biết mấy! Bác gần gũi lắm, thân thiết lắm với những con dân đất Việt, như một vị cha già của dân tộc. “Con ở miền Nam” mấy tiếng ấy bao hàm cả nỗi đau và niềm tự hào sâu sắc. Miền Nam của nỗi đau chia cắt, miền Nam đi trước về sau, miền Nam gian khổ và anh hùng, miền Nam thành đồng Tổ quốc vừa chiến thắng kẻ thù hung bạo để về sum họp một nhà với cả nước thân yêu! Mong một lần được nhìn thấy Bác cho thoả nỗi nhớ mong, nhưng thật đau xót, Bác không còn. Vì vậy từ “thăm” tác giả sử dụng thay cho từ “viếng” không chỉ là cách nói giảm nói tránh để vơi bớt cảm giác đau thương, xót xa mà còn là sự khẳng định sức sống bất diệt của Bác Hồ – Người sống mãi trong lòng miền Nam, trái tim Việt Nam.
Những người con của miền Nam ruột thịt đến với Bác với những tình cảm chân thành, tha thiết và Trước mắt họ phía không xa là hàng tre xanh mát trước lăng:
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa đứng thẳng hàng.
Thán từ “Ôi” cất lên như dòng cảm xúc ngỡ ngàng trào dâng trong lòng nhà thơ. Những tính từ “bát ngát”, “xanh xanh” gợi sự trải dài ngút ngàn, mướt mát của hàng tre bên lăng Người. Tre xanh vốn là loài cây tượng trưng cho hồn cốt, khí phách và phẩm chất của con người đất Việt. Tre là biểu tượng cho những đức tính tốt đẹp của dân tộc mà và cũng là người bạn gắn bó thân thiết với người dân Việt Nam. Tre là biểu tượng cho sự bất khuất, kiên cường, cho tấm lòng thẳng ngay kiên trung. Nó đã đi sâu vào tâm thức dân tộc, toả bóng mát rượi bao trùm bao thế hệ người Việt Nam. Đó là bóng tre đằng ngà trong bàn tay Thánh Gióng đánh đuổi giặc Ân bảo vệ bờ cõi đất nước, là lũy tre làng thân quen bao bọc sự bình yên của thôn xóm, là cây tầm vông, là hầm chông giết giặc. Cây tre ấy mang những phẩm chất của con người, Tổ quốc ta: dẻo dai, đoàn kết, bất khuất, kiên cường. Và Bác chính là sự hội tụ tất cả những gì cao đẹp nhất của phẩm cách Việt Nam: là sự sống bát ngát luôn xanh màu, là tâm thế kiên cường “đứng thẳng hàng” chống chọi lại với “bão táp mưa sa”. Quả thật là một sự liên tưởng kì thú! Hàng tre – trong phép ẩn dụ – bỗng trở nên sinh động, gần gũi hơn, tựa như trái tim của biết bao người dân Việt Nam sẽ mãi mãi canh giấc ngủ cho Người trong lòng thành kính vô hạn. Chỉ qua ba dòng thơ mà Viễn Phương đã đem đến cho ta biết bao cảm xúc xao xuyến, bâng khuâng, như đang cùng trái tim, cùng nhịp đập để đứng trước thềm lăng trong tình cảm sâu sắc, lắng đọng.
Và rồi nỗi niềm thành kính, biết ơn, tự hào càng chân thành, da diết khi nhà thơ nhìn mọi cảnh vật trước lăng trong trái tim nhiệt thành hướng về Bác:
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ.
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân…

Câu thơ đã mở ra hai hình ảnh trọng thể sóng đôi đầy sáng tạo, khéo léo. Nhà thơ đã lấy hình ảnh mặt trời để nói về Bác:
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ.
Câu thơ tạo hiệu ứng thẩm mĩ đặc biệt trước hết bởi sự kết hợp tài tình giữa hình ảnh thực và hình ảnh ẩn dụ sóng đôi với nhau. Từ hình ảnh thực mặt trời của thiên nhiên, vũ trụ soi sáng và mang lại sự sống cho muôn loài “ngày ngày đi qua trên lăng”, Viễn Phương liên tưởng tới một mặt trời ẩn dụ trong lăng. Bác Hồ là mặt trời. Bác đã mang ánh sáng cách mạng đến cho dân tộc. Bác đã dẫn lối, chỉ đường cho đất nước đi qua bao thăng trầm của lịch sử. Ánh sáng của Người xua tan đêm đen bao phủ dân tộc hàng nghìn năm. Tình yêu bao la từ trái tim ấm áp của Người có sức nóng, lan toả như tia nắng mặt trời.
Nhưng dường như chỉ ví Bác với mặt trời thôi thì chưa đủ, mà cần phải nhấn mạnh đặc tính nổi bật nhất của cái quầng sáng thiêng liêng ấy: “rất đỏ”. Mặt trời “Ngày ngày đi qua trên lăng” của vũ trụ bao la đâu phải lúc nào cũng giữ được sắc đỏ và nguồn nóng mà sẽ có lúc bị đêm đen bao phủ. Nhưng mặt trời Bác Hồ thì vĩnh cửu, trường tồn, mãi là nguồn sống, là ánh sáng soi đường cho dân tộc Việt Nam, mãi mãi đỏ thắm trong trái tim, tâm hồn mỗi người con đất Việt. Người trở thành bất tử trong trái tim mỗi con người Việt Nam. Qua biện pháp tu từ đầy tinh tế và điệp từ “ngày ngày” đứng đầu câu Viễn Phương đã bày tỏ lòng thành kính xen lẫn tự hào của mình với vị Lãnh tụ vĩ đại của dân tộc. Ý thơ vừa ngậm ngùi lại vừa chan chứa xúc cảm tự hào biết ơn, tôn kính và ngợi ca. Thật đúng là:
Ta bên Người, Người toả sáng bên ta
Ta bỗng lớn ở bên Người một chút.  (Tố Hữu – Sáng tháng năm)
Với tình cảm to lớn mà Bác dành cho dân tộc, “ngày ngày” mọi người muôn nẻo đã về đây tỏ lòng biết ơn với Người:  
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân…
Viễn Phương đã có những suy nghĩ mới mẻ khi ngắm nhìn dòng người vào lăng viếng Bác. Điệp ngữ “ngày ngày” khẳng định thời gian vĩnh cửu, chảy trôi. Nhịp thơ đều đều, chầm chậm, như bước chân đoàn người vào lăng viếng Bác. Dòng người ấy không chỉ đến với lăng bằng thương nhớ thiêng liêng, cao cả, bằng tất cả tấm lòng thành kính của mình. Viễn Phương với con mắt quan sát tinh tế của mình, đã ví từng đoàn người nối theo nhau vào lăng viếng Bác tựa như một tràng hoa thơm dâng lên Người. đây là hình ảnh ẩn dụ đầy sáng tạo của Viễn Phương: cuộc đời của con người đã nở hoa dưới ánh sáng mặt trời của Bác. “Tràng hoa” hay cũng chính là những thành quả của cách mạng được ta dâng lên Bác. Đó là tràng hoa đẹp nhất, với hương thơm ngát kính dâng lên Người dâng lên “bảy mươi chín mùa xuân”. Hình ảnh hoán dụ “bảy mươi chín mùa xuân” mang ý nghĩa tượng trưng được tác giả sử dụng thật độc đáo. Con người vĩ đại ấy đã sống trọn vẹn một cuộc đời đẹp như những mùa xuân thắm tươi và làm nên những mùa xuân bát ngát cho đất nước, cho con người Việt Nam. Bác đã sống một cuộc đời thật đẹp, mỗi năm Người sống là mỗi mùa xuân dâng lên đất nước và dân tộc. Cuộc đời của Bác đẹp như mùa xuân, một cuộc đời đã hi sinh tất cả để đem đến mùa xuân tươi đẹp cho đất nước, cho cách mạng? Và trong trái tim dân tộc Việt Nam, Bác mãi là một mùa xuân đẹp nhất, vĩnh hằng nhất. Điệp từ “ngày ngày” xuất hiện hai lần cho thấy niềm biết ơn vô bờ đối với một tấm lòng vĩ đại như Hồ Chí Minh. Đoạn thơ là tấm lòng thành kính của tác giả đã hóa thành những dòng chữ, dòng thơ lưu giữ lại cho muôn đời, để củng cố, gợi nhắc họ về những công lao to lớn của Bác và khiến ta nảy sinh những tình cảm, cảm xúc thật đẹp!
Và cái giờ phút thiêng liêng mà người con miền Nam sau bao trăn trở, khát khao nay đã đến. Trong nỗi niềm xúc động dâng trào được nhìn thấy Bác, nhà thơ thấy hình ảnh Bác thật thiêng liêng, gần gũi:
Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim!
    Giờ đây, đến với Bác, nhà thơ đã cảm nhận được giấc ngủ bình yên, nhẹ nhàng của Người. Nỗ lực của “bảy mươi chín mùa xuân” trong cuộc đời Người đã được đáp đền xứng đáng khi giờ đây núi sông đã liền một dải, Nam Bắc thống nhất, đất nước chan hoà trong tự do, hạnh phúc. Sự bình yên của Bác là sự bình yên của một lãnh tụ suốt đời lo lắng cho dân tộc, đã có thể an lòng trước sự vững vàng của đất nước. Vị Cha già dân tộc nằm đó mà sao tường như đâu đây, cầi tình cảm trìu mến, dịu dàng, thân thuộc vẫn còn khiến trái tim người con miền Nam phải rung động. Từ sự am hiểu về Bác, nhà thơ đã liên tưởng rất thú vị ánh đèn mờ ảo trong lăng chính là ánh sáng dịu hiền của vầng trăng. Bác đã từng rất yêu trăng, coi trăng là một người bạn tri kỉ. Dù ở bất cứ nơi đâu, trong nhà lao, trên chiến trận, tâm hồn thi sĩ của Bác vẫn mãi hướng về trăng. Nhưng chưa bao giờ Người được thảnh thơi ngắm trăng. Chỉ giờ đây, khi đã “nằm trong giấc ngủ bình yên”, Người mới đến với trăng trọn vẹn tấm tình. Trăng dịu hiền soi sáng hình ảnh Bác. Sự liên tưởng không chỉ dừng lại ở đó, tác giả đã miêu tả đó là “vầng trăng dịu hiền” trong lành chính là Bác. Trăng cũng nằm trong hệ thống hình ảnh vũ trụ được Viễn Phương sử dụng để ví với Bác. Người vừa như mặt trời rực rỡ ấm áp, vĩ đại vừa như vầng trăng dịu hiền, trong sáng, thanh cao. Hình ảnh của Bác có thể sánh với tất cả, những gì vĩnh hằng của thiên nhiên, của vũ trụ. Đến bên Bác, ta có cảm giác như được cái luồng ánh sáng ấy bao bọc, để rồi dần cảm nhận ra tình yêu thương mà Bác đã dành cho dân tộc, rất đỗi nhẹ nhàng, trìu mến mà bao la, tha thiết. Và vầng trăng ấy còn là tình cảm thiết tha sâu nặng của con dân Việt Nam dệt nên để nhẹ nhàng canh giấc ngủ ngàn thu cho Người. Ta nhận ra trong sự so sánh ấy niềm kính yêu vô hạn của nhà thơ đối với Bác.
    Nhưng tình yêu càng lớn thì niềm đau cũng càng trào dâng mãnh liệt khi phải đối diện với sự thật đau đớn: Bác đã không còn.
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim!
Nhìn thấy Bác bình yên trong giấc ngủ, tác giả lại không giấu được cảm giác nghẹn ngào. Cái nghẹn ngào có khi trở nên quặn thắt để nhà thơ có thể nghe được cái “nhói ở trong tim”. Câu thơ có sự đối lập giữa lí trí và trái tim, giữa cái vĩnh cửu và cái hữu hạn. Trời xanh kia sẽ mãi trường tồn, và Bác sẽ sống mãi trong trái tim, tâm hồn người dân Việt Nam như màu xanh mãi ngự trị trên bầu trời Tổ quốc. Bác về với tiên tổ, hoá thân thành một phần của thiên nhiên đất nước, vĩnh cửu bất diệt cùng núi sông, biển trời quê hương. Nhà thơ Tố Hữu đã từng khẳng định:Bác sống như trời đất của ta.  Lý trí đã xác định như thế nhưng trái tim thì nhức nhối, nhói đau. Không phải “đau nhói” mà là “nghe nhói”, ta tưởng như nỗi đau chùng xuống, cả không gian trở nên một màu buồn thương, xót xa vô tận. Một từ “nhói” đặt chính giữa câu thơ, như một vết khứa đậm sâu trong trái tim nhà thơ, thể hiện niềm đau quặn thắt – nỗi đau vượt lên trên mọi lí lẽ hằng thường của lí trí. Nơi đây chỉ còn sự ngự trị của trái tim – trái tim thổn thức rung lên những cung bậc yêu kính, tiếc thương chân thành. Tác giả như trách rằng bầu trời trên cao vẫn xanh màu xanh trường tồn thế nhưng người Cha kính yêu lại phải ra đi và lời trách cứ ấy cũng chính là biểu hiện của tình yêu sâu sắc dành cho Người. Câu thơ ngân dài khiến người đọc chúng ta cũng cảm thấy như hoà cùng tâm trạng của tác giả để đau đớn trước sự thật Bác đã đi xa.
   Đến bên Bác để khóc, người con miền Nam đã vô cùng xúc động, xót xa, thương tiếc cứ trào dâng rơi vỡ và trong những lời nguyện ước của nhà thơ trước lúc ra về:
Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.
Trong khoảnh khắc từ biệt Người, niềm xúc động của nhà thơ như bật lên thành tiếng khóc nấc nghẹn:
Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Câu thơ tràn ngập tình yêu, niềm xúc cảm ngân vang và dòng nước mắt nhớ thương. Chỉ một chữ “trào” thôi cũng đủ diễn tả niềm luyến tiếc, bịn rịn mãnh liệt trào dâng trái tim nhà thơ. Nỗi niềm dồn nén bấy lâu nay, nỗi nhớ nhung khắc khoải được ra viếng Bác giờ đã được in đậm trong những tiếng nấc nghẹn ngào. Bao tình thương, nỗi nhớ giờ lại càng sâu nặng hơn bởi nhà thơ sắp phải xa Bác để trở lại miền Nam yêu dấu.
Khi bật lên tiếng khóc nấc nghẹn, trong lòng nhà thơ chợt hiện lên những ước nguyện muốn bên cạnh Người:
“Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.”
Điệp từ “muốn làm” vang lên ba lần như muốn khẳng định ước muốn, sự chân thành của tác giả, cũng là của hàng triệu con người Việt Nam. Những ước nguyện hoá thân rất đỗi bình dị, khiêm nhường. Nhà thơ chỉ muốn trở thành chú chim bé nhỏ để ngày ngày cất cao tiếng hót trong lành, ngân nga làm rộn ràng không gian lăng Bác, thể hiện tấm lòng chân thành, biết ơn của mình đối với Bác, chỉ muốn là một đoá hoa toả hương thơm ngát ngát hương thơm thanh cao nơi Bác yên nghỉ, để được ở mãi mãi bên Người, muốn làm cây tre xanh Việt Nam toả bóng mát dịu dàng, trung hiếu giữ mãi giấc ngủ bình yên cho Người.Và một lần nữa, hình ảnh hàng tre trung hiếu lại được nhắc đến trong lời ước nguyện cuối cùng như chính là tấm lòng thành kính, thuỷ chung mà tác giả dành cho Bác, mãi sắt son, mặn nồng. Hình ảnh cây tre khép lại bài thơ thật ý nhị biết bao. Nó láy lại hình ảnh ở đầu bài thơ, tạo nên một khúc ngân… Nó chính là sự lặp lại tuần hoàn và khiến cho bài thơ trở nên chặt chẽ. Hình như thông qua sự khéo léo trong việc xây dựng kết cấu ấy, tác giả muốn khẳng định lại một lần nữa ý nghĩa biểu tượng của loài tre. Khi thể hiện niềm mong muốn hóa thân vào loài cây đó để mãi mãi xanh bên Bác, tác giả cũng cho thấy một niềm tin, sự trung thành của nhân dân Việt Nam vào lí tưởng mà Bác Hồ đã theo đuổi và xây dựng cho cho dân tộc.
Viếng lăng Bác là một trong những bài thơ hay nhất về Bác. Làm nên sức sống của thi phẩm là hệ thống hình ảnh ẩn dụ giàu ý nghĩa và đặc biệt là dòng cảm xúc mãnh liệt trào dâng khắp các dòng thơ. Viễn đã cho thấy sự khéo léo của mình trong việc sử dụng thể thơ, từ ngữ, nhịp điệu. Thể thơ tám chữ và sự cân đối hài hòa của bốn khổ thơ trong bài cùng với một giọng thơ từ tốn, chậm rãi, nghiêm trang đã giúp cho nhà thơ thể hiện trọn vẹn cảm xúc của mình. Bài thơ là tiếng lòng không chỉ của Viễn Phương, của người dân miền Nam mà của tất cả những người yêu kính Chủ tịch Hồ Chí Minh. Chính điều đó đã gợi lên trong lòng người một niềm xúc động lớn lao. Nó sẽ còn ngân vang mãi trong trái tim mỗi chúng ta, như sự vĩnh cửu, trường tồn của Bác Hồ muôn vàn kính yêu.
Đến với Viếng lăng Bác của Viễn Phương, ta đã cảm nhận được nỗi nhớ thương vô cùng sâu sắc, thiết tha của người con miền Nam lần đầu vào lăng viếng Bác, đã cảm nhận rất rõ niềm thành kính, biết ơn, tự hào, niềm thương tiếc vô hạn của trái tim nhà thơ hay là trái tim của cả dân tộc ta dành cho Bác bởi:
 Người là Cha, là Bác, là Anh
Quả tim lớn lọc trăm dòng máu nhỏ. (Tố Hữu – Sáng tháng năm)
     Chính là điều góp phần làm nên giá trị của bài thơ và khiến cho nó trở thành dấu ấn sâu đậm trong lòng độc giả khi tìm đọc những sáng tác về vị lãnh tụ kính yêu.