Nhà thơ Viễn
Phương (1928 – 2005) là một trong rất nhiều tác giả đã có những đóng góp rất
quan trọng cho văn học nước nhà và đã để lại những dấu ấn sâu đậm trong lòng
người đọc. Bài thơ “Viếng lăng Bác” là một tác phẩm đặc sắc của ông và có sức
lan tỏa rộng rãi. Bài thơ được viết để thể hiện tình cảm biết ơn, cảm phục của
đồng bào Việt Nam nói chung và nhân dân miền Nam nói riêng đối với vị lãnh tụ Hồ
Chí Minh kính yêu. Trong bài thơ, tác giả đã bộc lộ những cảm xúc rất đỗi chân
thực của mình trong chuyến hành trình viếng lăng Bác Hồ. Đó là sự thương nhớ
khôn nguôi về Người cha già vĩ đại, cảm xúc khi thấy Bác trong lăng hay những
tâm tư khi sắp phải từ biệt Người.
Bài thơ “Viếng
lăng Bác” được nhà thơ sáng tác vào năm 1976. Tác phẩm đã ra đời trong một hoàn
cảnh hết sức đặc biệt bởi vì đó là khoảng thời gian đất nước ta đã hân hoan
trong niềm vui sum họp Bắc – Nam một nhà. Ấy thế nhưng, vị lãnh tụ vĩ đại đã đồng
hành cùng với biết bao chặng đường gian truân, vất vả của cách mạng Việt Nam lại
không thể tận mắt chứng kiến hình ảnh đất nước hòa bình, thống nhất. Chính vì vậy,
khi có cơ hội được ra Bắc để viếng lăng Bác vào chính thời điểm công trình lăng
Chủ tịch được hoàn thành sau sự thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mĩ, Viễn
Phương cũng như biết bao người con của miền đất phương Nam không giấu được niềm
xúc động. Với cảm xúc ấy, tác phẩm đã được nhà thơ cho ra đời để ghi lại chuyến
hành trình vượt ngàn cây số xa xôi để ra viếng lăng Bác với những nỗi niềm đáng
trân trọng.
Những cảm xúc
chân thành đã được tác giả thể hiện khi lăng Bác hiện hữu trước mắt:
Con ở miền Nam ra
thăm lăng Bác
Đã
thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa đứng thẳng hàng.
Ngay từ dòng thơ
đầu tiên, tác giả đã nghẹn ngào thốt lên:
Con ở Miền Nam ra
thăm lăng Bác
Câu thơ giản dị
như một lời thông báo nhưng lại ẩn chứa bao niềm xúc cảm sâu lắng của người con
miền Nam, sau bao năm tháng đợi chờ mòn mỏi nay đã được thoả nguyện ra thăm
lăng Bác. Bác Hồ từng nói: “miền Nam trong trái tim tôi”. Bác luôn dành
một tình cảm hết sức đặc biệt cho miền Nam. Trong suốt cuộc đời làm cách mạng của
Hồ Chí Minh, có lẽ một trong những mong muốn lớn nhất của Người là được đặt
chân đến mảnh đất này nhưng mong muốn ấy đã không thể trở thành hiện thực vì
khi miền Nam giành được thắng lợi thì Bác lại khuất xa mãi mãi. Miền Nam cũng
dành cho Bác những tình cảm chân thành và kính trọng và vô cùng đau xót khi
không có cơ hội được đón Bác đến thăm. Thế nên, trong dịp đến thăm Bác lần này
sau cuộc hành trình dài ngàn cây số, những người đại diện cho đồng bào phương
Nam đã không thể kìm nén được nỗi xúc động khôn nguôi khi gửi lời chào đến Bác.
Tiếng “con” đầu câu thơ vang lên ấm áp, thân thương biết mấy! Bác gần gũi lắm,
thân thiết lắm với những con dân đất Việt, như một vị cha già của dân tộc. “Con
ở miền Nam” mấy tiếng ấy bao hàm cả nỗi đau và niềm tự hào sâu sắc. Miền
Nam của nỗi đau chia cắt, miền Nam đi trước về sau, miền Nam gian khổ và anh
hùng, miền Nam thành đồng Tổ quốc vừa chiến thắng kẻ thù hung bạo để về sum họp
một nhà với cả nước thân yêu! Mong một lần được nhìn thấy Bác cho thoả nỗi nhớ
mong, nhưng thật đau xót, Bác không còn. Vì vậy từ “thăm” tác giả sử dụng thay
cho từ “viếng” không chỉ là cách nói giảm nói tránh để vơi bớt cảm giác đau
thương, xót xa mà còn là sự khẳng định sức sống bất diệt của Bác Hồ – Người sống
mãi trong lòng miền Nam, trái tim Việt Nam.
Những người con của
miền Nam ruột thịt đến với Bác với những tình cảm chân thành, tha thiết và Trước
mắt họ phía không xa là hàng tre xanh mát trước lăng:
Đã thấy trong
sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh
xanh Việt Nam
Bão táp mưa đứng
thẳng hàng.
Thán từ “Ôi”
cất lên như dòng cảm xúc ngỡ ngàng trào dâng trong lòng nhà thơ. Những tính từ “bát
ngát”, “xanh xanh” gợi sự trải dài ngút ngàn, mướt mát của hàng tre bên
lăng Người. Tre xanh vốn là loài cây tượng trưng cho hồn cốt, khí phách và phẩm
chất của con người đất Việt. Tre là biểu tượng cho những đức tính tốt đẹp của
dân tộc mà và cũng là người bạn gắn bó thân thiết với người dân Việt Nam. Tre là
biểu tượng cho sự bất khuất, kiên cường, cho tấm lòng thẳng ngay kiên trung. Nó
đã đi sâu vào tâm thức dân tộc, toả bóng mát rượi bao trùm bao thế hệ người Việt
Nam. Đó là bóng tre đằng ngà trong bàn tay Thánh Gióng đánh đuổi giặc Ân bảo vệ
bờ cõi đất nước, là lũy tre làng thân quen bao bọc sự bình yên của thôn xóm, là
cây tầm vông, là hầm chông giết giặc. Cây tre ấy mang những phẩm chất của con
người, Tổ quốc ta: dẻo dai, đoàn kết, bất khuất, kiên cường. Và Bác chính là sự
hội tụ tất cả những gì cao đẹp nhất của phẩm cách Việt Nam: là sự sống bát ngát
luôn xanh màu, là tâm thế kiên cường “đứng thẳng hàng” chống chọi lại với
“bão táp mưa sa”. Quả thật là một sự liên tưởng kì thú! Hàng tre – trong
phép ẩn dụ – bỗng trở nên sinh động, gần gũi hơn, tựa như trái tim của biết bao
người dân Việt Nam sẽ mãi mãi canh giấc ngủ cho Người trong lòng thành kính vô
hạn. Chỉ qua ba dòng thơ mà Viễn Phương đã đem đến cho ta biết bao cảm xúc xao
xuyến, bâng khuâng, như đang cùng trái tim, cùng nhịp đập để đứng trước thềm
lăng trong tình cảm sâu sắc, lắng đọng.
Và rồi nỗi niềm
thành kính, biết ơn, tự hào càng chân thành, da diết khi nhà thơ nhìn mọi cảnh
vật trước lăng trong trái tim nhiệt thành hướng về Bác:
Ngày ngày mặt trời
đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời
trong lăng rất đỏ.
Ngày
ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân…
Câu thơ đã mở ra
hai hình ảnh trọng thể sóng đôi đầy sáng tạo, khéo léo. Nhà thơ đã lấy hình ảnh
mặt trời để nói về Bác:
Ngày ngày mặt trời
đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời
trong lăng rất đỏ.
Câu thơ tạo hiệu ứng
thẩm mĩ đặc biệt trước hết bởi sự kết hợp tài tình giữa hình ảnh thực và hình ảnh
ẩn dụ sóng đôi với nhau. Từ hình ảnh thực mặt trời của thiên nhiên, vũ trụ soi
sáng và mang lại sự sống cho muôn loài “ngày ngày đi qua trên lăng”, Viễn
Phương liên tưởng tới một mặt trời ẩn dụ trong lăng. Bác Hồ là mặt trời. Bác đã
mang ánh sáng cách mạng đến cho dân tộc. Bác đã dẫn lối, chỉ đường cho đất nước
đi qua bao thăng trầm của lịch sử. Ánh sáng của Người xua tan đêm đen bao phủ
dân tộc hàng nghìn năm. Tình yêu bao la từ trái tim ấm áp của Người có sức
nóng, lan toả như tia nắng mặt trời.
Nhưng dường như
chỉ ví Bác với mặt trời thôi thì chưa đủ, mà cần phải nhấn mạnh đặc tính nổi bật
nhất của cái quầng sáng thiêng liêng ấy: “rất đỏ”. Mặt trời “Ngày ngày
đi qua trên lăng” của vũ trụ bao la đâu phải lúc nào cũng giữ được sắc đỏ và
nguồn nóng mà sẽ có lúc bị đêm đen bao phủ. Nhưng mặt trời Bác Hồ thì vĩnh cửu,
trường tồn, mãi là nguồn sống, là ánh sáng soi đường cho dân tộc Việt Nam, mãi
mãi đỏ thắm trong trái tim, tâm hồn mỗi người con đất Việt. Người trở thành bất
tử trong trái tim mỗi con người Việt Nam. Qua biện pháp tu từ đầy tinh tế và điệp
từ “ngày ngày” đứng đầu câu Viễn Phương đã bày tỏ lòng thành kính xen lẫn tự
hào của mình với vị Lãnh tụ vĩ đại của dân tộc. Ý thơ vừa ngậm ngùi lại vừa
chan chứa xúc cảm tự hào biết ơn, tôn kính và ngợi ca. Thật đúng là:
Ta bên Người, Người
toả sáng bên ta
Ta bỗng lớn ở bên
Người một chút. (Tố Hữu – Sáng tháng năm)
Với tình cảm to lớn
mà Bác dành cho dân tộc, “ngày ngày” mọi người muôn nẻo đã về đây tỏ lòng biết
ơn với Người:
Ngày ngày dòng
người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa
dâng bảy mươi chín mùa xuân…
Viễn Phương đã có
những suy nghĩ mới mẻ khi ngắm nhìn dòng người vào lăng viếng Bác. Điệp ngữ
“ngày ngày” khẳng định thời gian vĩnh cửu, chảy trôi. Nhịp thơ đều đều, chầm chậm,
như bước chân đoàn người vào lăng viếng Bác. Dòng người ấy không chỉ đến với
lăng bằng thương nhớ thiêng liêng, cao cả, bằng tất cả tấm lòng thành kính của
mình. Viễn Phương với con mắt quan sát tinh tế của mình, đã ví từng đoàn người
nối theo nhau vào lăng viếng Bác tựa như một tràng hoa thơm dâng lên Người. đây
là hình ảnh ẩn dụ đầy sáng tạo của Viễn Phương: cuộc đời của con người đã nở
hoa dưới ánh sáng mặt trời của Bác. “Tràng hoa” hay cũng chính là những
thành quả của cách mạng được ta dâng lên Bác. Đó là tràng hoa đẹp nhất, với
hương thơm ngát kính dâng lên Người dâng lên “bảy mươi chín mùa xuân”. Hình ảnh
hoán dụ “bảy mươi chín mùa xuân” mang ý nghĩa tượng trưng được tác giả sử
dụng thật độc đáo. Con người vĩ đại ấy đã sống trọn vẹn một cuộc đời đẹp như những
mùa xuân thắm tươi và làm nên những mùa xuân bát ngát cho đất nước, cho con người
Việt Nam. Bác đã sống một cuộc đời thật đẹp, mỗi năm Người sống là mỗi mùa xuân
dâng lên đất nước và dân tộc. Cuộc đời của Bác đẹp như mùa xuân, một cuộc đời
đã hi sinh tất cả để đem đến mùa xuân tươi đẹp cho đất nước, cho cách mạng? Và
trong trái tim dân tộc Việt Nam, Bác mãi là một mùa xuân đẹp nhất, vĩnh hằng nhất.
Điệp từ “ngày ngày” xuất hiện hai lần cho thấy niềm biết ơn vô bờ đối với một tấm
lòng vĩ đại như Hồ Chí Minh. Đoạn thơ là tấm lòng thành kính của tác giả đã hóa
thành những dòng chữ, dòng thơ lưu giữ lại cho muôn đời, để củng cố, gợi nhắc họ
về những công lao to lớn của Bác và khiến ta nảy sinh những tình cảm, cảm xúc
thật đẹp!
Và cái giờ phút
thiêng liêng mà người con miền Nam sau bao trăn trở, khát khao nay đã đến.
Trong nỗi niềm xúc động dâng trào được nhìn thấy Bác, nhà thơ thấy hình ảnh Bác
thật thiêng liêng, gần gũi:
Bác nằm trong giấc
ngủ bình yên
Giữa một vầng
trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời
xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở
trong tim!
Giờ đây, đến với Bác, nhà thơ đã cảm nhận
được giấc ngủ bình yên, nhẹ nhàng của Người. Nỗ lực của “bảy mươi chín mùa
xuân” trong cuộc đời Người đã được đáp đền xứng đáng khi giờ đây núi sông
đã liền một dải, Nam Bắc thống nhất, đất nước chan hoà trong tự do, hạnh phúc.
Sự bình yên của Bác là sự bình yên của một lãnh tụ suốt đời lo lắng cho dân tộc,
đã có thể an lòng trước sự vững vàng của đất nước. Vị Cha già dân tộc nằm đó mà
sao tường như đâu đây, cầi tình cảm trìu mến, dịu dàng, thân thuộc vẫn còn khiến
trái tim người con miền Nam phải rung động. Từ sự am hiểu về Bác, nhà thơ đã
liên tưởng rất thú vị ánh đèn mờ ảo trong lăng chính là ánh sáng dịu hiền của vầng
trăng. Bác đã từng rất yêu trăng, coi trăng là một người bạn tri kỉ. Dù ở bất cứ
nơi đâu, trong nhà lao, trên chiến trận, tâm hồn thi sĩ của Bác vẫn mãi hướng về
trăng. Nhưng chưa bao giờ Người được thảnh thơi ngắm trăng. Chỉ giờ đây, khi đã
“nằm trong giấc ngủ bình yên”, Người mới đến với trăng trọn vẹn tấm
tình. Trăng dịu hiền soi sáng hình ảnh Bác. Sự liên tưởng không chỉ dừng lại ở
đó, tác giả đã miêu tả đó là “vầng trăng dịu hiền” trong lành chính là
Bác. Trăng cũng nằm trong hệ thống hình ảnh vũ trụ được Viễn Phương sử dụng để
ví với Bác. Người vừa như mặt trời rực rỡ ấm áp, vĩ đại vừa như vầng trăng dịu
hiền, trong sáng, thanh cao. Hình ảnh của Bác có thể sánh với tất cả, những gì
vĩnh hằng của thiên nhiên, của vũ trụ. Đến bên Bác, ta có cảm giác như được cái
luồng ánh sáng ấy bao bọc, để rồi dần cảm nhận ra tình yêu thương mà Bác đã
dành cho dân tộc, rất đỗi nhẹ nhàng, trìu mến mà bao la, tha thiết. Và vầng
trăng ấy còn là tình cảm thiết tha sâu nặng của con dân Việt Nam dệt nên để nhẹ
nhàng canh giấc ngủ ngàn thu cho Người. Ta nhận ra trong sự so sánh ấy niềm
kính yêu vô hạn của nhà thơ đối với Bác.
Nhưng tình yêu càng lớn thì niềm đau cũng
càng trào dâng mãnh liệt khi phải đối diện với sự thật đau đớn: Bác đã không
còn.
Vẫn biết trời
xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở
trong tim!
Nhìn thấy Bác
bình yên trong giấc ngủ, tác giả lại không giấu được cảm giác nghẹn ngào. Cái
nghẹn ngào có khi trở nên quặn thắt để nhà thơ có thể nghe được cái “nhói ở
trong tim”. Câu thơ có sự đối lập giữa lí trí và trái tim, giữa cái vĩnh cửu
và cái hữu hạn. Trời xanh kia sẽ mãi trường tồn, và Bác sẽ sống mãi trong trái
tim, tâm hồn người dân Việt Nam như màu xanh mãi ngự trị trên bầu trời Tổ quốc.
Bác về với tiên tổ, hoá thân thành một phần của thiên nhiên đất nước, vĩnh cửu
bất diệt cùng núi sông, biển trời quê hương. Nhà thơ Tố Hữu đã từng khẳng định:Bác
sống như trời đất của ta. Lý trí đã
xác định như thế nhưng trái tim thì nhức nhối, nhói đau. Không phải “đau nhói”
mà là “nghe nhói”, ta tưởng như nỗi đau chùng xuống, cả không gian trở nên một
màu buồn thương, xót xa vô tận. Một từ “nhói” đặt chính giữa câu thơ, như một vết
khứa đậm sâu trong trái tim nhà thơ, thể hiện niềm đau quặn thắt – nỗi đau vượt
lên trên mọi lí lẽ hằng thường của lí trí. Nơi đây chỉ còn sự ngự trị của trái
tim – trái tim thổn thức rung lên những cung bậc yêu kính, tiếc thương chân
thành. Tác giả như trách rằng bầu trời trên cao vẫn xanh màu xanh trường tồn thế
nhưng người Cha kính yêu lại phải ra đi và lời trách cứ ấy cũng chính là biểu
hiện của tình yêu sâu sắc dành cho Người. Câu thơ ngân dài khiến người đọc
chúng ta cũng cảm thấy như hoà cùng tâm trạng của tác giả để đau đớn trước sự
thật Bác đã đi xa.
Đến bên Bác để khóc, người con miền Nam đã
vô cùng xúc động, xót xa, thương tiếc cứ trào dâng rơi vỡ và trong những lời
nguyện ước của nhà thơ trước lúc ra về:
Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.
Trong khoảnh khắc
từ biệt Người, niềm xúc động của nhà thơ như bật lên thành tiếng khóc nấc nghẹn:
Mai về miền Nam
thương trào nước mắt
Câu thơ tràn ngập
tình yêu, niềm xúc cảm ngân vang và dòng nước mắt nhớ thương. Chỉ một chữ
“trào” thôi cũng đủ diễn tả niềm luyến tiếc, bịn rịn mãnh liệt trào dâng trái
tim nhà thơ. Nỗi niềm dồn nén bấy lâu nay, nỗi nhớ nhung khắc khoải được ra viếng
Bác giờ đã được in đậm trong những tiếng nấc nghẹn ngào. Bao tình thương, nỗi
nhớ giờ lại càng sâu nặng hơn bởi nhà thơ sắp phải xa Bác để trở lại miền Nam
yêu dấu.
Khi bật lên tiếng
khóc nấc nghẹn, trong lòng nhà thơ chợt hiện lên những ước nguyện muốn bên cạnh
Người:
“Muốn làm con
chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa
tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre
trung hiếu chốn này.”
Điệp từ “muốn
làm” vang lên ba lần như muốn khẳng định ước muốn, sự chân thành của tác giả,
cũng là của hàng triệu con người Việt Nam. Những ước nguyện hoá thân rất đỗi
bình dị, khiêm nhường. Nhà thơ chỉ muốn trở thành chú chim bé nhỏ để ngày ngày cất
cao tiếng hót trong lành, ngân nga làm rộn ràng không gian lăng Bác, thể hiện tấm
lòng chân thành, biết ơn của mình đối với Bác, chỉ muốn là một đoá hoa toả
hương thơm ngát ngát hương thơm thanh cao nơi Bác yên nghỉ, để được ở mãi mãi
bên Người, muốn làm cây tre xanh Việt Nam toả bóng mát dịu dàng, trung hiếu giữ
mãi giấc ngủ bình yên cho Người.Và một lần nữa, hình ảnh hàng tre trung hiếu lại
được nhắc đến trong lời ước nguyện cuối cùng như chính là tấm lòng thành kính,
thuỷ chung mà tác giả dành cho Bác, mãi sắt son, mặn nồng. Hình ảnh cây tre
khép lại bài thơ thật ý nhị biết bao. Nó láy lại hình ảnh ở đầu bài thơ, tạo
nên một khúc ngân… Nó chính là sự lặp lại tuần hoàn và khiến cho bài thơ trở
nên chặt chẽ. Hình như thông qua sự khéo léo trong việc xây dựng kết cấu ấy,
tác giả muốn khẳng định lại một lần nữa ý nghĩa biểu tượng của loài tre. Khi thể
hiện niềm mong muốn hóa thân vào loài cây đó để mãi mãi xanh bên Bác, tác giả
cũng cho thấy một niềm tin, sự trung thành của nhân dân Việt Nam vào lí tưởng
mà Bác Hồ đã theo đuổi và xây dựng cho cho dân tộc.
Viếng lăng Bác là
một trong những bài thơ hay nhất về Bác. Làm nên sức sống của thi phẩm là hệ thống
hình ảnh ẩn dụ giàu ý nghĩa và đặc biệt là dòng cảm xúc mãnh liệt trào dâng khắp
các dòng thơ. Viễn đã cho thấy sự khéo léo của mình trong việc sử dụng thể thơ,
từ ngữ, nhịp điệu. Thể thơ tám chữ và sự cân đối hài hòa của bốn khổ thơ trong
bài cùng với một giọng thơ từ tốn, chậm rãi, nghiêm trang đã giúp cho nhà thơ
thể hiện trọn vẹn cảm xúc của mình. Bài thơ là tiếng lòng không chỉ của Viễn
Phương, của người dân miền Nam mà của tất cả những người yêu kính Chủ tịch Hồ
Chí Minh. Chính điều đó đã gợi lên trong lòng người một niềm xúc động lớn lao. Nó
sẽ còn ngân vang mãi trong trái tim mỗi chúng ta, như sự vĩnh cửu, trường tồn của
Bác Hồ muôn vàn kính yêu.
Đến với Viếng
lăng Bác của Viễn Phương, ta đã cảm nhận được nỗi nhớ thương vô cùng sâu sắc,
thiết tha của người con miền Nam lần đầu vào lăng viếng Bác, đã cảm nhận rất rõ
niềm thành kính, biết ơn, tự hào, niềm thương tiếc vô hạn của trái tim nhà thơ
hay là trái tim của cả dân tộc ta dành cho Bác bởi:
Người là Cha, là Bác, là Anh
Quả tim lớn lọc
trăm dòng máu nhỏ. (Tố Hữu – Sáng
tháng năm)
Chính
là điều góp phần làm nên giá trị của bài thơ và khiến cho nó trở thành dấu ấn
sâu đậm trong lòng độc giả khi tìm đọc những sáng tác về vị lãnh tụ kính yêu.