Thứ Hai, 31 tháng 5, 2021

Phân tích Tám câu thơ cuối đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”. Từ đó liên hệ với một tác phẩm khác để làm nổi bật số phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến.


 
Bỗng quý cô Kiều như đời dân tộc,

Chữ kiên trinh vượt trăm sóng Tiền Đường.

Chàng Kim đã đến tìm, lau giọt khóc?

Và lò trầm đêm ấy tỏa bay hương …

 (Đọc Kiều – Chế Lan Viên)

   Những vần thơ trên đây của Chế Lan Viên đã gợi thương gợi nhớ trong lòng ta về cuộc đời bạc mệnh của người con gái tài sắc Thúy Kiều. Nàng Kiều đẹp cả ở ngoại hình và nhân cách nhưng lại phải chịu nhiều cảnh tang thương, bất hạnh. Đau đớn nhất có lẽ là khi cô đơn ở lầu Ngưng Bích, bị giam lỏng, cầm tù và mường tượng về tương lai sóng gió sau này của chính mình. Trong trích đoạn “Kiều ở lầu ngưng bích”, Nguyễn Du đã biến khung cảnh thiên nhiên thành phương tiện để miêu tả tâm trạng của con người. Bi kịch nội tâm của nàng Kiều đã được Nguyễn Du diễn tả qua bức tranh thiên nhiên phong phú khi nàng ở lầu Ngưng Bích. Minh chứng đầy đủ nhất cho điều ấy là tám câu thơ cuối đoạn trích:

Buồn trông cửa bể chiều hôm,

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?

Buồn trông ngọn nước mới sa,

Hoa trôi man mác biết là về đâu?

Buồn trông nội cỏ rầu rầu,

Chăn mây mặt đất một màu xanh xanh.

Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,

Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.

Có thể thấy tám câu thơ đã đạt đến mẫu mực của bút pháp tả cảnh ngụ tình.

Trích đoạn “Kiều ở lầu ngưng bích” là một trong những trích đoạn hay tiêu biểu cho nghệ thuật tả cảnh ngụ tình tuyệt vời khiến người đọc như thấu hiểu tâm can người con gái phải xa gia đình, lênh đênh giữa dòng đời và không biết phiêu dạt về đâu. Đây cũng chính là cảnh đầu tiên trong suốt 15 năm lưu lạc, truân chuyên của Kiều. Vì vậy, tâm trạng Kiều lúc này vô cùng ngổn ngang, sợ hãi và vô định. Đặc biệt tám câu thơ cuối cũng cho thấy tài năng phân tích, nghệ thuật tả cảnh ngụ tình bậc thầy của Nguyễn Du. Bức tranh phong cảnh lầu Ngưng Bích không chỉ đơn thuần là phong cảnh mà đó còn là bức tranh tâm trạng.

Ngòi bút của Nguyễn Du hết sức tinh tế khi tả cảnh cũng như ngụ tình. Cảnh và tình uốn lượn song song, mỗi cảnh là một bức tranh tâm trạng. Cảnh được miêu tả từ xa đến gần, màu sắc từ nhạt đến đậm, âm thanh từ tĩnh đến động, nỗi buồn từ man mác đến âu lo, kinh sợ. Cảnh vật thay đổi, bốn bức tranh tạo thành một bộ tranh tứ bình về tâm trạng của Kiều. Đọc những câu thơ cuối người đọc cũng cảm thấy thương xót, đau đáu cho cuộc đời phía trước của Kiều. Đoạn thơ chia ra làm bốn cặp lục bát, mở đầu mỗi cảnh là điệp từ “buồn trông” xuất hiện với âm hưởng trầm buồn, báo hiệu biết bao sóng gió, khó khăn phía trước. Đồng thời mỗi cặp lục bát cũng tương ứng với một nét tâm trạng của Thúy Kiều.

Điệp từ “Buồn” liên tục được nhắc lại chứng tỏ tâm trạng Thúy Kiều vô cùng rầu rĩ. Người ta thường nói “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Nó rất đúng trong hoàn cảnh này của Kiều. Đối với nàng cảnh vật xung quanh đều là màu u tối giống như tâm trạng của nàng. Nỗi buồn như xoáy vào tâm can, tạo thành từng lớp sóng trào. Mở đầu là khung cảnh biển nước mênh mông:

Buồn trông cửa bể chiều hôm

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?

Chiều hôm chính là cảnh hoàng hôn. Cảnh buổi chiều thường khiến cho người ta liên tưởng đến cảnh đoàn tụ, được trở về bên quê hương gia đình. Nhưng với Kiều đó chỉ là nỗi khao khát, nhớ nhung cha mẹ mà thôi. Trong buổi chiều hôm ấy nỗi nhớ cha mẹ lại càng dâng lên xót xa biết nhường nào. Tâm trạng buồn cùng với cảnh chiều tàn càng làm cho nỗi lòng người con gái thêm buồn tan nát. Nguyễn Du sử dụng linh hoạt hai từ láy “thấp thoáng, xa xa” và kết hợp với đại từ phiếm chỉ “ai” cho thấy nỗi chờ đợi, trông ngóng trong vô vọng của nàng. Không chỉ vậy, Nguyễn Du cũng rất tinh tế khi lựa chọn khoảng thời gian để bộc lộ tâm trạng, đó là thời gian buổi chiều, gợi nhắc gợi nhớ về hơi ấm gia đình. Đúng lúc ấy lại xuất hiện hình ảnh cánh buồm nhỏ bé trước cửa bể rộng lớn, làm cho nỗi hoang vắng mênh mông càng lớn hơn. Cánh buồn đó cũng chính là ẩn dụ cho thân phận bé nhỏ, lẻ loi của nàng. Hình ảnh cánh buồm xa xa với cửa bể chiều hôm dường như đối lập với nhau. Cửa bể rộng lớn bao la giữa đất trời là hình ảnh một chiếc thuyền nhỏ thấp thoáng giống như chính cuộc đời của nàng. Nàng cũng như chiếc thuyền kia lênh đênh ngoài biển khơi, không biết cuộc đời sẽ ra sao. Sự lẻ loi, đơn chiếc của chiếc thuyền phải chăng cũng chính là thân phận bơ vơ, côi cút của Kiều nơi góc bể chân trời, một mình cô độc.

Thu hẹp khoảng không gian, để tìm sự đồng điệu, thì trước mắt nàng lại hiện lên cảnh tan tác, chia lìa:

Buồn trông ngọn nước mới sa

Hoa trôi man mác biết là về đâu?

Thuyền trôi vô định, hoa cũng trôi vô định chẳng biết về đâu. Nhìn cánh hoa rơi nơi sóng nước, Kiều lại liên tưởng đến thân phận mình. Hình ảnh ẩn dụ “hoa trôi” là biểu tượng cho thân phận của nàng. Nàng đẹp như một đóa hoa chớm nở đầy sắc xuân thì. Vậy mà giờ đây lại trôi vô định giữa dòng đời và không biêt sẽ đi về đâu. “Buồn trong ngọn nước mới sa” – hay chính là những phong ba bão tố của cuộc đời vùi dập nàng không thương tiếc như cánh hoa tàn theo gió bay. Đời nàng cũng có khác chi một đóa phù dung sớm nở tối tàn. Hoa lìa cành hoa héo, hoa tàn, hoa rơi sóng nước sẽ bị gió dập sóng dồi. Câu hỏi tu từ “biết trôi về đâu” như một lời than thân trách phận, ai oán. Câu hỏi càng nhấn mạnh cho thấy rõ hơn nữa thân phận bọt bèo, bấp bênh, vô định của nàng. Nàng lênh đênh giữa dòng đời xuôi ngược, không biết đâu là bến bờ.Hình ảnh thơ gợi nhắc đến hình ảnh người phụ nữ trong câu ca dao xưa: “Thân em như tấm lụa đào/ Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai”. Dường như, Nguyễn Du quá thấu hiểu và đồng cảm với thân phận người phụ nữ, câu hỏi ông đặt ra cho Thúy Kiều hay chính là sự thấu hiểu của ông dành cho nàng. Một người phụ nữ biết được giá trị của mình, khao khát hạnh phúc nhưng lại không biết làm thế nào để hạnh phúc, không biết cuộc đời sẽ xô mình đi đâu. Nàng cũng như cánh chim lạc bầy trong giông tố không tự quyết định được tương lai của mình. Kiều cũng đang nhắm mắt đưa chân mặc dòng đời xô đẩy.

Sóng nước mênh mông, trôi nổi, Kiều nhìn xuống mặt đất cũng chỉ một màu vàng úa:

Buồn trông nội cỏ rầu rầu

Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.

Hình ảnh cỏ, đã nhiều lần xuất hiện trong thơ Nguyễn Du, là sắc xanh non mơn mởn trong ngày hội xuân, đầy sức sống: “Cỏ non xanh tận chân trời”. Nhưng đến đây sắc xanh ấy đâu còn nữa, mà thay vào đó là màu sắc của sự tàn tạ, héo úa. Đáng lẽ ra, màu xanh của cỏ hòa với màu xanh trời đất tạo nên sự sống, mãnh liệt thì giờ đây dưới ngòi bút của Nguyễn Du, cỏ trong đôi mắt thấm đẫm tâm trạng của nàng Kiều “rầu rầu” tàn lụi, héo úa. Tác giả tả màu xanh của cỏ nối tiếp nhau đến tận chân trời, nhưng màu xanh ấy không sắc nét mà nhòe mờ, pha lẫn vào nhau, có phần đơn điệu. Màu của cỏ là màu của sự héo úa lụi tàn hòa với màu xanh nhợt nhạt của đất trời tạo nên bức tranh u ám đúng với tâm trạng mà Kiều đang mang. Phải chăng trong dòng nước mắt cô đơn và tủi cực mà cái nhìn của nàng đã khiến những màu xanh kia càng trở nên sầu bi, héo tàn hơn. Tuổi thanh xuân tươi đẹp của Kiều, tài năng sắc sảo đủ mùi của nàng đã, đang và sẽ nhạt buồn vô vị như nội cỏ rầu rầu kia. Đây cũng là hình ảnh cho thấy sự thảm thương của cuộc đời Kiều, đường đời sóng gió khiến nàng tàn úa đến thảm thương. Đời Kiều rồi cũng giống như đời Đạm Tiên tài sắc vẹn toàn để rồi “Sống làm vợ khắp người ta / Hại thay thác xuống làm ma không chồng”.

 Một lần nữa nàng Kiều lắng lòng mình, để nghe những vang vọng của cuộc sống. Nhưng những thứ nàng nghe được chỉ là chuỗi âm thanh khủng khiếp. Nỗi buồn của nàng như được nhân lên gấp bội. Giờ đây nó không chỉ là buồn mà còn là sợ hãi:

Buồn trông gió cuốn mặt duềnh

Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.

Nếu những câu thơ trước đều là tĩnh thì hai câu cuối lại là động. Đó không phải là tiếng gió nhẹ nhàng thổi qua hay tiếng hát thiên thai mà đó là tiếng sóng. Tiếng sóng vồ vập nghe đầy sợ hãi. Tiếng sóng ồn ào náo nhiệt ầm ầm khiến con người ta chao đảo và bế tắc giữa cuộc đời. Đây không phải là tiếng sóng ngoài biển khơi, đây là tiếng sóng lòng. Tiếng sóng lòng của Kiều đang dồn dập vỗ về đầy sợ hãi. Đó cũng chính là dự cảm của nàng về số phận đầy bất hạnh, những giông tố đang đợi nàng phía trước. Kiều rơi vào trạng thái sợ hãi, âu lo đến tột cùng. Nàng đâu biết rằng, nỗi sợ hãi này sẽ đeo bám nàng suốt 15 năm sau và nó còn đeo bám nàng mãi về sau. Nó chính là dự báo cho những tai ương, những đau đớn mà Kiều sắp đi qua. Có lẽ Kiều đã phần nào dự đoán được tương lai của mình chỉ là sóng gió, truân chuyên, lênh đênh giữa biển đời. Nhưng bao giờ kết thúc thì nàng không thể biết. Khung cảnh được nhìn qua mắt Kiều đẫm màu sắc tâm trạng. Cảnh được Nguyễn Du miêu tả từ xa đến gần, màu sắc từ nhạt đến đậm, nỗi buồn diễn tả theo chiều tăng tiến từ man mác buồn, cô đơn cho đến âu lo, kinh sợ. Lúc này, Kiều rơi vào trạng thái tuyệt vọng và yếu đuối nhất, cũng bởi vậy trước những lời ngon ngọt của Sở Khanh nàng dễ dàng bị mắc lừa, để rồi nàng bị đẩy xuống bùn nhơ của cuộc đời: “Thanh y hai lượt thanh lâu hai lần”.

Với điệp từ “Buồn trông” liên tục sử dụng trong 8 câu cuối, tác giả đã khắc họa lên được tâm trạng đau đớn, buồn xé lòng và đầy sợ hãi của Kiều trước hiện tại và tương lai. Đặc biệt với nghệ thuật tả cảnh ngụ tình cho thấy tài năng bút pháp của Nguyễn Du đã đạt đến đỉnh cao. Với những hình ảnh thiên nhiên hết đỗi thân thuộc, nhưng lai khiến người đọc hiểu, thấu cảm với cuộc đời nàng Kiều. Không cần những hình ảnh hoa mỹ, đẫm lệ, chỉ là ngọn cỏ rầu rầu, cánh thuyền xa xa hay sóng gập ghềnh quanh chân ghế cũng khiến độc giả hiểu được phần nào sự sợ hãi và dự báo về một tương lai đầy sóng gió của Kiều. Những câu hỏi tu từ cùng với một loạt các từ láy gợi hình gợi cảm đã góp phần làm xô dậy những cơn sóng lòng của Kiều. Tám câu thơ cuối chính là kiệt tác nghệ thuật tả cảnh ngụ tình. Nguyễn Du đã khắc họa lên một bức tranh với nhiều trạng thái cảm xúc cô đơn, sợ hãi về tương lai mù mịt của nàng Kiều. Qua bức tranh đấy, ông cũng gửi gắm tâm trạng cảm thông sâu sắc đến cuộc đời nàng và lên án xã hội phong kiến hà khắc đã đẩy cuộc đời người phụ nữ đến bước đường cùng. Cảm thương thay, thân phận người phụ nữ xã hội xưa chỉ như cánh hoa mỏng trôi lênh đênh giữa dòng đời.

Nguyễn Du đã từng viết:

Đau đớn thay phận đàn bà

Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.

Đó là tiếng nấc nghẹn ngào cho thân phận bất hạnh của người phụ nữ trong xã hội đương thời mà Nguyễn Du khóc thương thay cho họ. Người phụ nữ đương thời, ai cũng đều thùy mị, đảm đang nhưng chẳng bao giờ giữ được hạnh phúc cho riêng mình. Đến cả việc mưu cầu hạnh phúc cũng chỉ như một giấc mơ xa vời với họ. Họ mang thân phận người phụ nữ hèn mọn, dù mỗi người một cuộc sống riêng, nhưng chẳng ai thoát khỏi sức nặng của hai từ “bạc mệnh. Ta có thể thấy rõ được điều đó qua nhân vật Thúy Kiều và Vũ Nương trong hai tác phẩm của hai tác giả đại tài. Ở Vũ Nương, nàng mang nét đẹp “thùy mị, nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp”, luôn biết cách dung hòa mặc cho tính khí của chồng khi “giữ gìn khuôn phép, chưa từng lúc nào để vợ chồng xảy ra bất hòa”. Nàng luôn một lòng một dạ vì gia đình, không hề than thở hay mong cầu vinh hoa phú quý. Với Thúy Kiều, nàng là một người con gái tài sắc vẹn toàn. Khi gia đình gặp biến cố, nàng đã không ngại đối diện với thị phi, với tương lai mù mịt phía trước để bán mình chuộc cha. Và rồi, nàng bỏ lỡ lời hẹn thề với Kim Trọng - người mà nàng yêu thương nhất. Cuộc đời nàng dẫu có bao nhiêu biến cố, bao nhiêu thăng trầm, nhưng nàng vẫn cam chịu, vẫn lo nghĩ cho Kim Trọng, cho gia đình mà chẳng màng đến bản thân. Nàng có một tâm hồn thủy chung và cao thượng. Đó cũng chính là nét đẹp chung của những người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Họ đẹp người đẹp nết, dẫu đời đưa họ vào cảnh khốn cùng, họ vẫn luôn một lòng thủy chung, hiếu thảo với gia đình, mặc kệ bản thân chịu dày vò trong hố đen tuyệt vọng.

Họ đẹp đẽ là thế, đáng trân trọng là thế, nhưng họ lại sống trong một xã hội quá thối nát với bộ máy quan lại mục rỗng, với tư tưởng lạc hậu trọng nam khinh nữ. Họ càng xinh đẹp thì càng phải chịu cảnh bất công “hồng nhan bạc phận”. Vũ Nương cứ ngỡ sẽ được sum vầy hạnh phúc nếu luôn chăm lo chu toàn mọi thứ, nhưng số phận bạc bẽo lại trêu ngươi nàng. Đến cả khi nàng chết trong oan ức, nàng cũng không được nhớ nhung, không được thương tâm. Đáp lại nàng chỉ là sự hời hợt, vô tâm của người chồng. Và chính cái chết của nàng đã tố cáo xã hội phong kiến lúc bấy giờ. Cái xã hội ấy đã đẩy người phụ nữ vào đường cùng, ban cho họ thân phận thấp hèn và một cuộc đời bi thương. Còn Thúy Kiều, nàng dường như có cuộc sống lênh đênh hơn Vũ Nương rất nhiều bởi những biến cố đi qua và hằn sâu vết sẹo vào đời nàng. Gia đình nàng vì đồng tiền hôi tanh mà phải chia ly, tan tác. Nàng cũng vì thế mà phải bán mình chuộc cha, để rồi trở thành món hàng không hơn không kém trong tay bọn buôn người. Đau đớn thay cho nàng, một người con gái trong trắng, tài sắc vẹn toàn nay chỉ là một món đồ chơi của bọn khách làng chơi. Không chỉ thế, nàng còn phải chịu cảnh đời lênh đênh bèo dạt, lưu lạc mười lăm năm và bị giáng xuống đầu muôn vàng tai ương. Vũ Nương và Thúy Kiều chính là những nhân vật đại diện cho số phận người phụ nữ trong xã hội xưa. Họ không có quyền lợi, không có tự do, cũng chẳng có quyền được hạnh phúc - một cái quyền cơ bản nhất của con người. Họ bị hủ tục thối nát của xã hội phong kiến đẩy xuống vực sâu, chịu muôn vàn tủi hờn và đau thương. Dù họ cam chịu hay vùng vẫy, họ cũng chẳng bao giờ thoát được nanh vuốt của xã hội thối nát đó.

Bằng tấm lòng nhân đạo sâu sắc, cao cả, Nguyễn Dữ và Nguyễn Du đã miêu tả chân thực và đầy xót xa số phận của người phụ nữ trong xã hội cũ. Viết về những người đàn bà bất hạnh, đẹp người đẹp nết này, các nhà văn, nhà thơ đã dành một sự ca ngợi, một sự nâng niu vô bờ bến. Chúng ta cảm nhận được điều đó và càng thương xót cho thân phận của họ hơn bao giờ hết.

Khép lại trang sách nhưng tôi vẫn thấy lòng ngổn ngang và thương thay cho thân phận người phụ nữ xưa như nàng Kiều, Vũ Nương. Những người con gái đẹp người đẹp nết như họ đáng lẽ ra phải có một cuộc đời bình an, yên ấm bên gia đình mới đúng. Vậy mà, “hồng nhan bạc mệnh”, bao nhiêu truân chuyên của đời dường như họ gánh hết. Dường như, đây chính là thực tại của xã hội phong kiến thối nát, đã dày vò một người con gái đẹp đầy sức sống trở nên tàn lụi, héo úa giữa cuộc đời. Nguyễn Dữ và Nguyễn Du đã đi trước thời đại, ông đã nhìn thấy được sự bất công của xã hội. Các ông thấy được nỗi lòng của Kiều, của Vũ Nương chính là nỗi lòng của hàng trăm ngàn phụ nữ thời bấy giờ. Vậy nên, đọc thơ văn của hai ông chúng ta như cảm nhận được cả máu ở đầu bút, nước mắt trong từng câu thơ, rất nhân văn và sâu sắc.

 

 

 

 

   

Việc thực sự đọc, chìm lắng vào một nội dung văn học là việc ngày càng hiếm thấy trong đời sống đương đại.


 Trong thời đại 4.0 với công nghệ phát triển, chúng ta hình thành nên thói quen lướt Facebook hay Instagram để cập nhật tin tức, truy cập các trang báo mạng hàng ngày với mong muốn “bắt kịp xu hướng” và nghĩ rằng những gì chúng ta đọc được đã là quá đủ. Có lẽ vì vậy, chúng ta thường hay quên đi những giá trị đích thực mà văn học mang lại. Hiện tại, việc thực sự đọc, chìm lắng vào một nội dung văn học là việc ngày càng hiếm thấy trong đời sống đương đại.

Việc thực sự đọc, chìm lắng vào một nội dung văn học là cách đọc nghiêm túc, chìm lắng vào một nội dung văn học sâu sắc sẽ giúp người ta “có khả năng thấu hiểu, cảm thông và nhìn nhận sự việc từ nhiều góc độ”. Đó là việc mỗi cá nhân cần làm.

Thói quen đọc sách trong xã hội hiện nay ngày càng giảm.Sách văn học ít được lựa chọn để đọc, nhất là trong giới trẻ hiện nay. Trong đời sống hiện nay, ít người “thực sự đọc, chìm lắng vào một nội dung văn học”, thay vào đó là kiểu đọc “mì ăn liền” lướt qua các trang mạng. Họ bận tâm tới việc kiểm tra thông báo Facebook hay lướt mạng xã hội. Đây là một hiện tượng đáng lo ngại bởi cách đọc “mì ăn liền” ấy không thể giúp người ta có khả năng “thấu hiểu, cảm thông và nhìn nhận sự việc từ nhiều góc độ”.

Thói quen đọc sách, nhất là sách văn học, đang bị mai một bởi sự phát triển như vũ bão của các phương tiện nghe nhìn có kết nối mạng internet như laptop, smartphone, máy tính bảng… đã khiến việc tập trung làm việc, đọc sách trở nên quá ư là khó khăn. Hơn nữa, do nhịp sống hiện đại, người ta có xu hướng đọc những tác phẩm ngắn hoặc đọc lướt nội dung của văn bản để nắm được ý chính…Và con người có nhiều mối bận tâm khác nên nhu cầu đọc sách văn học cũng giảm sút. Với sự phát triển của mạng xã hội, con người dễ tìm kiếm thông tin hơn nên ít có nhu cầu tìm đọc sách, nhất là sách văn học. Một phần nữa là do thị trường sách tràn lan, con người khó chọn lựa cho mình được thể loại phù hợp.

Việc thiếu đi thói quen đọc nghiêm túc gây ảnh hưởng tới sự phát triển trí tuệ và cảm xúc của những thế hệ “sống trên mạng”. Đọc sách thường xuyên giúp đầu óc bạn trở nên nhạy bén và tinh tường hơn. Không có thói quen đọc nghiêm túc, thiếu chú tâm, không thực sự chìm lắng vào thế giới của văn học khiến con người thiếu đi sự nhạy bén, thông minh; không có khả năng thấu hiểu, cảm thông, chia sẻ; không có khả năng nhìn nhận vấn đề trong cuộc sống từ nhiều góc độ. Do không đọc sách, khi họ không đồng tình với một vài ý kiến của ai đó, họ không biết phải tư duy, phản bác lại với lập luận, lý lẽ của riêng mình. Việc không thưởng thức văn chương khiến cho trí tưởng tượng không phát triển. Họ thiếu kỹ năng lập luận và phản biện và không có cái nhìn toàn diện hơn về cuộc sống, củng cố và gia tăng kiến thức cần thiết trong giao tiếp, học tập hay công việc. 

Việc thiếu thói quen đọc sách văn học nghiêm túc khiến con người không biết cách ứng xử ôn hòa, thân thiện; thậm chí không được yêu thương. Họ không thể đặt mình vào vị trí của người khác, hiểu những suy tư, cảm nhận của người khác. Họ gặp khó khăn với việc diễn đạt ý nghĩ cũng như giao tiếp xã hội nói chung. Không phân biệt được cái thiện, cái ác, việc gì nên làm, việc gì không nên hiểu cách sống hướng thiện, và những việc làm tử tế vì sự phát triển chung của cộng đồng.

Không phải tất cả mọi người đều đã quay lưng với văn học đích thực. Vì thế, việc người ta có “thực sự đọc, chìm lắng vào một nội dung văn học” hay không phụ thuộc nhiều vào việc có hay không những tác phẩm văn học có giá trị. Trong thực tế chúng ta thấy những tác phẩm văn học có giá trị được in thành sách vẫn có sức hấp dẫn lớn đối với nhiều người. Chúng ta vẫn bắt gặp hiện tượng những tác phẩm hay khi ra đời đã thu hút sự chú ý của rất nhiều độc giả, Harry Potter là một ví dụ.

Mỗi người cần phải tự xây dựng cho mình một thói quen đọc sách và thói quen thường xuyên đọc sách văn học và cổ vũ mọi người đọc sách văn học để trở nên thông minh và tốt tính hơn. Mỗi người cần tìm kiếm xem mình thích đọc thể loại văn học nào. Cần hiểu là chăm đọc sách văn học là một cách góp phần làm cho những lối sống tốt đẹp, những giá trị nhân văn được nhân rộng hơn lên trong thế giới này.Các cơ quan tổ chức như trường học, cơ sở làm việc cần tổ chức các buổi chia sẻ về sách để mọi người có cơ hội bày tỏ quan điểm của mình về những cuốn sách mình đã đọc. Nhà trường và gia đình cần tạo điều kiện tối ưu thời gian và trải nghiệm đọc của con em mình.

Là học sinh mỗi người chúng ta cần rèn luyện thói quen chú tâm đọc một nội dung sâu sắc để trở thành người có khả năng thấu cảm tốt. Không nên đọc theo kiểu “mì ăn liền”, nhất là đối với các tác phẩm văn học, bởi nó sẽ gây ảnh hưởng không tốt tới sự phát triển trí tuệ, tư tưởng và tình cảm, cảm xúc của chúng ta. Chỉ cần 15 tới 20 phút đọc sách mỗi ngày, ta sẽ ngạc nhiên trước hiệu quả không ngờ mà nó mang lại.

Ở các quốc gia phát triển luôn đánh giá cao sức mạnh to lớn của văn chương đối với sự phát triển của các thành viên trong xã hội. Bởi vậy, Bạn nên có thói quen đọc sách và chọn sách là bạn đồng hành trên con đường hướng đến thành công của bạn. Bạn hãy trân trọng từng quyển sách và hãy cố gắng tiếp thu và thực hành những kiến thức trong sách – chắc chắn bạn sẽ có được những thứ mà bạn muốn!

Đọc sách văn học mang đến nhiều lợi ích


 

Nhà văn John Green từng nói: “Sách giống như những kẻ si tình bị bỏ rơi: khi bạn rời xa thì luôn luôn chờ đợi bạn; khi bạn quan tâm thì bạn luôn nhận được hồi đáp”. Ngoài lợi ích đem lại nguồn tri thức mới, sách văn học còn đem lại cho bạn nhiều “giá trị” hơn thế. Đọc sách văn học lại mang đến nhiều lợi ích mà chính những người đọc đôi khi cũng không nhận thấy.

Sách văn học là sáng tác cụ thể, văn bản bằng ngôn ngữ hoàn chỉnh mô phỏng lại cuộc sống, vẽ lên một bức tranh sống động về hoạt động của con người, con vật, đồ vật,…Thông qua bức tranh đó, người viết có thể gửi gắm, truyền đạt tới độc giả những tâm tư, tình cảm, tư tưởng và thể hiện được cả thái độ cá nhân trước cuộc sống hiện thực. Một tác phẩm văn học hay mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc mà còn có tính thẩm mỹ đọng lại trong tâm trí người đọc một cảm xúc nhất định, khiến độc giả phải suy ngẫm, thấu hiểu và thậm chí còn làm cho họ nhìn nhận lại bản thân thông qua những gì mà nhà văn viết.

Chẳng phải ngẫu nhiên mà ngay từ thuở ấu thơ ta thường được nghe bà kể chuyện cổ tích và cũng chẳng phải ngẫu nhiên mà ngay những ngày đầu còn bập bẹ tập đọc, ta được học những mẩu truyện ngắn. Truyện cổ tích hay truyện ngắn chính là những thể loại của văn học. Sách văn học là loại sách đáng đọc nhất trên đời!

Không khô khan như những cuốn sách khoa học hay khó hiểu như sách triết học, văn học nhẹ nhàng đưa bạn vào một thế giới tưởng tượng với những câu truyện hấp dẫn. Trí tưởng tượng giúp bạn thúc đẩy năng khiếu và khả năng sáng tạo nghệ thuật trong mỗi con người. Tiểu thuyết văn học chính là một ví dụ tuyệt vời về nghệ thuật vì nó có một không gian lớn cho sự diễn giải. Tiếp cận với một cuốn tiểu thuyết ta sẽ có vô vàn sự tưởng tượng khác nhau. Đây như một “môi trường” rộng mở, kích thích khả năng sáng tạo từ trí tưởng tượng phong phú của bạn.

Trong hầu hết các câu chuyện hư cấu mà tiểu thuyết văn học tạo dựng nên đều có một nhân vật chính là người đã vượt qua rất nhiều nghịch cảnh để trở thành người anh hùng. Những câu chuyện này cho phép chúng ta cảm nhận như thể chúng ta đang trải qua cuộc hành trình ở vị trí của các nhân vật. Sách đưa ta đến một thế giới tưởng tượng trong truyện và sống với thế giới “ảo “ trong truyện. Kết quả là, họ cho chúng ta lòng can đảm để trở thành người anh hùng của chính mình dù là trong giúp đỡ gia đình chúng ta hay theo đuổi một ý tưởng trong cuộc đời.

Không những giúp phát triển trí tưởng tượng, những câu chuyện văn học còn giúp bồi đắp thế giới tâm hồn của mỗi người,tạo sự thương cảm, niềm đồng cảm, chia sẻ với đồng loại, biết yêu thương và san sẻ đối với mọi người xung quanh. Khi chúng ta đọc các câu chuyện, chúng ta thoát khỏi cách nhìn của những người xung quanh để đón nhận những gì xảy ra đối với các nhân vật được hư cấu. Bạn có thể vui với niềm vui của nhân vật, buồn với nỗi buồn của nhân vật, thậm chí là phẫn nộ khi nhân vật chịu oan ức hay hãm hại. Vì thế, chúng ta có xu hướng thể hiện cảm xúc thực nhiều hơn. Sự thể hiện cảm xúc này không bị mất đi mà được lưu lại và dần dần đi vào cuộc sống hàng ngày làm cho chúng ta trở nên chân thật hơn.

Đọc sách là cách hay nhất giúp bạn thư giãn và sống thật với chính mình. Đọc sách cũng là một hình thức giải trí hiệu quả, giúp bạn quên đi những mệ mỏi và áp lực trong cuộc sống.Việc đọc sách có thể mang lại cho bạn một cảm giác bình yên chỉ sau vài phút. Những người đọc thường xuyên cũng ngủ tốt hơn, có mức độ căng thẳng và trầm cảm thấp hơn, trong khi lòng tự trọng cao hơn những người không đọc.

Thói quen đọc sách, nhất là sách văn học, đang bị mai một bởi sự phát triển như vũ bão của các phương tiện nghe nhìn có kết nối mạng internet, thay vì cầm sách, nhất là sách văn học để đọc, người ta thường đọc trên máy tính, máy tính bảng, điện thoại,… Hơn nữa, do nhịp sống hiện đại, người ta có xu hướng đọc những tác phẩm ngăn hoặc đọc lướt nội dung của văn bản để nắm được ý chính… Đây là một hiện tượng đáng lo ngại bởi cách đọc “mì ăn liền” ấy không thể giúp người ta có khả năng “thấu hiểu, cảm thông và nhìn nhận sự việc từ nhiều góc độ”.

Hãy hình thành thói quen đọc sách bắt đầu từ việc đọc sách văn học. Ngoài những giá trị mà sách văn học mang lại vừa kể trên thì lý do khiến ta nói sách văn học là loại sách đáng đọc nhất trên đời bởi đây là loại sách dễ đọc. Những cuốn truyện ngắn, truyện dài, thơ, tiểu thuyết,…đều phù hợp với mọi trình độ, chứ không phải như những cuốn sách kinh tế đầy triết lý khoa học và suy tư. Có yêu truyện, yêu tiểu thuyết thì ta mới đủ “trình” để đọc những cuốn sách thuộc các thể loại khác. Sách văn học là loại sách đáng để đọc nhất trên đời, bởi nó là khởi đầu của mọi loại sách.

Chỉ cần 15 tới 20 phút đọc sách văn học mỗi ngày, bạn sẽ ngạc nhiên trước hiệu quả không ngờ mà nó mang lại. Với nhiều lợi ích đã trình bày như vậy, đã đủ để bạn tạm ngừng sử dụng mạng xã hội, và bắt đầu kiếm tìm một cuốn sách văn học chưa?

 

 

 

Chủ Nhật, 30 tháng 5, 2021

Vẻ đẹp và sự biến đổi kỳ diệu của thiên nhiên trong buổi giao mùa(K1,2 Sang thu)


 

Mỗi khoảnh khắc giao thoa giữa hai mùa Hạ và Thu luôn là thời điểm khiến cho lòng người cảm thấy xốn xang nhất. Khi mà cảnh vật hòa cùng với đất trời tạo nên một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp. Chẳng thế mà với một tâm hồn đậm chất thơ của mình Hữu Thỉnh đã vẽ nên một bức tranh thiên nhiên đất trời khi chuyển mùa sang Thu bằng chất liệu ngôn từ đẹp đẽ nhất và cũng lãng mạn nhất qua bài “Sang thu”. Đoạn thơ sau là những cảm nhận, những rung động man mác, bâng khuâng của tác giả trước vẻ đẹp và sự biến đổi kỳ diệu của thiên nhiên trong buổi giao mùa:

Bỗng nhận ra hương ổi

Phả vào trong gió se

Sương chùng chình qua ngõ

Hình như thu đã về

 

Sông được lúc dềnh dàng

Chim bắt đầu vội vã

Có đám mây mùa hạ

Vắt nửa mình sang thu

Mùa thu quê hương là đề tài gợi cảm xúc đối với thi nhân song mỗi người cảm xúc về mùa thu theo cảm nhận riêng của mình. Với nhà thơ Hữu Thỉnh, khoảnh khắc giao mùa từ hạ sang thu đã rung động hồn thơ để thi sĩ vẽ nên một bức tranh thơ: “Sang thu” thật hay. Bài thơ được viết theo thể thơ năm chữ: nhịp nhàng, khoan thai, êm ái, trầm lắng và thoáng chút suy tư… thể hiện một bức tranh thu trong sáng, đáng yêu ở vùng nông thôn đồng bằng Bắc Bộ.

“Sang thu” ở đây là chớm thu. Mùa hè vẫn chưa hết mà mùa thu đã bắt đầu tới với những tín hiệu đầu tiên. Trong khoảnh khắc giao mùa tuyệt vời, đất trời có những biến chuyển nhẹ nhàng mà rõ rệt. Nét đẹp chuyển thu thật tinh tế, dịu dàng. Trước những sự thay đổi tinh vi ấy, phải nhạy cảm lắm mới có thể cảm nhận được. Hữu Thỉnh đón nhận mùa thu từ những dấu hiệu đời thường, gần gũi.Và trong biết bao hương vị thân thuộc của làng quê, Hữu Thỉnh giật mình thảng thốt, nhận ra cái làn hương ngây ngất, ngọt ngào của trái ổi đầu mùa:

Bỗng nhận ra hương ổi

Phả vào trong gió se

Sương chùng chình qua ngõ

Hình như thu đã về

Hương ổi” thân thương sực thẳng vào miền kí ức, đánh thức hương vị của làng quê Bắc Bộ yêu thương. Đó là thứ hương vị thật dễ dàng để nhận ra ở chốn làng quê thôn dã. Nhưng có phải bởi quen thuộc quá nên đôi khi ta lãng quên? Để đến khi nhận ra hết thảy chúng ta đều không khỏi bất ngờ: “Bỗng nhận ra hương ổi”. Từ “bỗng” như được gieo lên trong niềm ngỡ ngàng ngạc nhiên. Từ bao giờ nhỉ, thu về? Tất cả đến với tác giả nhẹ nhàng mà cũng đột ngột quá, thu về với đất trời quê hương, với lòng người mà không hề báo trước. Để rồi trong phút giây ngỡ ngàng, nhà thơ chợt nhận ra hương thơm nồng nàn “phả” vào trong “gió se”.  Mùi hương ấy không hòa vào quyện vào mà “phả” vào trong gió. “Phả” nghĩa là bốc mạnh và tỏa ra từng luồng. Hữu Thỉnh đã không tả mà chỉ gợi, đem đến cho người đọc một sự liên tưởng thú vị: tại vườn tược quê nhà,những quả ổi chín vàng trên các cành cây kẽ lá tỏa ra hương thơm nức, thoang thoảng trong gió. Chỉ một chữ “phả” thôi cũng đủ gợi hương thơm như sánh lại. Sánh lại bởi hương đậm một phần, sánh bởi tại gió se. Nhận ra trong gió có hương ổi là cảm nhận tinh tế của một người sống giữa đồng quê và nhà thơ đã đem đến cho ta một tín hiệu mùa thu dân dã mà thi vị. Ông đã phát hiện một nét đẹp đáng yêu của mùa thu vàng nông thôn vùng đồng bằng Bắc Bộ. Cũng nhờ hương ổi, bức tranh giao mùa có một sức sống mạnh mẽ đến kì lạ, mà cũng bất ngờ cho lòng người. Hương ổi từ đó mà lan tỏa mãi trong không gian và rồi vấn vương trong gió se - cơn gió heo may đầu mùa.

Hữu Thỉnh có những cảm nhận rất tinh tế về sự thay đổi của đất trời, điều đó được thể hiện lần lượt qua khứu giác (hương ổi), rồi đến xúc giác (gió se) và bây giờ thì đến thị giác. Trước mắt nhà thơ, sương mở đường mở lối đi khắp đầu thôn, ngõ xóm. Không gian có sự hoà hợp giữa hương ổi dịu dàng, gió thu nhẹ nhẹ và sương thu mơ màng tạo nên một ấn tượng đặc biệt mà ta khó lòng quên được. Không phải là màn sương dày đặc, mịt mù mà là “Sương chùng chình qua ngõ” gợi ra những làn sương mỏng, mềm mại, giăng màn khắp đường thôn ngõ xóm làng quê. Nó làm cho khí thu mát mẻ và cảnh thu thơ mộng, huyền ảo, thong thả, bình yên. "Chùng chình" là sự cố ý muốn làm chậm lại, rung rinh, lay động. Nó mang dáng vẻ thong thả, nhẹ nhàng như thiễu nữ đôi mươi. Sương lén lút chậm rãi qua các ngõ hẻm. Ngõ không chỉ là không gian nối liền thôn xóm mà còn cửa ngõ thời gian nối liền hai mùa hạ – thu. Tinh tế và sâu sắc biết mấy cảm nhận của nhà thơ về thiên nhiên nhưng lại hiện lên rõ nét hình ảnh con người. Vạn vật trong thời khắc chuyển mùa vì thế càng trở nên duyên dáng, nhịp nhàng.  Cảm quan tinh tế cùa nhà thơ đã phát hiện ra vẻ đẹp rất riêng, rất duyên đó để rồi xao xuyến: "Hình như thu đã về". Nhờ “bỗng” mà “hình như” đã được sinh ra. “Hình như” là một tình thái từ thể hiện một quan điểm chưa chắc chắn, vẫn còn bâng khuâng không biết liệu rằng mùa thu đã về chưa. Lời reo vui cũng thì thầm nhỏ nhẹ, bâng khuâng vang lên trong lòng Hữu Thỉnh như bước đi của mùa thu. Bằng tất cả các giác quan: khứu giác, xúc giác và thị giác, nhà thơ cảm nhận những nét đặc trưng của mùa thu đều hiện diện. Có “hương ổi”, “gió se” và “sương”. Mùa thu đã về trên quê hương. Vậy mà nhà thơ vẫn còn dè dặt: “Hình như thu đã về”. Thu đến nhẹ nhàng quá, mơ hồ quá.

Sau giây phút ngỡ ngàng và khe khẽ vui mừng, cảm xúc của thi sĩ tiếp tục lan tỏa, mở ra trong cái nhìn xa hơn, rộng hơn:

Sông được lúc dềnh dàng

Chim bắt đầu vội vã

Có đám mây mùa hạ

Vắt nửa mình sang thu

Hơi thở của thu đã rõ rệt hơn. Sự hiện diện của thu không còn mơ hồ mà đã cụ thể, hữu hình trong thiên nhiên và tạo vật. Trong không gian rộng lớn hơn, từ bầu trời tới mặt đất, đâu đâu cũng thấy cảnh sắc nhuốm thu. Dòng sông chảy khoan thai, lững lờ, mà mềm mại và duyên dág chứ không ào ạt, cuộn dâng như trong hạ. Thế nhưng trái lại với vẻ chậm chạp của dòng sông, đàn chim trời lại đang vội vã, chuẩn bị cho một hành trình mới, khi thu sang, ngày ngắn, đêm dài và gió se đã thổi. Như vậy, mùa thu của Hữu Thỉnh không chỉ có bình yên, thư thả mà còn có cả sự vội vã, gấp gáp. Sông dưới mặt đất, chim ở trên trời; sông “dềnh dàng” chậm rãi, chim “vội vã” lo lắng,... Hai hình ảnh xinh xắn đối lập đó được đặt cạnh nhau để khái quát không gian mặt đất và bầu trời. Bức tranh mùa thu được cảm nhận bởi sự thay đổi của đất trời theo tốc độ di chuyển từ hạ sang thu, nhẹ nhàng mà rõ rệt. Thiên nhiên sang thu đã được cụ thể bằng những hình ảnh: “sông dềnh dàng”, “chim vội vã”, “đám mây vắt nửa mình”. Thiên nhiên đã được quan sát ở một không gian rộng hơn, nhiều tầng bậc hơn. Và bức tranh sang thu từ những gì vô hình như “hương ổi”,”gió se”, từ nhỏ hẹp như con ngõ chuyển sang những nét hữu hình, cụ thể với một không gian vừa dài rộng, vừa xa vời.

Trên nền trời xanh còn có hình ảnh một “đám mây mùa hạ / vắt nửa mình sang thu" diệu kì như chiếc cầu vồng rực rỡ sắc màu. “Đám mây” ở đây thực chất là đám mây mùa thu vẫn còn vương vấn một chút nắng hạ nên từ “vắt” được nhà thơ nói đến sinh động, có một chút gì đó bình dị, bởi lẽ dùng từ này là muốn nói rằng “đám mây” như một dải lụa mềm mại tạo nên chiếc cầu nổi giữa nhịp thời gian. Nhà thơ có liên tưởng thật thơ mộng, từ đó làm cho bầu trời trở nên kì diệu, trong lành hơn. Hãy tưởng tưởng xem, chút nắng vàng mùa hạ vẫn còn rụt rè sót lại ở một ngóc ngách nào đó trong bức tranh giao mùa, mùa thu êm đềm vừa chợt đến, khiến màu sắc có hơi trầm xuống, lại thêm đám mây ngỡ ngàng xuất hiện như vừa bước qua một không gian tĩnh lặng hơn. Hữu Thỉnh làm cho chúng ta cảm thấy vừa ảo lại có nét thực, vừa rõ ràng nhưng lại mơ hồ một cách kỳ lạ. Hình ảnh đám mây là một phát hiện rất mới lạ và độc đáo của Hữu Thĩnh. Nhưng trong thực tế không hề có đám mây nào như thế vì mắt thường đâu dễ nhìn thấy được sự phân chia rạch ròi của đám mây mùa hạ và thu. Đó chỉ là một sự liên tưởng thú vị - một hình ảnh đầy chất thơ. Thời khắc giao mùa được sáng tạo từ một hồn thơ tinh tế, nhạy cảm, độc đáo không những mang đến cho người đọc…mà còn đọng lại những nỗi bâng khuâng trước vẻ dịu dàng êm mát của mùa thu. Bức tranh chuyển mùa vì thế càng trở nên sinh động, giàu sắc gợi cảm, khiến cho người đọc cảm nhận sâu sắc cả về không gian và thời gian chuyển mùa thật là đẹp, thật là khêu gợi hồn thơ.

Có thể nói, Sang thu là một cuộc rượt đuổi cảm xúc của nhà thơ và thiên nhiên đất trời. Tác giả đã cảm nhận được và đã phác họa ra những hình ảnh giao mùa đơn giản mà xinh đẹp đó vào bài thơ và đã gợi lên được những hình ảnh thiên nhiên làng quê Bắc Bộ xinh đẹp khi thu sang. Bằng sự sáng tạo, những hình ảnh được miêu tả lại một cách mới mẻ mà lại gợi tả được những nét đặc trưng của khoảnh khắc mùa thu khi giao mùa.Với thể thơ 5 chữ, cách ngắt nhịp linh hoạt, giọng điệu tự nhiên nhẹ nhàng, ngôn ngữ hình ảnh trong sáng, giàu sức biểu cảm, sử dụng sáng tạo các biện pháp tu từnhư ẩn dụ, nhân hóa và sử dụng từ láy đã thể hiện được những cảm nhận, cảm xúc tinh tế của nhà thơ và sự biến đổi của đất trời từ cuối mùa hạ sang đầu mùa thu. “Sang thu” của Hữu Thỉnh là một thi phẩm hay viết về mùa thu trong văn học Việt Nam.

 Thiên nhiên có những chuyển đổi rất nhanh làm cho chúng ta đôi khi lãng quên mà không để ý đến. Chính vì vậy, nó sang thu thì đời người cũng sang thu. Con người lưu luyến chưa muốn chia tay mùa hạ, chia tay một tuổi đầy hăng hái, năng động. Nhưng đổi lại, khi sang thu, con người sẽ trở nên chững chạc hơn, mang một vẻ đẹp sang trọng thầm kín nhưng có một chút kiêu hãnh tự hào bởi sự trưởng thành của mình. Bài thơ Sang thu là một nguồn sức mạnh truyền cảm hứng cho tình yêu của ta đối với đất trời, đối với thiên nhiên. Nhờ Hữu Thỉnh mà ta đã tiếp nhận được ý thức sâu sắc về trách nhiệm của con người đối với chính bản thân trong cuộc đời.

Thứ Bảy, 29 tháng 5, 2021

Tình yêu thiên nhiên, văn hóa dân tộc khổ đầu và khổ cuối Mùa xuân nho nhỏ_ Liên hệ Sang thu; thực tế


 

Em hãy viết bài văn trình bày cảm nhận về thông điệp về Tình yêu thiên nhiên, văn hóa dân tộc qua đoạn thơ:

Mọc giữa dòng sông xanh

Một bông hoa tím biếc

Ơi con chim chiền chiện

Hót chi mà vang trời

Từng giọt long lanh rơi

Tôi đưa tay tôi hứng.

[…]

Mùa xuân ta xin hát

Câu Nam ai, Nam bình

Nước non ngàn dặm mình

Nước non ngàn dặm tình

Nhịp phách tiền đất Huế...

(Mùa xuân nho nhỏ,Thanh Hải)

Từ đó, liên hệ với một tác phẩm khác hoặc thực tế để làm nổi bật thông điệp được gợi ra từ đọan thơ.

Bài làm

Puskin từng viết: “Linh hồn là ấn tượng của một tác phẩm. Cây cỏ sống được là nhờ ánh sáng, chim muông sống được là nhờ tiếng ca, một tác phẩm sống được là nhờ tiếng lòng của người cầm bút”. Thanh Hải đã gửi cả lòng mình, để tiếng lòng mình cất lên trong “Mùa xuân nho nhỏ”. Bài thơ cũng chính là món quà cuối cùng nhà thơ dâng trọn cho cuộc đời những yêu thương. Ta cảm nhận được tiếng lòng tha thiết dành cho thiên nhiên và , văn hóa truyền thống, con người xứ Huế qua đoạn thơ:

Mọc giữa dòng sông xanh

Một bông hoa tím biếc

Ơi con chim chiền chiện

Hót chi mà vang trời

Từng giọt long lanh rơi

Tôi đưa tay tôi hứng.

[…]

Mùa xuân ta xin hát

Câu Nam ai, Nam bình

Nước non ngàn dặm mình

Nước non ngàn dặm tình

Nhịp phách tiền đất Huế...

 Thanh Hải đã chắp bút viết nên hồn thơ "Mùa xuân nho nhỏ" khi nhịp thở dần yếu ớt, khi miền đất chết đã cận kề. Mùa xuân nho nhỏ là tiếng lòng của người thi nhân đang hấp hối nhưng chớ lầm tưởng rằng tiếng lòng ấy sẽ bi quan, u uất. Thi phẩm là viên ngọc được kết tinh từ niềm ái mộ tha thiết của nhà thơ trước thiên nhiên, đất nước và cũng là nơi Thanh Hải gửi gắm niềm ước nguyện của mình. Mùa xuân nho nhỏ là một minh chứng rõ nét cho hồn cốt Huế, nơi mà sắc Huế, vẻ đẹp con người xứ Huế rạo rực, đầy sức sống khiến cho người thưởng thơ cũng muốn được một lần đặt chân tự mình chiêm nghiệm mảnh đất đầy nhớ thương này. Với giọng thơ hồ hởi, thiết tha đan xen những hình ảnh hồn xuân, sắc xuân, Thanh Hải đã dẫn bạn đọc đến với một mùa xuân tràn đầy tin yêu của mảnh đất Huế kinh kì hoa mộng, của đất nước Việt Nam.

Những câu thơ của Thanh Hải đưa ta đến bức tranh thiên nhiên mùa xuân với vẻ đẹp tự nhiên, nhẹ nhàng mà đặc trưng cho mùa xuân xứ Huế:

Mọc giữa dòng sông xanh

Một bông hoa tím biếc

Ơi con chim chiền chiện

Hót chi mà vang trời

Từng giọt long lanh rơi

Tôi đưa tay tôi hứng.

      "Mọc" là vươn lên để đón lấy những nắng gió cuộc đời, là sự trỗi dậy, sự thức tỉnh sau một giấc ngủ đông. Với phép đảo trật tự ngữ pháp, động từ “mọc” được đặt trước hình ảnh “dòng sông xanh” và “hoa tím biếc”, tác giả đã gợi được cái sức sống trỗi dậy, vươn mình của vạn vật trước mùa xuân, tô đậm sức sống mãnh liệt đến bất ngờ của thiên nhiên, tạo vật khi khoác lên mình chiếc áo của sự khởi đầu và hứng lấy những tinh chất quý giá của ngày xuân. Thanh Hải chọn cho mình những gam màu dịu dàng, nên thơ và rất đặc trưng của Huế cho bức tranh của mình.Bức tranh hiện lên sắc nét qua những hình ảnh chọn lọc, tiêu biểu, đó là dòng sông Hương thơ mộng, nước trong xanh êm đềm, điểm thêm sắc tím biếc mộng mơ của bông lục bình lững lờ trôi. Dòng sông đó đã hoà nhập với bầu trời xanh thẳm bên trên để biến thân thành một "dòng sông xanh". Chấm phá trên phông nền xanh xanh ấy là hình ảnh "một bông hoa tím biếc". Xuân miền Nam là hoa mai nhuộm màu vàng rạo rực của nắng. Xuân miền Bắc là cành đào e thẹn nép sau chiếc váy màu hồng nhạt. Còn mùa xuân của Huế, mùa xuân của Thanh Hải say đắm một đóa lục bình tím. Bút pháp chấm phá cùng điểm nhìn đặt vào một bông hoa nhỏ bé giữa dòng đã phần nào tạo nên điểm nhấn cho bức tranh. Và bức tranh ấy càng đẹp hơn, có "hồn" hơn khi màu tím kia được nhà thơ tô đậm lên thành "tím biếc". Gam màu ấy đã được tô vẽ vào bức tranh thật khéo léo, tài tình, làm cho người đọc có thể hình dung ra ngay trước mắt cả một bông hoa tím biếc, thật nhỏ, thật xinh, nhưng dường như cũng có đủ khả năng để nhuộm tím cả bầu trời, làm nồng ấm cả dòng sông, cả không gian mùa xuân đang căng tràn sức sống. Sắc màu ấy lan ra, chơi vơi, và khẽ lay động theo những ngọn gió xuân. Cảnh vật mùa xuân trong bài thơ có lẽ cũng bình dị, giản đơn, và thâm trầm, tĩnh lặng như vùng đất miền Trung quê hương tác giả. Xứ Huế vốn nổi tiếng mộng mơ với núi Ngự sông Hương, với những điệu hò mái nhì mái đẩy, giờ lại càng thêm xinh đẹp dưới ngòi bút tô vẽ của nhà thơ… Vùng đất Thần Kinh gây thương nhớ sắc tím thủy chung ôm trọn cả bầu trời xứ Huế trầm tư, cổ kính.

Cổ nhân từng nói:"Thi trung hữu nhạc" tức trong thơ trữ tình có nhịp điệu hòa quyện với nhạc, chứa đựng những thanh âm của nhà hát cuộc đời. Có lẽ vì vậy, Thanh Hải đã thả trọn những vang vọng của thiên nhiên đang độ xuân về vào vần thơ của mình:

Ơi con chim chiền chiện

Hót chi mà vang trời.

Xuân có họa, có nhạc với tiếng chim vang trời. Âm thanh rộn rã đã làm sống dậy cả không gian cao rộng, khoáng đạt và có lẽ nó cũng làm sống dậy, vực dậy cả một tâm hồn. Có thứ âm hưởng thật ngọt ngào, dịu dàng trong "ngôn ngữ Huế". Thiên nhiên và con người hòa làm một, để vỡ òa mà cất lên thành tiếng “ơi” ngỡ ngàng, thích thú mà cũng thật da diết khôn nguôi. Hình bóng tình yêu xứ Huế tha thiết, chân thành của Thanh Hải được cất lên trìu mến, thân thương bằng từ "ơi" mộc mạc, gần gũi và lời trách yêu "hót chi mà". Trong bản trường ca mùa xuân, chàng nghệ sĩ chiền chiện đã cất cao tiếng hát trong veo, thánh thót và ngân nga. Hàng ngày ngồi bên cửa sổ phòng bệnh, màu tím biếc của hoa, sắc xanh của dòng nước và điệp khúc của tiếng chim cứ gợn trong mắt, âm vang bên tai nhà thơ. Cần có bao nhiêu say mê, tình yêu thiên nhiên phải tha thiết đến đâu, để rồi trong thời khắc nghiệt ngã như vậy, bằng sự tài hoa của ngòi bút, sự thăng hoa trong tâm hồn, Thanh Hải vẫn tạo nên một khoảng trời xuân xốn xao, rạo rực và rung động hồn người đến thế. Mùa xuân đẹp đến mức làm cho trái tim của một người gần đất xa trời phải bừng tỉnh hay chính sức sống mãnh liệt, niềm tin yêu cuộc sống của nhà thơ đã thổi vào trong từng câu chữ những màu sắc và âm thanh của sự hồi sinh. Thiên nhiên vốn luôn rộng mở, hồi đáp con người, đặc biệt là người nghệ sỹ yêu cái đẹp. Mùa xuân ấy, dù là mùa xuân tươi trẻ của những năm về trước khi nhà thơ được tận mắt chứng kiến hay dẫu chỉ là xuân trong tâm tưởng thì quả thật Thanh Hải, bất kể trong khoảnh khắc nào vẫn luôn nâng niu, luôn trân trọng, vẫn muốn ôm trọn vào lòng tất thảy sức sống mơn mởn của mùa xuân.

Mùa xuân được Thanh Hải cảm nhận bằng cả thị giác, thính giác và xúc giác. Từ cái có thể nghe được (thính giác) đến cái có thể nhìn thấy được (thị giác) và cuối cùng là cái có thể nắm bắt được (xúc giác). Mọi cảm xúc được lên men và nhà thơ như ngây ngất trước vẻ đẹp của thiên nhiêu xứ Huế:

Từng giọt long lanh rơi

Tôi đưa tay tôi hứng.

Không đơn giản là bức tranh xuân mà là cả trái tim, là nỗi niềm của người nghệ sĩ sau những con chữ, sau mỗi lời thơ. Tâm hồn phải nhạy cảm, tinh tế đến nhường nào để cảm nhận được “từng giọt long lanh rơi”, để đưa đôi bàn tay, đưa cả cõi lòng “hứng” trọn. "Giọt long lanh" - hình ảnh giàu sức gợi và ẩn chứa muôn trùng sắc thái. Đó phải chăng là dư âm của trận mưa đọng lại trên phiến lá? Hay mùa gió xuân đã thổi những hạt phấn của nắng sớm phủ lên giọt sương mai nơi kẽ lá, như những viên pha lê xinh đẹp? Có lẽ là tất cả và còn nhiều hơn nữa. Đó cũng là giọt hạnh phúc của tình đời đượm thắm cả đất trời, hòa quyện vào tâm hồn thi sĩ. Trong mối liên kết với câu thơ trước, tiếng chim hồn nhiên, trong trẻo mà da diết dưới vòm trời cao rộng đã kết đọng lại thành từng "giọt âm thanh" rơi xuống hồn người, chạm vào cõi sâu lặng, khuấy lên bao nỗi niềm của nhà thơ. Bằng tâm hồn tinh tế và điểm nhìn nghệ thuật độc đáo, ông đã hình tượng hóa tiếng chim như suối nguồn âm thanh tuôn chảy trong ánh sáng rạng rỡ. Tiếng chim từ chỗ được lắng nghe bằng thính giác chuyển sang thị giác rồi xúc giác. Đó chính là nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác được Thanh Hải sử dụng một cách tài tình. Thi nhân vội vàng đưa đôi bàn tay để "hứng" lấy thứ quà tặng của thiên nhiên xứ Huế với một sự đón nhận, nâng niu, trân quý như sợ rằng, nếu không làm như vậy thứ âm thanh ngọt lành kia sẽ chìm vào thinh vắng. Đại từ "tôi" được điệp hai lần đã gợi nên khát khao được ôm trọn vào lòng tất cả tinh hoa của cuộc sống, được tận hưởng, chiếm lĩnh và giao hòa với bản hoà tấu mùa xuân.

Chỉ với vài nét hoạ, đan xen một chút chất nhạc, Thanh Hải đã phác họa được một kiệt tác tuyệt sắc mang điệu hồn thơ mộng, trữ tình của mùa xuân đất Huế căng tràn sức sống. Huế vừa cổ kính vừa nên thơ, vừa trữ tình vừa trầm mặc; bước vào trang thơ của Thanh Hải một cách tự nhiên. Có lẽ phải đắm mình trong dòng sông Hương hiền hòa, phải tận mắt ngắm nhìn núi Ngự mộng mơ, phải lớn lên cùng với những khúc nhạc trữ tình của ca Huế mới có thể lột tả được hết những điều rất Huế. Cảm phục biết bao trái tim thi nhân yêu thiên nhiên, yêu cảnh vật và quê hương đến vô ngần.

Sau khi bày tỏ rằng bản thân chẳng mong muốn những điều lớn lao mà đơn giản chỉ là “Một mùa xuân nho nhỏ – Lặng lẽ dâng cho đời”, nhà thơ đã cất lời ca ngợi quê hương đất nước qua điệu dân ca xứ Huế. Sau những buồn vui, thành bại, quê hương vẫn là nơi đón nhận, là "phòng triển lãm" lưu giữ những gì còn lại của đời người. Khúc ca cuối cùng của Thanh Hải vẫn hướng về vẻ đẹp quê hương, vẫn là khúc ca giành cho Huế:

Mùa xuân ta xin hát

Câu Nam ai Nam bình

Nước non ngàn dặm mình

Nước non ngàn dặm tình

Nhịp phách tiền đất Huế

Câu thơ “mùa xuân ta xin hát” vang lên xiết bao bồi hồi, ước muốn, khao khát của Thanh Hải được tái hiện rõ nét trước mắt độc giả. Trước mùa xuân của đất trời, mùa xuân thắng lợi của Tổ quốc, tác giả muốn cất tiếng ca, muốn hòa mình vào không khí rộn ràng ấy. Khúc Nam ai” và “Nam bình” ở đây chính là hai điệu dân ca ngọt ngào của Huế mộng mơ. Khúc “Nam ai” là khúc nhạc buồn thương, da diết gợi nên thước phim quá khứ đầy hy sinh, khổ đau mà đất nước đã trải qua. Và trong tiết xuân hiền hoà, ấm áp của hiện tại ta thấy ngân vang khúc “Nam bình” - khúc nhạc êm ái, trìu mến. Những âm điệu đặc trưng của Huế đã hoà vào dòng máu của nhà thơ, đã trở thành một phần của linh hồn và luôn thường trực trong "ốc đảo" trái tim. Nhắc đến hai làn điệu này, nhà thơ muốn ca ngợi và thể hiện lòng yêu mến của mình đối với di sản văn hóa phi vật thể của quê hương ông nói riêng và dân tộc Việt Nam nói chung. Bằng điệp ngữ "nước non ngàn dặm" kết hợp gieo vần bằng "bình, mình, tình" làm cho âm hưởng bài thơ ngọt ngào, dịu nhẹ như làn điệu dân ca trữ tình xứ Huế. Như bao người con khác của dân tộc, nhà thơ yêu từng con sông, dãy núi, yêu cánh đồng có con cò “bay lả bay la”, yêu tiếng mẹ ầu ơ mỗi chiều say ngủ. Ông muốn khắc ghi thật sâu, thật rõ vẻ đẹp của quê hương đất nước mình, nơi mà ông đã dành cả đời cống hiến, hy sinh, dành cả tuổi xuân để yêu thương, gìn giữ. Có lẽ trong những ngày tháng nằm trên giường bệnh, khi bị tử thần rình rập, nhà thơ lại thấy quê hương của mình đẹp hơn, bản sắc quê hương mình cũng đáng tự hào hơn. Đây cũng là cách để nhà thơ thể hiện tình yêu quê hương, nguồn cội. Nhà thơ rất yêu mến quê hương thơ mộng của mình, có lẽ cũng từ đó mà nhà thơ có thể mở rộng tình cảm để yêu mến đất nước, mới có thể cống hiến cả cuộc đời cho nước nhà. Bởi lẽ, chỉ có những người biết yêu thương quê hương xóm làng thì mới có thể mở rộng lòng mình để yêu mến đất nước dân tộc. Bài thơ khép lại với "nhịp phách tiền" rộn ràng, xao động. Đó là điệu nhạc của cuộc sống mới, sức sống mới của dân tộc. Con đò xứ Huế trên dòng sông Hương chở theo những câu hò xao xuyến, bay bổng, điệu hò chậm rãi, miên man, tiếng hò bâng khuâng, da diết rót vào hồn người. Để mỗi khi nghe hò là người ta nhớ đến Huế:

Tiếng hát đâu mà nghe nhớ

Mái nhì man mác nước sông Hương. (Tố Hữu)

Đọc những dòng thơ tràn đầy nhiệt huyết và khao khát mãnh liệt như thế này, ít ai ngờ rằng nó xuất phát từ một tâm trí, một trái tim, một sự sống yếu ớt sắp về với đất mẹ. Chính tình cảm phải gọi là phi thường và đặc biệt này đã khiến cho tác phẩm của Thanh Hải giờ đây vẫn còn vang vọng mãi, trường tồn mãi với thời gian, với tuổi xuân của đất nước, đi ngược lại mọi quy luật khắc nghiệt của nhân sinh, tạo hóa.

Bài thơ không chỉ hay về ý tứ mà còn hay về nhạc điệu. Câu thơ 5 tiếng ngắt nhịp 3/2 xen với 2/3 linh hoạt...Không chỉ ngắt nhịp linh hoạt, nhà thơ còn chú ý dùng vần trắc cuối năm khổ thơ, tạo một âm vang giòn giã như thể nhịp phách tiền...” (Trần Đình Sử, Đọc văn học văn). Thả hồn vào Mùa xuân nho nhỏ, ta có thể cảm nhận được chất thi vị trong hồn thơ Thanh Hải. Bài thơ mang âm hưởng trong sáng, nhẹ nhàng, tha thiết. Giọng điệu bài thơ phù hợp với cảm xúc của tác giả: vui, say sưa với vẻ đẹp của mùa xuân thiên nhiên, rồi phấn chấn, hối hả trước khí thế lao động của đất nước, sâu đó là sự trầm lắng, suy tư. Hình ảnh tự nhiên, giản dị mà ảnh giàu ý nghĩa biểu tượng. Tất cả hòa quyện với nhau, tạo nên niềm lạc quan, tin tưởng cất lên thành khúc ca rộn rã, ca ngợi quê hương, Tổ quốc trên con đường tiến lên phía trước. Đoạn thơ nói riêng và bài thơ nói chung không chỉ đem lại cho ta những rung động thẩm mĩ mà còn hướng ta tới những gì tốt đẹp nhất của cuộc đời và làm ta yêu mến cuộc sống hơn.

Thiên nhiên luôn là người bạn thân thiết gắn bó với con người và là nguồn cảm hứng sáng tạo của người nghệ sĩ. Nhà thơ không chỉ yêu thích ngắm nhìn vẻ đẹp phong phú, bí ẩn của thiên nhiên mà còn gởi gắm trong đó những tâm tư thầm kín, những chiêm nghiệm sâu sắc về lẽ sống, về cuộc đời. Chúng ta có thể bắt gặp điều này qua bài thơ Sang thu của Hữu Thỉnh. Đến với Sang thu, chúng ta ngỡ ngàng nhận ra bức tranh mùa thu êm đềm nên thơ, dịu mát, không ồn ào, náo động mà trầm lắng, suy tư. Thiên nhiên cảnh vật trong khoảnh khắc giao mùa hết sức nhẹ nhàng và tinh tế. Bước đi của thời gian khiến lòng tác giả bồi hồi, xao xuyến. Xao xuyến không chỉ vì cái đẹp nên thơ, thanh sạch, tươi mát của thiên nhiên cảnh vật khi xuân đến thu sang mà còn là sự xao xuyến bởi khát vọng hòa nhập, gắn kết mình với thiên nhiên ấy.Chứa đựng trong đó là biết bao nỗi luyến lưu bịn rịn, ngập ngừng do dự của một con người. Thi nhân như muốn cưỡng lại thời gian, muốn níu giữ chút gì đó những năm tháng tuổi trẻ của đời mình. Bài thơ không chỉ đơn thuần là tả cảnh mà còn nói lên những suy nghĩ chiêm nghiệm sâu sắc của con người về lẽ sống, cuộc đời. Sang thu là bài thơ tiêu biểu cho phong cách của Hữu Thỉnh: tinh tế và triết lí.

Với cách biểu đạt nhẹ nhàng, tinh tế hai bài thơ Sang thu của Hữu Thỉnh và Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải đã thể hiện cái đẹp nồng thắn, mê say của cảnh sắc thiện nhiên đất trời. Hai thi phẩm là tiếng hát của thiên nhiên đất trời, là tiếng nói ngân vang của cõi lòng những người với tình yêu dạt dào dành cho quê hương, đất nước. Thanh Hải và Hữu Thỉnh đã tặng cho người đọc cái rộn ràng của sắc xuân cùng với một chút lắng đọng thật êm khi thu đến. Nếu Thanh Hải cho ta cảm nhận cái rộn ràng, say mê cống hiến cùng niềm tin yêu Tổ quốc, thì Hữu Thỉnh lại mang đến cái dân dã, mộc mạc, đẩy rung cảm và thân quen. Dẫu hai ngòi bút nghệ thuật khắc họa hai đường nét đặc sắc khác nhau nhưng đâu đó ta vẫn thấy ngân vang lên yêu thiên nhiên nồng nàn say đắm, tầm hồn thi sĩ luôn lạc quan và say sưa trong niềm cảm hứng bất tận với cảnh sắc quê hương. Ở đó, thiên nhiên vừa tươi đẹp, tràn trào sức sống vừa chứa đựng tâm tư, suy nghiệm của con người về cuộc đời, về lẽ sống. Hồn thơ cứ nhẹ nhàng mà thấm thía, lặng lẽ mà chạm đến ngưỡng rung động vĩnh hằng của trái tim người đọc. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, con người cũng luôn tìm kiếm một tiếng nói chung với thiên nhiên để tìm kiếm một sự hợp nhất viên mãn nhất. Đó là niềm vui, là hạnh phúc, là lối sống đẹp mà con người luôn hướng tới.

Đối với thi nhân, thiên nhiên là tri kỉ, là tình nhân. Vũ trụ là gia đình, là nơi nương náu tâm hồn. Bởi thế, họ luôn biết nâng niu vẻ đẹp giao hòa giản dị của thiên nhiên bình dị, đều xúc động trước những sự việc rất tầm thường của vạn vật cỏ cây. Thi nhân âm thầm quan sát thiên nhiên và bằng tâm hồn rỗng ràng sẵn sàng hòa điệu cùng vũ trụ, cảm nhận vẻ đẹp của tự nhiên. Và đôi khi, sự tương thông của lòng người với nhau không phải qua lời nói bề ngoài ồn ào mà sự tương giao ấy biểu hiện qua cái tĩnh lặng say mê với cảnh vật. Chính cái không lời vĩnh viễn ấy mới thấu biết được mọi lẽ trong cõi hiện sinh đầy mệt nhọc này. Hai tác phẩm Sang thu của Hữu Thỉnh và Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải là minh chứng cho điều đó. Bởi lẽ họ đã tác động và khơi gợi được "những ngọn lửa" tư tưởng tích cực, tiến bộ neo đậu trong trái tim độc giả trẻ rằng ta phải sống ý nghĩa. Tràn lấp trong các dòng thơ là vẻ đẹp của hoa cỏ, núi sông, là thanh âm của sự sống. Ta cũng thấy được cái cảm giác an nhiên, viên mãn giữa tự nhiên khoáng đạt và rộng lớn. Và ẩn sâu trong đó là khát vọng trường tồn cùng thiên nhiên, vũ trụ ấy.

Liên hệ việc bảo vệ môi trường thiên nhiên

Ngày nay, ô nhiễm môi trường ở nước ta đang là vấn đề đáng báo động, nó trở thành thách thức lớn của toàn nhân loại trên thế giới. Môi trường sống của chúng ta đang bị, đe dọa, tàn phá và bị ô nhiễm nghiêm trọng, nguyên nhân phần lớn là bởi con người đã khai thác tài nguyên thiê nhiên quá mức mà ra. Hành động bỏ rác bừa bãi ra sông, hồ, hay thậm chí ngoài biển lớn, trong lòng đại dương có vô số rác thải nhựa cũng như các lưới đánh cá khiến cho đời sống của các sinh vật biển bị tổn hại nghiêm trọng. Thêm vào đó, hành động chặt phá cây rừng để phục vụ mục đích riêng, cũng gây nên thiệt hại về người và của, ví dụ điển hành là các cơn bão lũ vừa qua tại các tỉnh miền Trung.

Cho dù tuổi đời còn nhỏ nhưng chúng ta, các bạn cũng hoàn toàn có thể có các hành động thiết thực để bảo vệ môi trường sống, bảo vệ môi trường tự nhiên,… Như Bác Hồ từng có câu “Tuổi nhỏ làm việc nhỏ”, và với câu hỏi học sinh cần làm gì để bảo vệ môi trường xanh sạch đẹp thì cũng mang ý nghĩa tương tự như vậy. Chúng ta có thể tham gia trồng cây xanh ngay trong chính khuôn viên trường học và nhà ở của các em theo hướng dẫn của thầy cô, hoặc ba mẹ. Hãy thường xuyên quét dọn lớp học, làm sạch khuôn viên nhà ở, đường phố tại địa phương mình đang sống đã là một hành động mang ý nghĩa tốt đẹp trong việc bảo vệ môi trường. Tùy theo độ tuổi chúng ta có thể chọn cho mình các hoạt động bảo vệ môi trường phù hợp. Đối với các bạn nhỏ có thể tham gia các cuộc thi liên quan đến bảo vệ môi trường và động vật hoang dã bởi nhà trường tổ chức để trang bị thêm kiến thức. Đối với những em học sinh lớn cuối cấp thì có thể tham gia vào các câu lạc bộ, hoặc các tổ chức bảo vệ môi trường và phòng chống biến đổi khí hậu, bảo vệ hệ sinh thái mang quy mô lớn hơn. Hãy nâng cao ý thức và hành động bảo vệ thiên nhiên cho bản thân và những người xung quanh như các thành viên trong gia đình, hàng xóm xung quanh cùng hành động để bảo vệ thiên nhiên. Là một bộ phận chiếm số lượng lớn trong toàn thể dân số cả nước Việt Nam, Các bạn học sinh nên có thể thấy vai trò và trách nhiệm của sinh viên, học sinh trong việc bảo vệ môi trường là rất lớn. Khi tất cả chúng ta nâng cao được ý thức bảo vệ môi trường xung quanh thì không chỉ có một lực lượng lớn tham gia vào công việc hữu ích này mà còn các tác động tích cực tới hành động và ý thức của một bộ phận những người xung quanh mình. Nhờ đó mà có thể lan tỏa các hành động ý nghĩa tích cực trong cuộc sống về vấn đề bảo vệ môi trường.

 Cái đẹp trác tuyệt, kỳ vĩ nhất không đâu xa, mà chính là ở cảnh quan thiên nhiên. Vẻ mỹ lệ vốn có của thiên nhiên như một chất xúc tác tạo nên sự rung cảm tinh tế làm cho con người thêm tin yêu, trân quý cuộc sống. Cũng nhờ sự chở che, khoáng đạt của thiên nhiên mà nhiều văn nhân, thi sĩ đã sống thêm được một cuộc đời-một cuộc đời ngất ngây, đắm chìm giữa đất trời và một cuộc đời hiển hiện trong những áng văn, vần thơ tươi đẹp. Thiên nhiên là nguồn sữa ngọt ngào nhất nuôi dưỡng chúng ta cả về thể chất lẫn tâm hồn, lẽ nào chúng ta lại phản bội lại thiên nhiên? Thiên nhiên ban tặng cho con người nhiều thứ, vậy mà ta không biết giữ gìn và bảo vệ nó. Hãy đối xử tốt với thiên nhiên, sống thân thiện với môi trường, mỗi người sẽ tận hưởng được những giây phút thư giãn, thoải mái trong bầu không khí trong lành, được tận hưởng những cảnh thiên nhiên tươi đẹp.

Thứ Sáu, 28 tháng 5, 2021

Cảm nhận về tình cha con của ông Sáu và bé Thu trong giây phút chia tay

 


Cảm nhận về tình cha con của ông Sáu và bé Thu trong đoạn trích sau:

Đến lúc chia tay, mang ba lô lên vai, sau khi bắt tay hết mọi người, anh Sáu mới đưa mắt nhìn con, thấy nó đứng trong góc nhà.

Chắc anh cũng muốn ôm con, hôn con, nhưng hình như cũng lại sợ nó giẫy lên lại bỏ chạy, nên anh chỉ đứng nhìn nó. Anh nhìn với đôi mắt trìu mến lẫn buồn rầu. Tôi thấy đôi mắt mênh mông của con bé bỗng xôn xao.

- Thôi! Ba đi nghe con! – Anh Sáu khe khẽ nói.

Chúng tôi, mọi người – kể cả anh, đều tưởng con bé sẽ đứng yên đó thôi. Nhưng thật lạ lùng, đến lúc ấy, tình cha con như bỗng nổi dậy trong người nó, trong lúc không ai ngờ đến thì nó bỗng kêu thét lên:

- Ba…a…a… ba!

Tiếng kêu của nó như tiếng xé, xé sự im lặng và xé cả ruột gan mọi người, nghe thật xót xa. Đó là tiếng “ba” mà nó cố đè nén trong bao nhiêu năm nay, tiếng “ba” như vỡ tung ra từ đáy lòng nó, nó vừa kêu vừa chạy xô tới, nhanh như một con sóc, nó chạy thót lên và dang hai tay ôm chặt lấy cổ ba nó. Tôi thấy làn tóc tơ sau ót nó như dựng đứng lên.

Nó vừa ôm chặt lấy cổ ba nó vừa nói trong tiếng khóc:

- Ba! Không cho ba đi nữa! Ba ở nhà với con!

Ba nó bế nó lên. Nó hôn ba nó cùng khắp. Nó hôn tóc, hôn cổ, hôn vai và hôn cả vết thẹo dài bên má của ba nó nữa...

[…]

Trong lúc đó, nó vẫn ôm chặt lấy ba nó. Không ghìm được xúc động và không muốn cho con thấy mình khóc, anh Sáu một tay ôm con, một tay rút khăn lau nước mắt, rồi hôn lên mái tóc con:

- Ba đi rồi ba ba về với con.

- Không! – Con bé hét lên, hai tay siết chặt lấy cổ, chắc nó nghĩ hai tay không thể giữ được ba nó, nó dang cả hai chân rồi câu chặt lấy ba nó, và đôi vai nhỏ bé của nó run run.

(Nguyễn Quang Sáng, Chiếc lược ngà, Ngữ văn 9, tập 1)

Bài làm

Chiến tranh có thể tàn phá những gì trên đường nó đi qua, duy nhất tình cảm gia đình không bom đạn nào có thể hủy diệt được. Điều này thể hiện rõ trong truyện ngắn Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng. Truyện được viết tại chiến trường miền Đông Nam Bộ thời kháng chiến chống Mĩ (1966). Toàn bộ câu chuyện kể về tình cha con trong hoàn cảnh éo le của chiến tranh. Xuyên suốt tác phẩm là tình phụ tử của ông Sáu và bé Thu với những chi tiết, hành động khiến người đọc thổn thức, xót xa. Câu chuyện với nhiều tình tiết hấp dẫn đã lấy đi những giọt nước mắt yêu thương của người đọc, nhiều nhất phải nói đến cảnh trước lúc ông Sáu mang ba lô trở lại chiến trường.

Câu chuyện kể về hoàn cảnh của anh Sáu và bé Thu đoàn tụ sau tám năm xa cách. Ngày từ chiến trường trở về, con bé không nhận anh là cha vì vết sẹo in dài trên má. Trong những ngày ông Sáu ở nhà, vì vết thẹo dữ tợn ở bên má phải mà bé Thu cho rằng ông Sáu là người xa lạ, là kẻ xấu, bé nhất định không nhận ba mặc cho ông Sáu dỗ dành, cưng chiều. Đến bữa cơm cuối cùng trước lúc ra đi, ông Sáu gắp cái trứng cá cho bé Thu nhưng nó đã hất ra làm cơm văng tung toé khắp mâm. Trong lúc giận giữ ông Sáu đánh bé Thu. Bé Thu im lặng gắp trứng cá bỏ vào bát rồi chèo xuồng sang nhà bà ngoại. Ở đây, bé Thu được bà ngoại giải thích, em nhận ra ba nhưng vì trời tối bé ngủ lại nhà bà sáng mai mới về. Thu đâu ngờ lúc mình nhận ra ba cũng là lúc ba phải ra đi, bé Thu đứng ở góc nhà, một phần là vì để người lớn chuẩn bị, một phần có lẽ do bé buồn, buồn vì ba phải đi, buồn vì những hành động ngốc nghếch của mình. Bé đứng đó vì muốn nhìn rõ ba hơn, muốn nhìn cả dáng người ba, người mà mẹ, mà bản thân luôn mong chờ suốt mấy năm qua. Bé Thu đứng đó cũng có thể do bé cô đơn, bé cảm thấy ba không quan tâm thương yêu mình nữa.

Trái ngược với cảm xúc hỗn loạn của bé Thu, ông Sáu nhìn con “với đôi mắt trìu mến lẫn buồn rầu”. Chắc ông Sáu rất xót xa, con gái yêu đang đứng đó nhưng ông không thể ôm con, hôn con vì sợ “nó giẫy lên lại bỏ chạy”, ông “chỉ đứng nhìn nó”. Đọc đoạn trích, người đọc thương bé Thu sống thiếu tình ba, yêu ba đến cố chấp, bé chỉ yêu thương người ba “thực sự” – người chụp ảnh cùng má, cũng vì thế mà bé không chấp nhận ông Sáu. Người đọc cũng xót xa, cũng thương ông Sáu, ông yêu con, thương con mà đến lúc đi vẫn chỉ có thể đứng nhìn con từ xa và con gái không nhận mình là ba. Tất cả những nỗi đau thương xót xa trên chỉ vì chiến tranh, vì tham vọng của các nước đế quốc đã phát động chiến tranh phá vỡ bao gia đình hạnh phúc, khiến họ tan cửa, nát nhà, cha con, mẹ con lạc nhau, không nhận ra nhau …

Từ cái nhìn tinh tế, tác giả đã nhận ra những biến đổi nhỏ ở bé Thu “tôi thấy đôi mắt mênh mông của con bé bỗng xôn xao”, khi ông Sáu nói lời tạm biệt mọi người, trong lúc ông Sáu cứ nghĩ bé Thu vẫn chưa nhận ra ông Sáu là cha. Bé Thu vẫn đứng yên đó thôi nhưng tình cha con của bé Thu đã trỗi dậy, bé thu bỗng kêu thét lên: “Ba …a …a … ba”. Tác giả sử dụng từ “kêu thét” mà không phải là kêu gào, kêu lớn, đã phần nào diến tả tâm trang của bé Thu: lo sợ, buồn tủi. Bé kêu thét – sự đột ngột, sự dồn nén cảm xúc đã từ lâu giờ mới có cơ hội để thổ lộ. “Tiếng kêu của nó như tiếng xé, xé sự im lặng và xé cả ruột gan mọi người, nghe thật xót xa”, tiếng kêu đó xé cả bức tường mỏng manh ngăn dòng cảm xúc của người đọc, tất cả như vỡ oà, người đọc thổn thức cùng bé Thu, thổn thức với tình cảm của bé.

Tiếng “ba” này em đã ấp ủ lâu biết bao nhiêu, nuôi dưỡng nó lớn lên từng ngày, tiếng “ba” như “vỡ tung ra từ đáy lòng”. Tình cảm dồn nén biết bao năm nay vỡ tung qua tiếng gọi “ba”, qua hành động của bé: “nó vừa kêu vừa chạy xô tới, nhanh như một con sóc”, em chạy thật nhanh vì sợ ba đi mất, người ba mà em đã chờ thật lâu chuẩn bị đi rồi, em leo lên người ba, vòng tay qua cổ ba, ôm thật chặt, rồi như sợ không giữ được ba, em còn giữ chặt bằng cả hai chân – Một suy nghĩ trẻ thơ đánh mạnh vào trái tim người đọc, em dùng tất cả sức mình để giữ chặt ba lại. Tác giả tinh tế chỉ ra điểm đặc biệt, điểm nổi bật của tình cảm mà bé Thu dành cho ba: “Tôi thấy làn tóc tơ sau ót nó như dựng đứng lên”. Tóc tơ rất nhỏ, rất mảnh, mềm và thường rất khó thấy nhưng tác giả lại thấy nó như dựng đứng lên – sự run rẩy, sợ hãi của một đứa trẻ đến tột độ, đến ngay cả sợi tóc tơ dường như cũng có cảm xúc.

Được ba bế lên, bé Thu hôn tóc, hôn cổ, hôn vai, bé còn hôn cả vết thẹo dài trên má của ông Sáu nữa. Không chỉ từ tiếng gọi “ba” thừa nhận ông Sáu, bé Thu còn hôn cả vết thẹo, bé muốn nói rằng bé không còn ghét bỏ vết thẹo này nữa, bé thương ba nên thương cả vết thẹo – kết quả sự tàn ác của chiến tranh. Nhưng vừa nhận ba thì cũng là lúc phải chia tay.Phải chăng lúc ấy Thu thật sự thấy xót xa, ân hận về lỗi lầm của mình, thật sự thấy xót thương người cha đau khổ? Nó mếu máo “Ba về! Ba mua cho con một cây lược nghe ba…”. Tất cả lời nói thể hiện rõ tính cách của một cô bé bồng bột thơ ngây và chứng tỏ lòng yêu thương vô bờ của em đối với ba. Thật sâu sắc và cao đẹp biết bao. Có lẽ lúc này bé Thu đã trở thành một người lớn thực sự. Tất cả sự dỗi hờn của bé Thu lúc này đều chuyển thành lòng yêu thương sâu sắc ba nó. Trong cái ương ngạnh, bướng bỉnh, trong cái giận dỗi và cả sự hối hận của Thu, ta vẫn thấy bé thật thơ ngây, thật đáng yêu.

Từ nỗi thất vọng sau chuyến về thăm nhà, từ sự hối hận vì lỡ tay đánh con. Mặt đối mặt, tình rất gần nhưng anh vẫn thấy khoảng cách với con rất xa. Mang ba lô lên vai rồi anh cũng không dám lại gần con vì sợ nó bỏ chạy, hoàn cảnh thật trớ trêu và xót xa: “Anh nhìn với đôi mắt trìu mến lẫn buồn rầu” và cất tiếng chào khe khẽ: “Thôi! Ba đi nghe con!”. Được con gọi “ba”, được con ôm hôn anh sung sướng vô cùng, sung sướng đến trào nước mắt. Đó là giọt nước mắt hạnh phúc của người cha khi nhận được tình ruột thịt từ con. Và không muốn cho con thấy mình khóc, anh Sáu một tay ôm con một tay rút khăn lau nước mắt rồi hôn lên mái tóc con…Thế là con bé đã gọi anh bằng ba. Ai có thể ngờ được một người lính đã dày dạn nơi chiến trường và quen với cái chết cận kề lại là người vô cùng mềm yếu trong tình cảm cha con. Sau bao năm tháng mong chờ, đau khổ, anh Sáu đã được đón nhận một niềm vui vô bờ. Bây giờ anh có thể ra đi với một yên tâm lớn rằng ở quê nhà có một đứa con gái thân yêu luôn chờ đợi anh, từng giây từng phút mong anh quay về. Nhưng giây phút được gần con quá ngắn ngủi, ngay lúc này anh phải trở về đơn vị nhận nhiệm vụ mới thế là anh lại phải gác tình riêng theo tiếng gọi thiêng liêng của tổ quốc. Hai cha con phải chia tay nhau trong nước mắt, trong sự bịn rịn lưu luyến.

 Đoạn trích bộc lộ được tình cảm cha con sâu sắc giữa bé Thu với ba với nghệ thuật miêu tả tâm lí và xây dựng tính cách nhân vật đặc sắc: Từ chỗ Thu ngạc nhiên hoảng sợ đến lạnh lùng, cuối cùng là sự bùng nổ những yêu thương do bị dồn nén. Thể hiện được điều đó chứng tỏ tác giả am hiểu tâm lí trẻ em, yêu mến, trân trọng những tình cảm trẻ thơ. Bằng ngôn ngữ giản dị, đậm chất Nam Bộ kết hợp tình huống bất ngờ hợp lí,đã thể hiện một cách chân thực và cảm động tình cảm yêu thương sâu nặng của hai cha con trong hoàn cảnh chiến tranh khốc liệt. Nguyễn Quang Sáng ca ngợi tình cha con vĩnh hằng, lên án chiến tranh phi nghĩa đã phá huỷ, chia cắt biết bao gia đình, đó là bài học về hạnh phúc gia đình. Chúng ta cần trân trọng, gìn giữ và bảo vệ gia đình – hạnh phúc trong cuộc sống của mỗi chúng ta.

Nguyễn Quang Sáng đã rất thành công khi xây dựng tình cảm cha con giữa ông Sáu và bé Thu. Đọc thiên truyện, người đọc hẳn đã có lần rơi lệ vì cảm động. Và còn vì thấy trong đó thấp thoáng đâu đây bóng dáng bản thân, của người cha thân yêu của mình nữa. Tình phụ tử đó chính là một trong những thứ tình cảm thiêng liêng nhất trong cõi đời này. Và bởi thế, đọc “Chiếc lược ngà” để ta trân trọng hơn những người thân yêu ruột thịt quanh mình, trân trọng hơn những tình cảm sâu sắc ta đang được nhận. Và hơn hết, đọc thiên truyện ngắn này, ta biết yêu thương, sẻ chia và sống xứng đáng với những đấng sinh thành của bản thân. Không chỉ gợi những tình cảm trong sáng, cao quý, “Chiếc lược ngà” còn mang đến cho người đọc những bài học nhân sinh đầy nhân ái. Và vì thế, đây thực sự là một thiên truyện hay trong hành trang của những người Việt trẻ!

Bùi Thị Mai Yến (Học sinh lớp 9A- THCS Nguyễn Biểu)