Thứ Hai, 31 tháng 5, 2021

Phân tích Tám câu thơ cuối đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”. Từ đó liên hệ với một tác phẩm khác để làm nổi bật số phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến.


 
Bỗng quý cô Kiều như đời dân tộc,

Chữ kiên trinh vượt trăm sóng Tiền Đường.

Chàng Kim đã đến tìm, lau giọt khóc?

Và lò trầm đêm ấy tỏa bay hương …

 (Đọc Kiều – Chế Lan Viên)

   Những vần thơ trên đây của Chế Lan Viên đã gợi thương gợi nhớ trong lòng ta về cuộc đời bạc mệnh của người con gái tài sắc Thúy Kiều. Nàng Kiều đẹp cả ở ngoại hình và nhân cách nhưng lại phải chịu nhiều cảnh tang thương, bất hạnh. Đau đớn nhất có lẽ là khi cô đơn ở lầu Ngưng Bích, bị giam lỏng, cầm tù và mường tượng về tương lai sóng gió sau này của chính mình. Trong trích đoạn “Kiều ở lầu ngưng bích”, Nguyễn Du đã biến khung cảnh thiên nhiên thành phương tiện để miêu tả tâm trạng của con người. Bi kịch nội tâm của nàng Kiều đã được Nguyễn Du diễn tả qua bức tranh thiên nhiên phong phú khi nàng ở lầu Ngưng Bích. Minh chứng đầy đủ nhất cho điều ấy là tám câu thơ cuối đoạn trích:

Buồn trông cửa bể chiều hôm,

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?

Buồn trông ngọn nước mới sa,

Hoa trôi man mác biết là về đâu?

Buồn trông nội cỏ rầu rầu,

Chăn mây mặt đất một màu xanh xanh.

Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,

Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.

Có thể thấy tám câu thơ đã đạt đến mẫu mực của bút pháp tả cảnh ngụ tình.

Trích đoạn “Kiều ở lầu ngưng bích” là một trong những trích đoạn hay tiêu biểu cho nghệ thuật tả cảnh ngụ tình tuyệt vời khiến người đọc như thấu hiểu tâm can người con gái phải xa gia đình, lênh đênh giữa dòng đời và không biết phiêu dạt về đâu. Đây cũng chính là cảnh đầu tiên trong suốt 15 năm lưu lạc, truân chuyên của Kiều. Vì vậy, tâm trạng Kiều lúc này vô cùng ngổn ngang, sợ hãi và vô định. Đặc biệt tám câu thơ cuối cũng cho thấy tài năng phân tích, nghệ thuật tả cảnh ngụ tình bậc thầy của Nguyễn Du. Bức tranh phong cảnh lầu Ngưng Bích không chỉ đơn thuần là phong cảnh mà đó còn là bức tranh tâm trạng.

Ngòi bút của Nguyễn Du hết sức tinh tế khi tả cảnh cũng như ngụ tình. Cảnh và tình uốn lượn song song, mỗi cảnh là một bức tranh tâm trạng. Cảnh được miêu tả từ xa đến gần, màu sắc từ nhạt đến đậm, âm thanh từ tĩnh đến động, nỗi buồn từ man mác đến âu lo, kinh sợ. Cảnh vật thay đổi, bốn bức tranh tạo thành một bộ tranh tứ bình về tâm trạng của Kiều. Đọc những câu thơ cuối người đọc cũng cảm thấy thương xót, đau đáu cho cuộc đời phía trước của Kiều. Đoạn thơ chia ra làm bốn cặp lục bát, mở đầu mỗi cảnh là điệp từ “buồn trông” xuất hiện với âm hưởng trầm buồn, báo hiệu biết bao sóng gió, khó khăn phía trước. Đồng thời mỗi cặp lục bát cũng tương ứng với một nét tâm trạng của Thúy Kiều.

Điệp từ “Buồn” liên tục được nhắc lại chứng tỏ tâm trạng Thúy Kiều vô cùng rầu rĩ. Người ta thường nói “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Nó rất đúng trong hoàn cảnh này của Kiều. Đối với nàng cảnh vật xung quanh đều là màu u tối giống như tâm trạng của nàng. Nỗi buồn như xoáy vào tâm can, tạo thành từng lớp sóng trào. Mở đầu là khung cảnh biển nước mênh mông:

Buồn trông cửa bể chiều hôm

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?

Chiều hôm chính là cảnh hoàng hôn. Cảnh buổi chiều thường khiến cho người ta liên tưởng đến cảnh đoàn tụ, được trở về bên quê hương gia đình. Nhưng với Kiều đó chỉ là nỗi khao khát, nhớ nhung cha mẹ mà thôi. Trong buổi chiều hôm ấy nỗi nhớ cha mẹ lại càng dâng lên xót xa biết nhường nào. Tâm trạng buồn cùng với cảnh chiều tàn càng làm cho nỗi lòng người con gái thêm buồn tan nát. Nguyễn Du sử dụng linh hoạt hai từ láy “thấp thoáng, xa xa” và kết hợp với đại từ phiếm chỉ “ai” cho thấy nỗi chờ đợi, trông ngóng trong vô vọng của nàng. Không chỉ vậy, Nguyễn Du cũng rất tinh tế khi lựa chọn khoảng thời gian để bộc lộ tâm trạng, đó là thời gian buổi chiều, gợi nhắc gợi nhớ về hơi ấm gia đình. Đúng lúc ấy lại xuất hiện hình ảnh cánh buồm nhỏ bé trước cửa bể rộng lớn, làm cho nỗi hoang vắng mênh mông càng lớn hơn. Cánh buồn đó cũng chính là ẩn dụ cho thân phận bé nhỏ, lẻ loi của nàng. Hình ảnh cánh buồm xa xa với cửa bể chiều hôm dường như đối lập với nhau. Cửa bể rộng lớn bao la giữa đất trời là hình ảnh một chiếc thuyền nhỏ thấp thoáng giống như chính cuộc đời của nàng. Nàng cũng như chiếc thuyền kia lênh đênh ngoài biển khơi, không biết cuộc đời sẽ ra sao. Sự lẻ loi, đơn chiếc của chiếc thuyền phải chăng cũng chính là thân phận bơ vơ, côi cút của Kiều nơi góc bể chân trời, một mình cô độc.

Thu hẹp khoảng không gian, để tìm sự đồng điệu, thì trước mắt nàng lại hiện lên cảnh tan tác, chia lìa:

Buồn trông ngọn nước mới sa

Hoa trôi man mác biết là về đâu?

Thuyền trôi vô định, hoa cũng trôi vô định chẳng biết về đâu. Nhìn cánh hoa rơi nơi sóng nước, Kiều lại liên tưởng đến thân phận mình. Hình ảnh ẩn dụ “hoa trôi” là biểu tượng cho thân phận của nàng. Nàng đẹp như một đóa hoa chớm nở đầy sắc xuân thì. Vậy mà giờ đây lại trôi vô định giữa dòng đời và không biêt sẽ đi về đâu. “Buồn trong ngọn nước mới sa” – hay chính là những phong ba bão tố của cuộc đời vùi dập nàng không thương tiếc như cánh hoa tàn theo gió bay. Đời nàng cũng có khác chi một đóa phù dung sớm nở tối tàn. Hoa lìa cành hoa héo, hoa tàn, hoa rơi sóng nước sẽ bị gió dập sóng dồi. Câu hỏi tu từ “biết trôi về đâu” như một lời than thân trách phận, ai oán. Câu hỏi càng nhấn mạnh cho thấy rõ hơn nữa thân phận bọt bèo, bấp bênh, vô định của nàng. Nàng lênh đênh giữa dòng đời xuôi ngược, không biết đâu là bến bờ.Hình ảnh thơ gợi nhắc đến hình ảnh người phụ nữ trong câu ca dao xưa: “Thân em như tấm lụa đào/ Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai”. Dường như, Nguyễn Du quá thấu hiểu và đồng cảm với thân phận người phụ nữ, câu hỏi ông đặt ra cho Thúy Kiều hay chính là sự thấu hiểu của ông dành cho nàng. Một người phụ nữ biết được giá trị của mình, khao khát hạnh phúc nhưng lại không biết làm thế nào để hạnh phúc, không biết cuộc đời sẽ xô mình đi đâu. Nàng cũng như cánh chim lạc bầy trong giông tố không tự quyết định được tương lai của mình. Kiều cũng đang nhắm mắt đưa chân mặc dòng đời xô đẩy.

Sóng nước mênh mông, trôi nổi, Kiều nhìn xuống mặt đất cũng chỉ một màu vàng úa:

Buồn trông nội cỏ rầu rầu

Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.

Hình ảnh cỏ, đã nhiều lần xuất hiện trong thơ Nguyễn Du, là sắc xanh non mơn mởn trong ngày hội xuân, đầy sức sống: “Cỏ non xanh tận chân trời”. Nhưng đến đây sắc xanh ấy đâu còn nữa, mà thay vào đó là màu sắc của sự tàn tạ, héo úa. Đáng lẽ ra, màu xanh của cỏ hòa với màu xanh trời đất tạo nên sự sống, mãnh liệt thì giờ đây dưới ngòi bút của Nguyễn Du, cỏ trong đôi mắt thấm đẫm tâm trạng của nàng Kiều “rầu rầu” tàn lụi, héo úa. Tác giả tả màu xanh của cỏ nối tiếp nhau đến tận chân trời, nhưng màu xanh ấy không sắc nét mà nhòe mờ, pha lẫn vào nhau, có phần đơn điệu. Màu của cỏ là màu của sự héo úa lụi tàn hòa với màu xanh nhợt nhạt của đất trời tạo nên bức tranh u ám đúng với tâm trạng mà Kiều đang mang. Phải chăng trong dòng nước mắt cô đơn và tủi cực mà cái nhìn của nàng đã khiến những màu xanh kia càng trở nên sầu bi, héo tàn hơn. Tuổi thanh xuân tươi đẹp của Kiều, tài năng sắc sảo đủ mùi của nàng đã, đang và sẽ nhạt buồn vô vị như nội cỏ rầu rầu kia. Đây cũng là hình ảnh cho thấy sự thảm thương của cuộc đời Kiều, đường đời sóng gió khiến nàng tàn úa đến thảm thương. Đời Kiều rồi cũng giống như đời Đạm Tiên tài sắc vẹn toàn để rồi “Sống làm vợ khắp người ta / Hại thay thác xuống làm ma không chồng”.

 Một lần nữa nàng Kiều lắng lòng mình, để nghe những vang vọng của cuộc sống. Nhưng những thứ nàng nghe được chỉ là chuỗi âm thanh khủng khiếp. Nỗi buồn của nàng như được nhân lên gấp bội. Giờ đây nó không chỉ là buồn mà còn là sợ hãi:

Buồn trông gió cuốn mặt duềnh

Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.

Nếu những câu thơ trước đều là tĩnh thì hai câu cuối lại là động. Đó không phải là tiếng gió nhẹ nhàng thổi qua hay tiếng hát thiên thai mà đó là tiếng sóng. Tiếng sóng vồ vập nghe đầy sợ hãi. Tiếng sóng ồn ào náo nhiệt ầm ầm khiến con người ta chao đảo và bế tắc giữa cuộc đời. Đây không phải là tiếng sóng ngoài biển khơi, đây là tiếng sóng lòng. Tiếng sóng lòng của Kiều đang dồn dập vỗ về đầy sợ hãi. Đó cũng chính là dự cảm của nàng về số phận đầy bất hạnh, những giông tố đang đợi nàng phía trước. Kiều rơi vào trạng thái sợ hãi, âu lo đến tột cùng. Nàng đâu biết rằng, nỗi sợ hãi này sẽ đeo bám nàng suốt 15 năm sau và nó còn đeo bám nàng mãi về sau. Nó chính là dự báo cho những tai ương, những đau đớn mà Kiều sắp đi qua. Có lẽ Kiều đã phần nào dự đoán được tương lai của mình chỉ là sóng gió, truân chuyên, lênh đênh giữa biển đời. Nhưng bao giờ kết thúc thì nàng không thể biết. Khung cảnh được nhìn qua mắt Kiều đẫm màu sắc tâm trạng. Cảnh được Nguyễn Du miêu tả từ xa đến gần, màu sắc từ nhạt đến đậm, nỗi buồn diễn tả theo chiều tăng tiến từ man mác buồn, cô đơn cho đến âu lo, kinh sợ. Lúc này, Kiều rơi vào trạng thái tuyệt vọng và yếu đuối nhất, cũng bởi vậy trước những lời ngon ngọt của Sở Khanh nàng dễ dàng bị mắc lừa, để rồi nàng bị đẩy xuống bùn nhơ của cuộc đời: “Thanh y hai lượt thanh lâu hai lần”.

Với điệp từ “Buồn trông” liên tục sử dụng trong 8 câu cuối, tác giả đã khắc họa lên được tâm trạng đau đớn, buồn xé lòng và đầy sợ hãi của Kiều trước hiện tại và tương lai. Đặc biệt với nghệ thuật tả cảnh ngụ tình cho thấy tài năng bút pháp của Nguyễn Du đã đạt đến đỉnh cao. Với những hình ảnh thiên nhiên hết đỗi thân thuộc, nhưng lai khiến người đọc hiểu, thấu cảm với cuộc đời nàng Kiều. Không cần những hình ảnh hoa mỹ, đẫm lệ, chỉ là ngọn cỏ rầu rầu, cánh thuyền xa xa hay sóng gập ghềnh quanh chân ghế cũng khiến độc giả hiểu được phần nào sự sợ hãi và dự báo về một tương lai đầy sóng gió của Kiều. Những câu hỏi tu từ cùng với một loạt các từ láy gợi hình gợi cảm đã góp phần làm xô dậy những cơn sóng lòng của Kiều. Tám câu thơ cuối chính là kiệt tác nghệ thuật tả cảnh ngụ tình. Nguyễn Du đã khắc họa lên một bức tranh với nhiều trạng thái cảm xúc cô đơn, sợ hãi về tương lai mù mịt của nàng Kiều. Qua bức tranh đấy, ông cũng gửi gắm tâm trạng cảm thông sâu sắc đến cuộc đời nàng và lên án xã hội phong kiến hà khắc đã đẩy cuộc đời người phụ nữ đến bước đường cùng. Cảm thương thay, thân phận người phụ nữ xã hội xưa chỉ như cánh hoa mỏng trôi lênh đênh giữa dòng đời.

Nguyễn Du đã từng viết:

Đau đớn thay phận đàn bà

Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.

Đó là tiếng nấc nghẹn ngào cho thân phận bất hạnh của người phụ nữ trong xã hội đương thời mà Nguyễn Du khóc thương thay cho họ. Người phụ nữ đương thời, ai cũng đều thùy mị, đảm đang nhưng chẳng bao giờ giữ được hạnh phúc cho riêng mình. Đến cả việc mưu cầu hạnh phúc cũng chỉ như một giấc mơ xa vời với họ. Họ mang thân phận người phụ nữ hèn mọn, dù mỗi người một cuộc sống riêng, nhưng chẳng ai thoát khỏi sức nặng của hai từ “bạc mệnh. Ta có thể thấy rõ được điều đó qua nhân vật Thúy Kiều và Vũ Nương trong hai tác phẩm của hai tác giả đại tài. Ở Vũ Nương, nàng mang nét đẹp “thùy mị, nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp”, luôn biết cách dung hòa mặc cho tính khí của chồng khi “giữ gìn khuôn phép, chưa từng lúc nào để vợ chồng xảy ra bất hòa”. Nàng luôn một lòng một dạ vì gia đình, không hề than thở hay mong cầu vinh hoa phú quý. Với Thúy Kiều, nàng là một người con gái tài sắc vẹn toàn. Khi gia đình gặp biến cố, nàng đã không ngại đối diện với thị phi, với tương lai mù mịt phía trước để bán mình chuộc cha. Và rồi, nàng bỏ lỡ lời hẹn thề với Kim Trọng - người mà nàng yêu thương nhất. Cuộc đời nàng dẫu có bao nhiêu biến cố, bao nhiêu thăng trầm, nhưng nàng vẫn cam chịu, vẫn lo nghĩ cho Kim Trọng, cho gia đình mà chẳng màng đến bản thân. Nàng có một tâm hồn thủy chung và cao thượng. Đó cũng chính là nét đẹp chung của những người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Họ đẹp người đẹp nết, dẫu đời đưa họ vào cảnh khốn cùng, họ vẫn luôn một lòng thủy chung, hiếu thảo với gia đình, mặc kệ bản thân chịu dày vò trong hố đen tuyệt vọng.

Họ đẹp đẽ là thế, đáng trân trọng là thế, nhưng họ lại sống trong một xã hội quá thối nát với bộ máy quan lại mục rỗng, với tư tưởng lạc hậu trọng nam khinh nữ. Họ càng xinh đẹp thì càng phải chịu cảnh bất công “hồng nhan bạc phận”. Vũ Nương cứ ngỡ sẽ được sum vầy hạnh phúc nếu luôn chăm lo chu toàn mọi thứ, nhưng số phận bạc bẽo lại trêu ngươi nàng. Đến cả khi nàng chết trong oan ức, nàng cũng không được nhớ nhung, không được thương tâm. Đáp lại nàng chỉ là sự hời hợt, vô tâm của người chồng. Và chính cái chết của nàng đã tố cáo xã hội phong kiến lúc bấy giờ. Cái xã hội ấy đã đẩy người phụ nữ vào đường cùng, ban cho họ thân phận thấp hèn và một cuộc đời bi thương. Còn Thúy Kiều, nàng dường như có cuộc sống lênh đênh hơn Vũ Nương rất nhiều bởi những biến cố đi qua và hằn sâu vết sẹo vào đời nàng. Gia đình nàng vì đồng tiền hôi tanh mà phải chia ly, tan tác. Nàng cũng vì thế mà phải bán mình chuộc cha, để rồi trở thành món hàng không hơn không kém trong tay bọn buôn người. Đau đớn thay cho nàng, một người con gái trong trắng, tài sắc vẹn toàn nay chỉ là một món đồ chơi của bọn khách làng chơi. Không chỉ thế, nàng còn phải chịu cảnh đời lênh đênh bèo dạt, lưu lạc mười lăm năm và bị giáng xuống đầu muôn vàng tai ương. Vũ Nương và Thúy Kiều chính là những nhân vật đại diện cho số phận người phụ nữ trong xã hội xưa. Họ không có quyền lợi, không có tự do, cũng chẳng có quyền được hạnh phúc - một cái quyền cơ bản nhất của con người. Họ bị hủ tục thối nát của xã hội phong kiến đẩy xuống vực sâu, chịu muôn vàn tủi hờn và đau thương. Dù họ cam chịu hay vùng vẫy, họ cũng chẳng bao giờ thoát được nanh vuốt của xã hội thối nát đó.

Bằng tấm lòng nhân đạo sâu sắc, cao cả, Nguyễn Dữ và Nguyễn Du đã miêu tả chân thực và đầy xót xa số phận của người phụ nữ trong xã hội cũ. Viết về những người đàn bà bất hạnh, đẹp người đẹp nết này, các nhà văn, nhà thơ đã dành một sự ca ngợi, một sự nâng niu vô bờ bến. Chúng ta cảm nhận được điều đó và càng thương xót cho thân phận của họ hơn bao giờ hết.

Khép lại trang sách nhưng tôi vẫn thấy lòng ngổn ngang và thương thay cho thân phận người phụ nữ xưa như nàng Kiều, Vũ Nương. Những người con gái đẹp người đẹp nết như họ đáng lẽ ra phải có một cuộc đời bình an, yên ấm bên gia đình mới đúng. Vậy mà, “hồng nhan bạc mệnh”, bao nhiêu truân chuyên của đời dường như họ gánh hết. Dường như, đây chính là thực tại của xã hội phong kiến thối nát, đã dày vò một người con gái đẹp đầy sức sống trở nên tàn lụi, héo úa giữa cuộc đời. Nguyễn Dữ và Nguyễn Du đã đi trước thời đại, ông đã nhìn thấy được sự bất công của xã hội. Các ông thấy được nỗi lòng của Kiều, của Vũ Nương chính là nỗi lòng của hàng trăm ngàn phụ nữ thời bấy giờ. Vậy nên, đọc thơ văn của hai ông chúng ta như cảm nhận được cả máu ở đầu bút, nước mắt trong từng câu thơ, rất nhân văn và sâu sắc.