Y phương là một trong số ít nhà thơ
người dân tộc thiểu số thành công và gắn bó lâu dài với hoạt động sáng tác nghệ
thuật. Tuy viết không nhiều nhưng các tác phẩm của ông đã để lại một dấu ấn sâu
đậm trong nền văn học Việt Nam thế kỉ 20. Thơ ông là tiếng lòng chân thật và
dung dị, thể hiện tâm hồn trong sáng và mạnh mẽ, đồng thời cũng điển hình cho
cách tư duy giàu hình ảnh của con người miền núi. Thế giới nghệ thuật thơ Y
Phương có không gian, thời gian và qui luật tâm lí riêng, Bài thơ “Nói với con”
là một tác phẩm đặc trưng cho phong cách thơ Y Phương. Bài thơ với giọng điệu
thổ cẩm ngọt ngào, gợi nhắc tình phụ tử cao quý, sự tự hào và ngợi ca truyền thống
cần cù nghĩa tình và sức sống mạnh mẽ của người dân tộc, của dân tộc và quê
hương.
Nhà thơ Xuân Quỳnh từng viết:
Muốn cho trẻ hiểu biết
Thế là bố sinh ra
Bố bảo cho biết ngoan
Bố dạy cho biết nghĩ.
Những người cha không chỉ là đấng sinh
thành mà còn là người dưỡng dục là người thầy đầu tiên của chúng ta. Y Phương từng
tâm sự rằng bài thơ “Nói với con” là lời tâm sự của nhà thơ với đứa con gái đầu
lòng. Ông viết bài thơ nói với con khi
con gái của ông còn rất nhỏ. Bài thơ "Nói với con" mang đến những xúc
cảm chân thành và bình dị về những lẽ để
làm người. Bài thơ lấy cảm hứng từ tình yêu thương vô bờ của một người cha dành
cho con của mình, từ đó mượn lời nói cùng con để ngợi ca về cội nguồn sinh dưỡng
của mỗi con người, qua đó cũng thể hiện sự tự hào về truyền thống của quê
hương, về sự sống bền bỉ của dân tộc. Nói với con là tác phẩm đi từ cái riêng đến
cái chung, từ tình cảm gia đình mà mở rộng ra là tình cảm quê hương, từ những kỉ
niệm gần gũi thân thuộc mà nâng lên thành lẽ sống cao đẹp. Tâm sự với con cũng
là nhà thơ tâm sự với chính mình. Người cha luôn mong mỏi ở đứa con thân yêu của
mình sự mạnh mẽ rắn rỏi, sự vững vàng chắc chắn và bền bỉ trên đường đời của
mình. Qua đó sâu sắc và khéo léo, tác giả đã nhấn mạnh trách nhiệm của người
làm con.
Ngay từ những dòng thơ đầu, người đọc
cũng nhận ra tình cảm mà gia đình và quê hương yêu dấu dành cho đứa con. Mượn lời
nói cùng con, người cha đã khéo léo nhắc nhở về cội nguồn sinh dưỡng, về truyền
thống của dân tộc, cái nôi nuôi con khôn lớn chính là tình yêu thương gia đình
và tình cảm của quê hương đồng mình. Con lớn lên trong tình yêu thương vô bờ bến
mà cha mẹ dành cho – tình gia đình:
Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười.
Đồng mình chính là cái nôi đầu tiên của
con. Tình cảm với quê hương với gia đình chính là sợi dây vô hình, là điểm tựa
tinh thần, cũng là nơi dựa vững chắc cho đứa con. Giọng điệu nhẹ nhàng như những
lời thủ thỉ, nhà thơ Y Phương đã giúp cho ta thấy được những niềm hạnh phúc
bình dị. Đọc bài thơ Nói với con, người đọc sẽ thấy những cung bậc nhẹ nhàng và
chứa chan tình cảm. Nhịp thơ 2/3, cấu trúc đối xứng, nhiều từ được láy lại,tạo
ra một âm điệu tươi vui, quấn quýt: “chân phải” – “chân trái”, rồi “một
bước” – “hai bước”, rồi lại “tiếng nói” – “tiếng cười”…. Kết hợp những
hình ảnh cụ thể, giàu chất thơ kết hợp với nét độc đáo trong tư duy, cách diễn
đạt của người miền núi, bốn câu thơ mở ra khung cảnh một gia đình ấm cúng, đầy ắp
niềm vui, đầy ắp tiếng nói cười. Những bước đi chập chững đầu tiên của con là cả
niềm hạnh phúc lớn lao của cha mẹ và gia đình. “Tiếng nói, tiếng cười”
trong những bước chân ấy chính là sự rộn vang lấp lánh trong ánh mắt hạnh phúc
của cha mẹ. Từng câu, từng chữ đều toát lên niềm tự hào và hạnh phúc tràn đầy.Cả
ngôi nhà như rung lên trong “tiếng nói”, “tiếng cười” của cha, của mẹ.Mỗi
bước con đi, mỗi tiếng con cười đều được cha mẹ đón nhận, chăm chút mừng vui.
Trong tình yêu thương, trong sự nâng niu của cha mẹ, con lớn khôn từng ngày. Ta
có thể hình dung được gương mặt tràn ngập hạnh phúc yêu thương của cha mẹ. Gắn
kết gia đình bền chặt đã được hình thành từ những giây phút hạnh phúc bình dị,
đáng nhớ ấy. Khi con dần Lớn lên, cha mẹ vẫn luôn dõi theo những bước chân ấy
trên mọi nẻo đường. Gia đình và quê hương, nơi ấy có cha mẹ và những người thân
yêu, vẫn luôn là nơi dựa tinh thần vững chắc. Lời thơ đã chạm đến sợi dây tình
cảm gia đình sâu kín của mỗi con người nên tạo được sự đồng cảm, rung động sâu
sắc đến độc giả. Tình cha mẹ – con cái thiêng liêng, sâu kín, mối dây ràng buộc
không thể xóa nhòa.
Không những thế, ta còn thấy được người
cha ấy đã cho con biết niềm vui của lao động cũng như tình nghĩa của người đồng
mình:
Người đồng mình yêu lắm con ơi!
Đan lờ cài nan hoa
Vách nhà ken câu hát.
Quê hương tươi đẹp, thấm đượm nghĩa
tình như bầu sữa tinh thần thứ hai giúp cho con trưởng thành. Quê hương hiện ra
qua hình ảnh của người đồng mình. Nói với con về những “người đồng mình”,
nhà thơ như đang giới thiệu ân cần đây là những người bản mình, người vùng
mình, người dân quê mình gần gũi, thân thương. Cách gọi như thế, cùng với hô ngữ
“con ơi” khiến lời thơ trở nên tha thiết, trìu mến. Người cha cất cao
câu hát nhắc con ân tình của người đồng mình. Người đồng mình là những con người
đáng yêu, đáng quý. Đó là nhịp sống và lao động của những con người núi rừng chất
phác và chân thật. Cuộc sống lao động cần cù và tươi vui của họ được gợi ra qua
những hình ảnh thật đẹp! “Nan hoa” “Câu hát” đều là những hình ảnh giàu sắc
thái…. Những nan nứa,nan tre dưới bàn tay tài hoa của người quê mình đã trở
thành “nan hoa”. Vách nhà không chỉ ken bằng tre, gỗ mà còn được ken bằng
những câu hát si, hát lượn. Các động từ “cài”, “ken” vừa miêu tả chính xác
động tác khéo léo trong lao động vừa gợi sự gắn bó, quấn quýt của những con người
quê hương trong cuộc sống lao động. Cái “yêu lắm” của “người đồng
mình” là gì nếu không phải là cốt cách tài hoa, là tinh thần vui sống? Phải
chăng, ẩn chứa bên trong cái dáng vẻ thô mộc là một tâm hồn phong phú, lãng mạn
biết bao?
Song song đó, rừng núi quê hương thơ mộng,
nghĩa tình cũng góp phần hun đúc cho người con tinh thần, tình yêu thương để
trưởng thành:
Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng.
Nếu như hình dung về một vùng núi cụ
thể, chắc hẳn mỗi người có thể gắn nó với những hình ảnh khác cách nói của Y
Phương: là thác lũ, là bạt ngàn cây hay rộn rã tiếng chim thú hoặc cả những âm
thanh “gió gào ngàn, giọng nguồn thét núi”, những bí mật của rừng
thiêng… Nhưng Y Phương chỉ chọn một hình ảnh thôi, hình ảnh “hoa” để nói
về cảnh quan của rừng. Nhưng hình ảnh ấy có sức gợi rất lớn, gợi về những gì đẹp
đẽ và tinh tuý nhất. Hoa trong “Nói với con” có thể là hoa thực – như một đặc
điểm của rừng – và khi đặt trong mạch của bài thơ, hoa chính là sự biểu trưng của
cái đẹp. Hình ảnh này là một tín hiệu thẩm mĩ góp phần diễn đạt điều tác giả
đang muốn khái quát: chính những gì đẹp đẽ của quê hương đã hun đúc nên tâm hồn
cao đẹp của con người ở đó. Quê hương còn hiện diện trong những gì gần gũi,
thân thương. Đó cũng chính là một nguồn mạch yêu thương vẫn tha thiết chảy
trong tâm hồn mỗi người, bởi “con đường cho những tấm lòng”. Điệp từ “cho”
mang nặng nghĩa tình. Thiên nhiên đem đến cho con người những thứ cần để lớn,
giành tặng cho con người những gì đẹp đẽ nhất.Thiên nhiên đã che chở, nuôi dưỡng
con người cả về tâm hồn và lối sống. Bằng cách nhân hoá “rừng” và “con
đường” qua điệp từ “cho”, người đọc có thể nhận ra lối sống tình
nghĩa của “người đồng mình”. Rừng mình cho hoa để tâm hồn người đồng mình thêm
yêu thương, phong phú và trân trọng những giá trị tinh thần. Nghĩa tình dân tộc
đã nuôi dưỡng tâm hồn con, thiên nhiên thơ mộng đẹp đẽ đã chắp cánh cho tâm hồn
con. Tác giả Y Phương thật tinh tế khi đã vận dụng lối diễn đạt thiên về hình ảnh
cụ thể và sinh động của người dân tộc.
Quê hương ấy chính là cái nôi để đưa
con vào cuộc sống êm đềm. Sung sướng ôm con thơ vào lòng, người cha nói với con
về kỉ niệm có tính chất khởi đầu cho hạnh phúc gia đình:
Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới
Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời.
Bằng những hình ảnh thơ đẹp, giản dị;
bằng cách nói cụ thể, độc đáo mà gần gũi của người miền núi, người cha muốn nói
với con rằng: vòng tay yêu thương của cha mẹ, gia đình,nghĩa tình sâu nặng của
quê hương làng bản- đó là cái nôi đã nuôi con khôn lớn,là cội nguồn sinh dưỡng
của con. Con hãy khắc ghi điều đó. Hãy biết yêu quý gia đình, quê hương, hãy
trân trọng từng khoảnh khắc đầm ấm, yên vui, hạnh phúc của gia đình, từng vẻ đẹp
của quê hương. Người cha cũng mong con hãy hiểu những điều đó mà thêm yêu cuộc
sống. Mạch thơ có sự đan xen, mở rộng: từ tình cảm gia đình mà nói tới quê
hương. Đoạn thơ vừa là một lời tâm sự của người cha mong muốn đứa con phải biết
tự hào về truyền thống quê hương, phải luôn tự tin, vững bước trên đường đời.
Trong cái ngọt ngào của kỉ niệm về gia
đình và quê hương, người cha đã tha thiết nói với con về những phẩm chất tốt đẹp
của người đồng mình. Người đồng mình biết lo toan và giàu mơ ước (Giàu ý chí,
nghị lực):
Người đồng mình thương lắm con ơi!
Cao đo nỗi buồn
Xa nuôi chí lớn.
Mở đầu đoạn thơ thứ hai nhà thơ lại lặp
lại câu thơ “Người đồng mình thương lắm con ơi” (khác với câu thơ trong
đoạn trước một chữ “yêu” bằng “thương”). Nếu trên kia “yêu lắm
con ơi”– yêu cuộc sống vui tươi bình dị, yêu bản làng thơ mộng, yêu những tấm
lòng chân thật nghĩa tình, thì đến đây người cha nói “thương lắm con ơi”– bởi
sau từ “thương” đó là những những nỗi vất
vả, gian khó của con người quê hương. Nghệ thuật điệp ngữ đã nhấn mạnh được cảm
xúc đang trào dâng trong tâm trạng nhà thơ trước bao nỗi niềm thiêng liêng, da
diết của quê hương. Tiếng lòng nhà thơ như đang thổn thức với nhưng cơn “nấc”
yêu lắm, thương lắm trước cái “đẹp” và cái “khó” của quê hương.
Nhà thơ tiếp tục “Nói với con” về những cái “đẹp” của người “đồng mình”. Cái “đẹp”
đó là nghị lực và ý chí của con người quê hương: “Cao đo nỗi buồn/ Xa nuôi
chí lớn”. Nhà thơ đã dùng cái cao của trời và cái xa của đất làm thước đo nỗi
buồn và ý chí vươn lên. Nét đặc sắc ở đây là tác giả đã dùng những cái vô cùng
của thiên nhiên để thể hiện tầm kích chí hướng của con người. Sắp xếp tính từ “cao”,
“xa” trong sự tăng tiến, nhà thơ cho thấy khó khăn, thử thách càng lớn thì
ý chí con người càng mạnh mẽ cũng như để nhấn mạnh cuộc sống tự nhiên, mạnh mẽ
đầy khoáng đạt của những người đồng mình. Họ là những con người hăng say lao động
bằng cả tấm lòng. Dù có khó khăn chồng chất, dù có nghèo đói nhưng người đồng
mình vẫn luôn sống ngẩng cao đầu, vẫn luôn kiên định về vững chí. Câu thơ cô
đúc, đăng đối, chắc nịch như câu tục ngữ đã diễn tả một cách mạnh mẽ, dứt khoát
một thái độ, một phương châm ứng xử rất đẹp của con người xứ núi: dẫu gian khó
nhưng con người nơi đây không vì thế mà dời bỏ quê hương, ngược lại họ tìm mọi
cách để thích nghi với cái khó, cải biến cái khó như cây rừng đã từng sinh sôi
phát triển trên núi đá, xanh tốt trong thung, trong khe.
Với cách nói có chút cường điệu, người
cha muốn con phải biết yêu thương và tự hào về quê hương dù nó không to nhất,
không đẹp nhất.
Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn.
Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trên thung không chê thung nghèo
đói
Sống như sông như núi
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc…
Câu thơ “Dẫu làm sao thì cha cũng
muốn” nghe có chút ngậm ngùi nhưng lại chuyển tải hết niềm mong mỏi của
cha. Con sẽ thế nào, tất cả do con quyết định. Bởi người cha biết rằng, trong
cuộc sống mới, khi mà đời sống vật chất được đề cao hơn bao giờ hết, thì việc
giữ gìn và phát triển đạo lí, tình người là một nhiệm vụ hết sức khó khăn.
Quê hương lúc nào cũng chân thật, tự
nhiên, không tham lam, không giả dối. Họ muôn đời lam lũ trong đói nghèo, kham
khổ đi lên nhưng lúc nào cũng mạnh mẽ, không bao giờ kiêu ngạo hay bị khuất phục.
Đó là những đức tính quý báu cuả người đồng mình, người cha mong con ghi lấy,
nhớ lấy, tìm thấy và gìn giữ mãi mãi trong phong ba bão tố đường đời. Ông xây dựng
nên một loạt các hình ảnh gợi sự khó khăn, vất vả: “đá gập ghềnh”, “thung
nghèo đói” nhưng dường như cuộc sống càng khó khăn bao nhiêu thì con người
càng phải vươn lên không ngừng, đấu tranh vượt qua nó. Và trong những hình ảnh ấy
có lẽ hình ảnh của đá là ám ảnh nhất. Nó vừa gợi lên cuộc sống cực nhọc nhưng
cũng lại gợi lên cái thế ngẩng cao đầu trên đá của con người. Cuộc sống của người
đồng mình còn rất là nghèo, khó khăn và gian khổ vẫn còn nhiều gian nan, thử
thách, chính vì thế mà thành ngữ: “lên thác xuống ghềnh” đã khẳng định
thêm một lần nữa cuộc sống khó khăn của người đồng mình trong giai đoạn khó
khăn khi vừa bước ra khỏi chiến tranh được 5 năm. Y Phương gợi lên cái khó, cái
khổ của quê hương không phải để nhắc con biết “thương” mà cao hơn thế là dạy
con biết vượt lên những cái “khó”, phát huy cái “đẹp” của quê hương. Đó là sự cần
cù, tinh thần lạc quan, ý chí không lùi bước trước khó khăn. Điệp ngữ “sống”,
“không chê - không lo” không phải nhấn mạnh cái khó, cái khổ mà nhấn mạnh lời
dạy con phải có ý chí nghị lực vươn lên; không sợ khó không sợ khổ, không được
coi khinh quê hương, dân tộc. Người đồng mình thật kiên cường biết bao, sống
như sông, như núi – vững vàng vượt qua mọi sóng gió gian nan. Cha mẹ cũng mong
muốn con như vậy, hiên ngang mạnh mẽ như phong thái của những người đồng mình.
Đây chính là tấm lòng thủy chung son sắt với nơi chôn rau cắt rốn của nhà thơ.
Khát vọng của cha đối với conL là muốn con sau này phải xây dựng quê hương. Bằng
phép so sánh, điệp từ, phép đổi để bày tỏ ước nguyện của người cha. Con phải sống
ý chí mạnh mẽ: “Sống như sông như suối – Lên thác xuống ghềnh – Không lo cực
nhọc”. Người cha mong con sẽ khỏe mạnh, khoáng đạt, sống nghĩa tình, chung
thủy với quê hương, biết chấp nhận và vượt qua khó khăn. Đây thực sự là điều cần
thiết cho mỗi con người khi bước chân vào đường đời lắm chông gai, nhọc nhằn bởi
lẽ “đường đi khó không phải vì ngăn sông cách núi mà vì lòng người ngại núi
e sông” (Nguyễn Bá Học). Các câu thơ
đọc lên thấy nghẹn ngào, rưng rưng nước mắt như tấm lòng của người cha.
Niềm tự hào về quê hương và con người
một lần nữa lại dâng trào trong lời dặn đinh ninh như sắc đá:
Người đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con.
Người đồng mình tự đục đá kê cao quê
hương
Còn quê hương thì làm phong tục.
Đọc những dòng thơ, ta thấy mong ước của
cha chính là mong con thủy chung với quê hương, biết chấp nhận khó khăn và thử
thách… Lời dặn dò của người cha tha thiết hơn và cũng nghiêm khắc hơn. Vẫn là
cách nói hình ảnh quen thuộc của người miền núi nhưng ý thơ ở đây mang đậm màu
sắc triết lí:
Người đồng mình tuy thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con.
Sự “thô sơ da thịt” là hình thức
bề ngoài còn “chẳng mấy ai nhỏ bé” là nội dung. Bề ngoài thì mộc mạc,
thô sơ nhưng bên trong là ý chí, nghị lực phi thường; là sự tự trọng và niềm kiêu
hãnh vĩ đại. Những con người núi rừng ấy có thể thô sơ da thịt nhưng không hề
nhỏ bé, không hề yếu đuối về ý chí. Bằng cách diễn đạt tương phản giữa nội dung
và hình thức Y Phương đã thể hiện một sức mạnh tiềm tàng của những con người
quê hương. Người đồng mình sống mộc mạc, giản dị, sống chân thật, bộc trực,
không che đậy bằng những thứ phù phiếm màu mè nhưng những con người thẳng thắn ấy
lại có chí khí. Nhờ phép đối lập giúp nhà thơ ca ngợi người đông mình mộc mạc,
chân chất, nhưng không nhỏ bé về tâm hồn, sống phóng khoáng, mạn mẽ với khát vọng
của quê hương đất nước.
Sức sống mãnh liệt của họ luôn được khẳng
định với một niềm tin vững chắc. Họ kiên trì xây dựng quê hương và gìn giữ
phong tục riêng. Và đó cũng là giá trị mà mỗi con người phải trân trọng và gìn
giữ đến suốt cuộc đời:
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con
Người đồng mình tự đục đá kê cao quê
hương.
Đó là sự phi thường của con người quê
hương. Muốn xây dựng đất nước thì trước hết ai cũng phải lao động. “Tự đúc
đá” để nói đến công việc năng nhọc nhưng tự nguyện của người đồng mình. Câu
thơ thật đặc sắc, đầy tự tôn dân tộc. Đây là câu thơ tả thực nhưng rất gợi cảm.
Câu thơ ấy gợi cho người đọc về một nét văn hóa của người miền núi. Đó là họ đẽo
đá kê chân cột nhà, làm lối đi… Từ hình ảnh cụ thể này nhà thơ chuyển sang
nghĩa khái quát “kê cao quê hương” để chỉ ý thức, tinh thần xây dựng quê
hương. Bằng sự nhẫn nại hàng ngày những con người lao động thô sơ da thịt ấy đã
làm nên quê hương, làm nên truyền thống, làm nên phong tục. Quê hương là phong
tục, là những nét đẹp văn hóa, con người đã tiếp nhận và lĩnh hội được. Lời thơ
giản dị, ca ngợi những con người cần cù, nhẫn nại bằng đôi tay lao động của
mình đã làm nên quê hương đất nước với truyền thống và phong tục tập quán tốt đẹp.
Theo Y phương: “Văn hóa là tài sản lớn.
Giữ cho mình và cho con cháu của mình.”. Sự tôn vinh quê hương có thể nói
là vô cùng sâu sắc. Người cha ấy đã tâm tình với con của mình bằng những lời tự
sâu thẳm lòng mình. Với tình phụ tử thiêng liêng, người cha đã truyền lại cho
con niềm tự hào dân tộc, niềm tin vào bản thân với sức sống bền bỉ bất diệt của
dân tộc. Tình cảm của người cha thật thiết tha và trìu mến biết bao.
Đằng sau những lời chân tình ấy của
cha, đằng sau sự mỏi mòn lặng thầm ấy là biết bao hy vọng, biết bao ngóng trông
và đợi chờ:
Con ơi tuy thô sơ da thịt
Lên đường.
Không bao giờ nhỏ bé được
Nghe con…
Bốn câu thơ cuối hình ảnh “người đồng
mình” “thô sơ da thịt” lại được lặp lại. Sự lặp lại này là mượn cái hình thức
giản dị bề ngoài của quê hương để gợi nhớ đến truyền thống vĩ đại của quê hương
qua đó nhằm nhắc nhở, nhắn nhủ, thể hiện mong muốn con sau này lớn khôn, trưởng
thành, dù đi khắp phương trời nhưng “không bao giờ nhỏ bé”, ngược lại lối
sống cao thượng của quê hương, cái nôi lớn của mình. Con sẽ bước tiếp trên con
đường dân tộc đã đi qua, có máu và nước mắt của bao con người. Một lối mòn nhỏ
nhưng dẫn đến một chân trời mới. Truyền thống quê hương sẽ là nguồn sức mạnh để
con nhận ra mình, khẳng định mình. Quê hương sẽ đồng hành cùng con để con sẽ
không cô đơn mỗi khi con gặp khó khăn thử thách.
Nói về quê hương, về người đồng mình,
tác giả không dấu được niềm tự hào khi nói về sự bền bỉ, sức sống mạnh mẽ của
quê hương và mong muốn con gìn giữ và tiếp nối. Khép lại bài thơ bằng âm hưởng
của một lời nhắn nhủ vừa nghiêm khắc vừa trìu mến bao dung. Hai tiếng “nghe
con” đặt vào lòng con cả tình cha, tình mẹ và sự hoài mong của quê hương xứ
sở. Mở ra một chân trời mới, quê hương nhỏ sẽ theo con đến với cuộc đời lớn,
đólà điều mà người cha vừa lo lắng vừa tin tưởng trong niền hân hoan tha thiết.
Giọng thơ thiết tha mến thiết tha ấy, mà nghe sao xúc động nghẹn ngào… Những lời
căn dặn của người cha xuất phát từ đáy lòng. Cha dặn con phải tự tin mà bước
trên đường đời. Bốn câu thơ có hai câu ngắn, được ngắt nhịp một cách mạnh mẽ giống
như lời nhắn nhủ mà như là mệnh lệnh. Bởi “quê hương là chùm khế ngọt” (Đỗ
Trung Quân), quê hương là nghĩa tình, là điểm tựa tình thần vững chắc với mỗi
người trong suốt chặng đường phát triển của bản thân. “Lên đường” con đừng
quên quê hương là nơi đã chắp cánh, gia đình là cội nguồn nuôi dưỡng con. Hãy tự
hào về quê hương để mà biết phấn đấu và quyết tâm thành công. Truyền thống của
người đồng mình, của quê hương sẽ là hành trang con mang theo trên mọi nẻo đường.
Người cha đã truyền cho con vẻ đẹp cũng như sức mạnh của quê hương. Mong ước nhỏ
bé ấy của cha hy vọng con sẽ thực hiện được. Đó chính là ước muốn cao đẹp mà chỉ
có tình phụ tử mới có thể làm được.
Với thể thơ tự do, câu dài câu ngắn rất
phù hợp với cuộc sống gập ghềnh của người dân vùng núi. Hình ảnh thơ mang đậm
chất của núi rừng, sông suối. Kết hợp với mạch cảm xúc tự nhiên, nhẹ nhàng,
không chỉ đơn thuần là những lời khuyên chân tình với con mình, đó còn là lời
nhắn nhủ với tất cả chúng ta về truyền thống đạo lý “uống nước nhớ nguồn”. Bài
thơ chính là một đóa hoa thơm góp vào mảng đề tài quê hương, đất nước. Cho ta
thêm yêu thêm nhớ quê nhà thân thuộc của mình:
Quê hương ơi! Xa rồi nhớ thành thơ
Tiếng mẹ đẻ, gặp nhau mừng khôn xiết
Ai cũng vậy xa lâu rồi mới biết
Những ngôn từ không đủ viết…quê hương!
Bài thơ kết thúc mà âm hưởng như còn
vang mãi. Tác phẩm đã nhắc nhở chúng ta về tình phụ tử, tình cảm gia đình, tình
yêu quê hương đất nước. Qua những lời tâm tình thủ thỉ của người cha, chúng ta
nhận thấy tình cảm lớn lao mà người cha đã dành cho đứa con của mình. Người cha
ấy đã gửi gắm biết bao nghĩ suy cùng những bài học gần gũi giản dị, từ đó mong
con luôn sống vững vàng, ngay thẳng và mạnh mẽ như người đồng mình. Ta nhận ra
rằng Y Phương là một người cha có niềm tự hào dân tộc, quê hương sâu sắc, có
tình yêu, quan tâm và luôn nhắc nhở con cái của mình. Bài thơ đó là trách nhiệm
của người đi trước đối với người đi sau là phải
luôn trân trọng, gìn giữ và truyền đi những giá trị cao đẹp mà người đồng
mình đã muôn đời gìn giữ.