Thứ Năm, 9 tháng 4, 2020

Phân tích bài thơ Nói với con của Y Phương.



Y phương là một trong số ít nhà thơ người dân tộc thiểu số thành công và gắn bó lâu dài với hoạt động sáng tác nghệ thuật. Tuy viết không nhiều nhưng các tác phẩm của ông đã để lại một dấu ấn sâu đậm trong nền văn học Việt Nam thế kỉ 20. Thơ ông là tiếng lòng chân thật và dung dị, thể hiện tâm hồn trong sáng và mạnh mẽ, đồng thời cũng điển hình cho cách tư duy giàu hình ảnh của con người miền núi. Thế giới nghệ thuật thơ Y Phương có không gian, thời gian và qui luật tâm lí riêng, Bài thơ “Nói với con” là một tác phẩm đặc trưng cho phong cách thơ Y Phương. Bài thơ với giọng điệu thổ cẩm ngọt ngào, gợi nhắc tình phụ tử cao quý, sự tự hào và ngợi ca truyền thống cần cù nghĩa tình và sức sống mạnh mẽ của người dân tộc, của dân tộc và quê hương.
Nhà thơ Xuân Quỳnh từng viết:
Muốn cho trẻ hiểu biết
Thế là bố sinh ra
Bố bảo cho biết ngoan
Bố dạy cho biết nghĩ.
Những người cha không chỉ là đấng sinh thành mà còn là người dưỡng dục là người thầy đầu tiên của chúng ta. Y Phương từng tâm sự rằng bài thơ “Nói với con” là lời tâm sự của nhà thơ với đứa con gái đầu lòng.  Ông viết bài thơ nói với con khi con gái của ông còn rất nhỏ. Bài thơ "Nói với con" mang đến những xúc cảm chân thành và bình dị  về những lẽ để làm người. Bài thơ lấy cảm hứng từ tình yêu thương vô bờ của một người cha dành cho con của mình, từ đó mượn lời nói cùng con để ngợi ca về cội nguồn sinh dưỡng của mỗi con người, qua đó cũng thể hiện sự tự hào về truyền thống của quê hương, về sự sống bền bỉ của dân tộc. Nói với con là tác phẩm đi từ cái riêng đến cái chung, từ tình cảm gia đình mà mở rộng ra là tình cảm quê hương, từ những kỉ niệm gần gũi thân thuộc mà nâng lên thành lẽ sống cao đẹp. Tâm sự với con cũng là nhà thơ tâm sự với chính mình. Người cha luôn mong mỏi ở đứa con thân yêu của mình sự mạnh mẽ rắn rỏi, sự vững vàng chắc chắn và bền bỉ trên đường đời của mình. Qua đó sâu sắc và khéo léo, tác giả đã nhấn mạnh trách nhiệm của người làm con.
Ngay từ những dòng thơ đầu, người đọc cũng nhận ra tình cảm mà gia đình và quê hương yêu dấu dành cho đứa con. Mượn lời nói cùng con, người cha đã khéo léo nhắc nhở về cội nguồn sinh dưỡng, về truyền thống của dân tộc, cái nôi nuôi con khôn lớn chính là tình yêu thương gia đình và tình cảm của quê hương đồng mình. Con lớn lên trong tình yêu thương vô bờ bến mà cha mẹ dành cho – tình gia đình:
Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười.
Đồng mình chính là cái nôi đầu tiên của con. Tình cảm với quê hương với gia đình chính là sợi dây vô hình, là điểm tựa tinh thần, cũng là nơi dựa vững chắc cho đứa con. Giọng điệu nhẹ nhàng như những lời thủ thỉ, nhà thơ Y Phương đã giúp cho ta thấy được những niềm hạnh phúc bình dị. Đọc bài thơ Nói với con, người đọc sẽ thấy những cung bậc nhẹ nhàng và chứa chan tình cảm. Nhịp thơ 2/3, cấu trúc đối xứng, nhiều từ được láy lại,tạo ra một âm điệu tươi vui, quấn quýt: “chân phải” – “chân trái”, rồi “một bước” – “hai bước”, rồi lại “tiếng nói” – “tiếng cười”…. Kết hợp những hình ảnh cụ thể, giàu chất thơ kết hợp với nét độc đáo trong tư duy, cách diễn đạt của người miền núi, bốn câu thơ mở ra khung cảnh một gia đình ấm cúng, đầy ắp niềm vui, đầy ắp tiếng nói cười. Những bước đi chập chững đầu tiên của con là cả niềm hạnh phúc lớn lao của cha mẹ và gia đình. “Tiếng nói, tiếng cười” trong những bước chân ấy chính là sự rộn vang lấp lánh trong ánh mắt hạnh phúc của cha mẹ. Từng câu, từng chữ đều toát lên niềm tự hào và hạnh phúc tràn đầy.Cả ngôi nhà như rung lên trong “tiếng nói”, “tiếng cười” của cha, của mẹ.Mỗi bước con đi, mỗi tiếng con cười đều được cha mẹ đón nhận, chăm chút mừng vui. Trong tình yêu thương, trong sự nâng niu của cha mẹ, con lớn khôn từng ngày. Ta có thể hình dung được gương mặt tràn ngập hạnh phúc yêu thương của cha mẹ. Gắn kết gia đình bền chặt đã được hình thành từ những giây phút hạnh phúc bình dị, đáng nhớ ấy. Khi con dần Lớn lên, cha mẹ vẫn luôn dõi theo những bước chân ấy trên mọi nẻo đường. Gia đình và quê hương, nơi ấy có cha mẹ và những người thân yêu, vẫn luôn là nơi dựa tinh thần vững chắc. Lời thơ đã chạm đến sợi dây tình cảm gia đình sâu kín của mỗi con người nên tạo được sự đồng cảm, rung động sâu sắc đến độc giả. Tình cha mẹ – con cái thiêng liêng, sâu kín, mối dây ràng buộc không thể xóa nhòa.
Không những thế, ta còn thấy được người cha ấy đã cho con biết niềm vui của lao động cũng như tình nghĩa của người đồng mình:
Người đồng mình yêu lắm con ơi!
Đan lờ cài nan hoa
Vách nhà ken câu hát.
Quê hương tươi đẹp, thấm đượm nghĩa tình như bầu sữa tinh thần thứ hai giúp cho con trưởng thành. Quê hương hiện ra qua hình ảnh của người đồng mình. Nói với con về những “người đồng mình”, nhà thơ như đang giới thiệu ân cần đây là những người bản mình, người vùng mình, người dân quê mình gần gũi, thân thương. Cách gọi như thế, cùng với hô ngữ “con ơi” khiến lời thơ trở nên tha thiết, trìu mến. Người cha cất cao câu hát nhắc con ân tình của người đồng mình. Người đồng mình là những con người đáng yêu, đáng quý. Đó là nhịp sống và lao động của những con người núi rừng chất phác và chân thật. Cuộc sống lao động cần cù và tươi vui của họ được gợi ra qua những hình ảnh thật đẹp! “Nan hoa” “Câu hát” đều là những hình ảnh giàu sắc thái…. Những nan nứa,nan tre dưới bàn tay tài hoa của người quê mình đã trở thành “nan hoa”. Vách nhà không chỉ ken bằng tre, gỗ mà còn được ken bằng những câu hát si, hát lượn. Các động từ “cài”, “ken” vừa miêu tả chính xác động tác khéo léo trong lao động vừa gợi sự gắn bó, quấn quýt của những con người quê hương trong cuộc sống lao động. Cái “yêu lắm” của “người đồng mình” là gì nếu không phải là cốt cách tài hoa, là tinh thần vui sống? Phải chăng, ẩn chứa bên trong cái dáng vẻ thô mộc là một tâm hồn phong phú, lãng mạn biết bao?
Song song đó, rừng núi quê hương thơ mộng, nghĩa tình cũng góp phần hun đúc cho người con tinh thần, tình yêu thương để trưởng thành:
Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng.
Nếu như hình dung về một vùng núi cụ thể, chắc hẳn mỗi người có thể gắn nó với những hình ảnh khác cách nói của Y Phương: là thác lũ, là bạt ngàn cây hay rộn rã tiếng chim thú hoặc cả những âm thanh “gió gào ngàn, giọng nguồn thét núi”, những bí mật của rừng thiêng… Nhưng Y Phương chỉ chọn một hình ảnh thôi, hình ảnh “hoa” để nói về cảnh quan của rừng. Nhưng hình ảnh ấy có sức gợi rất lớn, gợi về những gì đẹp đẽ và tinh tuý nhất. Hoa trong “Nói với con” có thể là hoa thực – như một đặc điểm của rừng – và khi đặt trong mạch của bài thơ, hoa chính là sự biểu trưng của cái đẹp. Hình ảnh này là một tín hiệu thẩm mĩ góp phần diễn đạt điều tác giả đang muốn khái quát: chính những gì đẹp đẽ của quê hương đã hun đúc nên tâm hồn cao đẹp của con người ở đó. Quê hương còn hiện diện trong những gì gần gũi, thân thương. Đó cũng chính là một nguồn mạch yêu thương vẫn tha thiết chảy trong tâm hồn mỗi người, bởi “con đường cho những tấm lòng”. Điệp từ “cho” mang nặng nghĩa tình. Thiên nhiên đem đến cho con người những thứ cần để lớn, giành tặng cho con người những gì đẹp đẽ nhất.Thiên nhiên đã che chở, nuôi dưỡng con người cả về tâm hồn và lối sống. Bằng cách nhân hoá “rừng”“con đường” qua điệp từ “cho”, người đọc có thể nhận ra lối sống tình nghĩa của “người đồng mình”. Rừng mình cho hoa để tâm hồn người đồng mình thêm yêu thương, phong phú và trân trọng những giá trị tinh thần. Nghĩa tình dân tộc đã nuôi dưỡng tâm hồn con, thiên nhiên thơ mộng đẹp đẽ đã chắp cánh cho tâm hồn con. Tác giả Y Phương thật tinh tế khi đã vận dụng lối diễn đạt thiên về hình ảnh cụ thể và sinh động của người dân tộc.
Quê hương ấy chính là cái nôi để đưa con vào cuộc sống êm đềm. Sung sướng ôm con thơ vào lòng, người cha nói với con về kỉ niệm có tính chất khởi đầu cho hạnh phúc gia đình:
Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới
Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời.
Bằng những hình ảnh thơ đẹp, giản dị; bằng cách nói cụ thể, độc đáo mà gần gũi của người miền núi, người cha muốn nói với con rằng: vòng tay yêu thương của cha mẹ, gia đình,nghĩa tình sâu nặng của quê hương làng bản- đó là cái nôi đã nuôi con khôn lớn,là cội nguồn sinh dưỡng của con. Con hãy khắc ghi điều đó. Hãy biết yêu quý gia đình, quê hương, hãy trân trọng từng khoảnh khắc đầm ấm, yên vui, hạnh phúc của gia đình, từng vẻ đẹp của quê hương. Người cha cũng mong con hãy hiểu những điều đó mà thêm yêu cuộc sống. Mạch thơ có sự đan xen, mở rộng: từ tình cảm gia đình mà nói tới quê hương. Đoạn thơ vừa là một lời tâm sự của người cha mong muốn đứa con phải biết tự hào về truyền thống quê hương, phải luôn tự tin, vững bước trên đường đời.
Trong cái ngọt ngào của kỉ niệm về gia đình và quê hương, người cha đã tha thiết nói với con về những phẩm chất tốt đẹp của người đồng mình. Người đồng mình biết lo toan và giàu mơ ước (Giàu ý chí, nghị lực):
Người đồng mình thương lắm con ơi!
Cao đo nỗi buồn
Xa nuôi chí lớn.
Mở đầu đoạn thơ thứ hai nhà thơ lại lặp lại câu thơ “Người đồng mình thương lắm con ơi” (khác với câu thơ trong đoạn trước một chữ “yêu” bằng “thương”). Nếu trên kia “yêu lắm con ơi”– yêu cuộc sống vui tươi bình dị, yêu bản làng thơ mộng, yêu những tấm lòng chân thật nghĩa tình, thì đến đây người cha nói “thương lắm con ơi”– bởi sau từ “thương” đó là những  những nỗi vất vả, gian khó của con người quê hương. Nghệ thuật điệp ngữ đã nhấn mạnh được cảm xúc đang trào dâng trong tâm trạng nhà thơ trước bao nỗi niềm thiêng liêng, da diết của quê hương. Tiếng lòng nhà thơ như đang thổn thức với nhưng cơn “nấc” yêu lắm, thương lắm trước cái “đẹp” và cái “khó” của quê hương. Nhà thơ tiếp tục “Nói với con” về những cái “đẹp” của người “đồng mình”. Cái “đẹp” đó là nghị lực và ý chí của con người quê hương: “Cao đo nỗi buồn/ Xa nuôi chí lớn”. Nhà thơ đã dùng cái cao của trời và cái xa của đất làm thước đo nỗi buồn và ý chí vươn lên. Nét đặc sắc ở đây là tác giả đã dùng những cái vô cùng của thiên nhiên để thể hiện tầm kích chí hướng của con người. Sắp xếp tính từ “cao”, “xa” trong sự tăng tiến, nhà thơ cho thấy khó khăn, thử thách càng lớn thì ý chí con người càng mạnh mẽ cũng như để nhấn mạnh cuộc sống tự nhiên, mạnh mẽ đầy khoáng đạt của những người đồng mình. Họ là những con người hăng say lao động bằng cả tấm lòng. Dù có khó khăn chồng chất, dù có nghèo đói nhưng người đồng mình vẫn luôn sống ngẩng cao đầu, vẫn luôn kiên định về vững chí. Câu thơ cô đúc, đăng đối, chắc nịch như câu tục ngữ đã diễn tả một cách mạnh mẽ, dứt khoát một thái độ, một phương châm ứng xử rất đẹp của con người xứ núi: dẫu gian khó nhưng con người nơi đây không vì thế mà dời bỏ quê hương, ngược lại họ tìm mọi cách để thích nghi với cái khó, cải biến cái khó như cây rừng đã từng sinh sôi phát triển trên núi đá, xanh tốt trong thung, trong khe.
Với cách nói có chút cường điệu, người cha muốn con phải biết yêu thương và tự hào về quê hương dù nó không to nhất, không đẹp nhất.
Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn.
Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trên thung không chê thung nghèo đói
Sống như sông như núi
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc…
Câu thơ “Dẫu làm sao thì cha cũng muốn” nghe có chút ngậm ngùi nhưng lại chuyển tải hết niềm mong mỏi của cha. Con sẽ thế nào, tất cả do con quyết định. Bởi người cha biết rằng, trong cuộc sống mới, khi mà đời sống vật chất được đề cao hơn bao giờ hết, thì việc giữ gìn và phát triển đạo lí, tình người là một nhiệm vụ hết sức khó khăn.
Quê hương lúc nào cũng chân thật, tự nhiên, không tham lam, không giả dối. Họ muôn đời lam lũ trong đói nghèo, kham khổ đi lên nhưng lúc nào cũng mạnh mẽ, không bao giờ kiêu ngạo hay bị khuất phục. Đó là những đức tính quý báu cuả người đồng mình, người cha mong con ghi lấy, nhớ lấy, tìm thấy và gìn giữ mãi mãi trong phong ba bão tố đường đời. Ông xây dựng nên một loạt các hình ảnh gợi sự khó khăn, vất vả: “đá gập ghềnh”, “thung nghèo đói” nhưng dường như cuộc sống càng khó khăn bao nhiêu thì con người càng phải vươn lên không ngừng, đấu tranh vượt qua nó. Và trong những hình ảnh ấy có lẽ hình ảnh của đá là ám ảnh nhất. Nó vừa gợi lên cuộc sống cực nhọc nhưng cũng lại gợi lên cái thế ngẩng cao đầu trên đá của con người. Cuộc sống của người đồng mình còn rất là nghèo, khó khăn và gian khổ vẫn còn nhiều gian nan, thử thách, chính vì thế mà thành ngữ: “lên thác xuống ghềnh” đã khẳng định thêm một lần nữa cuộc sống khó khăn của người đồng mình trong giai đoạn khó khăn khi vừa bước ra khỏi chiến tranh được 5 năm. Y Phương gợi lên cái khó, cái khổ của quê hương không phải để nhắc con biết “thương” mà cao hơn thế là dạy con biết vượt lên những cái “khó”, phát huy cái “đẹp” của quê hương. Đó là sự cần cù, tinh thần lạc quan, ý chí không lùi bước trước khó khăn. Điệp ngữ “sống”, “không chê - không lo” không phải nhấn mạnh cái khó, cái khổ mà nhấn mạnh lời dạy con phải có ý chí nghị lực vươn lên; không sợ khó không sợ khổ, không được coi khinh quê hương, dân tộc. Người đồng mình thật kiên cường biết bao, sống như sông, như núi – vững vàng vượt qua mọi sóng gió gian nan. Cha mẹ cũng mong muốn con như vậy, hiên ngang mạnh mẽ như phong thái của những người đồng mình. Đây chính là tấm lòng thủy chung son sắt với nơi chôn rau cắt rốn của nhà thơ. Khát vọng của cha đối với conL là muốn con sau này phải xây dựng quê hương. Bằng phép so sánh, điệp từ, phép đổi để bày tỏ ước nguyện của người cha. Con phải sống ý chí mạnh mẽ: “Sống như sông như suối – Lên thác xuống ghềnh – Không lo cực nhọc”. Người cha mong con sẽ khỏe mạnh, khoáng đạt, sống nghĩa tình, chung thủy với quê hương, biết chấp nhận và vượt qua khó khăn. Đây thực sự là điều cần thiết cho mỗi con người khi bước chân vào đường đời lắm chông gai, nhọc nhằn bởi lẽ “đường đi khó không phải vì ngăn sông cách núi mà vì lòng người ngại núi e sông” (Nguyễn Bá Học).  Các câu thơ đọc lên thấy nghẹn ngào, rưng rưng nước mắt như tấm lòng của người cha.
Niềm tự hào về quê hương và con người một lần nữa lại dâng trào trong lời dặn đinh ninh như sắc đá:
Người đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con.
Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục.
Đọc những dòng thơ, ta thấy mong ước của cha chính là mong con thủy chung với quê hương, biết chấp nhận khó khăn và thử thách… Lời dặn dò của người cha tha thiết hơn và cũng nghiêm khắc hơn. Vẫn là cách nói hình ảnh quen thuộc của người miền núi nhưng ý thơ ở đây mang đậm màu sắc triết lí:
Người đồng mình tuy thô sơ da thịt
 Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con.
Sự “thô sơ da thịt” là hình thức bề ngoài còn “chẳng mấy ai nhỏ bé” là nội dung. Bề ngoài thì mộc mạc, thô sơ nhưng bên trong là ý chí, nghị lực phi thường; là sự tự trọng và niềm kiêu hãnh vĩ đại. Những con người núi rừng ấy có thể thô sơ da thịt nhưng không hề nhỏ bé, không hề yếu đuối về ý chí. Bằng cách diễn đạt tương phản giữa nội dung và hình thức Y Phương đã thể hiện một sức mạnh tiềm tàng của những con người quê hương. Người đồng mình sống mộc mạc, giản dị, sống chân thật, bộc trực, không che đậy bằng những thứ phù phiếm màu mè nhưng những con người thẳng thắn ấy lại có chí khí. Nhờ phép đối lập giúp nhà thơ ca ngợi người đông mình mộc mạc, chân chất, nhưng không nhỏ bé về tâm hồn, sống phóng khoáng, mạn mẽ với khát vọng của quê hương đất nước.
Sức sống mãnh liệt của họ luôn được khẳng định với một niềm tin vững chắc. Họ kiên trì xây dựng quê hương và gìn giữ phong tục riêng. Và đó cũng là giá trị mà mỗi con người phải trân trọng và gìn giữ đến suốt cuộc đời:
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con
Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương.
Đó là sự phi thường của con người quê hương. Muốn xây dựng đất nước thì trước hết ai cũng phải lao động. “Tự đúc đá” để nói đến công việc năng nhọc nhưng tự nguyện của người đồng mình. Câu thơ thật đặc sắc, đầy tự tôn dân tộc. Đây là câu thơ tả thực nhưng rất gợi cảm. Câu thơ ấy gợi cho người đọc về một nét văn hóa của người miền núi. Đó là họ đẽo đá kê chân cột nhà, làm lối đi… Từ hình ảnh cụ thể này nhà thơ chuyển sang nghĩa khái quát “kê cao quê hương” để chỉ ý thức, tinh thần xây dựng quê hương. Bằng sự nhẫn nại hàng ngày những con người lao động thô sơ da thịt ấy đã làm nên quê hương, làm nên truyền thống, làm nên phong tục. Quê hương là phong tục, là những nét đẹp văn hóa, con người đã tiếp nhận và lĩnh hội được. Lời thơ giản dị, ca ngợi những con người cần cù, nhẫn nại bằng đôi tay lao động của mình đã làm nên quê hương đất nước với truyền thống và phong tục tập quán tốt đẹp. Theo Y phương: “Văn hóa là tài sản  lớn. Giữ cho mình và cho con cháu của mình.”. Sự tôn vinh quê hương có thể nói là vô cùng sâu sắc. Người cha ấy đã tâm tình với con của mình bằng những lời tự sâu thẳm lòng mình. Với tình phụ tử thiêng liêng, người cha đã truyền lại cho con niềm tự hào dân tộc, niềm tin vào bản thân với sức sống bền bỉ bất diệt của dân tộc. Tình cảm của người cha thật thiết tha và trìu mến biết bao.
Đằng sau những lời chân tình ấy của cha, đằng sau sự mỏi mòn lặng thầm ấy là biết bao hy vọng, biết bao ngóng trông và đợi chờ:
Con ơi tuy thô sơ da thịt
Lên đường.
Không bao giờ nhỏ bé được
Nghe con…
Bốn câu thơ cuối hình ảnh “người đồng mình” “thô sơ da thịt” lại được lặp lại. Sự lặp lại này là mượn cái hình thức giản dị bề ngoài của quê hương để gợi nhớ đến truyền thống vĩ đại của quê hương qua đó nhằm nhắc nhở, nhắn nhủ, thể hiện mong muốn con sau này lớn khôn, trưởng thành, dù đi khắp phương trời nhưng “không bao giờ nhỏ bé”, ngược lại lối sống cao thượng của quê hương, cái nôi lớn của mình. Con sẽ bước tiếp trên con đường dân tộc đã đi qua, có máu và nước mắt của bao con người. Một lối mòn nhỏ nhưng dẫn đến một chân trời mới. Truyền thống quê hương sẽ là nguồn sức mạnh để con nhận ra mình, khẳng định mình. Quê hương sẽ đồng hành cùng con để con sẽ không cô đơn mỗi khi con gặp khó khăn thử thách.
Nói về quê hương, về người đồng mình, tác giả không dấu được niềm tự hào khi nói về sự bền bỉ, sức sống mạnh mẽ của quê hương và mong muốn con gìn giữ và tiếp nối. Khép lại bài thơ bằng âm hưởng của một lời nhắn nhủ vừa nghiêm khắc vừa trìu mến bao dung. Hai tiếng “nghe con” đặt vào lòng con cả tình cha, tình mẹ và sự hoài mong của quê hương xứ sở. Mở ra một chân trời mới, quê hương nhỏ sẽ theo con đến với cuộc đời lớn, đólà điều mà người cha vừa lo lắng vừa tin tưởng trong niền hân hoan tha thiết. Giọng thơ thiết tha mến thiết tha ấy, mà nghe sao xúc động nghẹn ngào… Những lời căn dặn của người cha xuất phát từ đáy lòng. Cha dặn con phải tự tin mà bước trên đường đời. Bốn câu thơ có hai câu ngắn, được ngắt nhịp một cách mạnh mẽ giống như lời nhắn nhủ mà như là mệnh lệnh. Bởi “quê hương là chùm khế ngọt” (Đỗ Trung Quân), quê hương là nghĩa tình, là điểm tựa tình thần vững chắc với mỗi người trong suốt chặng đường phát triển của bản thân. “Lên đường” con đừng quên quê hương là nơi đã chắp cánh, gia đình là cội nguồn nuôi dưỡng con. Hãy tự hào về quê hương để mà biết phấn đấu và quyết tâm thành công. Truyền thống của người đồng mình, của quê hương sẽ là hành trang con mang theo trên mọi nẻo đường. Người cha đã truyền cho con vẻ đẹp cũng như sức mạnh của quê hương. Mong ước nhỏ bé ấy của cha hy vọng con sẽ thực hiện được. Đó chính là ước muốn cao đẹp mà chỉ có tình phụ tử mới có thể làm được.
Với thể thơ tự do, câu dài câu ngắn rất phù hợp với cuộc sống gập ghềnh của người dân vùng núi. Hình ảnh thơ mang đậm chất của núi rừng, sông suối. Kết hợp với mạch cảm xúc tự nhiên, nhẹ nhàng, không chỉ đơn thuần là những lời khuyên chân tình với con mình, đó còn là lời nhắn nhủ với tất cả chúng ta về truyền thống đạo lý “uống nước nhớ nguồn”. Bài thơ chính là một đóa hoa thơm góp vào mảng đề tài quê hương, đất nước. Cho ta thêm yêu thêm nhớ quê nhà thân thuộc của mình:
Quê hương ơi! Xa rồi nhớ thành thơ
Tiếng mẹ đẻ, gặp nhau mừng khôn xiết
Ai cũng vậy xa lâu rồi mới biết
Những ngôn từ không đủ viết…quê hương!
Bài thơ kết thúc mà âm hưởng như còn vang mãi. Tác phẩm đã nhắc nhở chúng ta về tình phụ tử, tình cảm gia đình, tình yêu quê hương đất nước. Qua những lời tâm tình thủ thỉ của người cha, chúng ta nhận thấy tình cảm lớn lao mà người cha đã dành cho đứa con của mình. Người cha ấy đã gửi gắm biết bao nghĩ suy cùng những bài học gần gũi giản dị, từ đó mong con luôn sống vững vàng, ngay thẳng và mạnh mẽ như người đồng mình. Ta nhận ra rằng Y Phương là một người cha có niềm tự hào dân tộc, quê hương sâu sắc, có tình yêu, quan tâm và luôn nhắc nhở con cái của mình. Bài thơ đó là trách nhiệm của người đi trước đối với người đi sau là phải  luôn trân trọng, gìn giữ và truyền đi những giá trị cao đẹp mà người đồng mình đã muôn đời gìn giữ.

 Nguồn: ST &