Em hãy viết bài văn trình bày cảm
nhận
về
thông điệp
về Niềm
say mê lao động, chinh phục
thiên nhiên bằng công việc
lao động của
mình của người
ngư dân qua đoạn thơ:
Thuyền
ta lái gió vơi buồm
trăng
Lướt giữa
mây cao với biển
bằng
Ra đậu
dặm
xa dò bụng biển,
Dàn đan thế
trận lưới
vây giăng.
[…]
Sao mờ,
kéo lưới kịp
trời sáng
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng.
Vảy bạc
đuôi vàng loé rạng đông,
Lưới xếp
buồm lên đón nắng
hồng.
(Đoàn thuyền đánh cá, Huy Cận)
Từ đó, liên hệ
với
một
tác phẩm
khác hoặc
thực
tế
để
làm nổi
bật
thông điệp
được
gợi
ra từ
đọan
thơ.
Bài làm
Biển
cả và con người muôn đời là bạn. Người ngư dân xem biển là ngôi nhà chung, là
nguồn sống bất tận, là sức mạnh chở che. Đọc bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của
Huy Cận, người đọc thấy rõ tâm thế đầy tin yêu của con người khi đến với biển
trong cuộc sống lao động mưu sinh. Như một áng thơ tràn đầy sự hứng khởi, Đoàn
thuyền đánh cá chính là những lời ca hào hùng và đầy tráng lệ về biển trời và sự
nhiệt tâm lao động của con người. Huy Cân đã khéo léo vẽ lên bức tranh thiên
nhiên tuyệt đẹp, mênh mông bất tận của đất trời hòa cùng với sự can đảm, cần cù
đầy say mê lao động chinh phục thiên nhiên bằng
công việc
lao động
của
mình của
người
ngư
dân:
Thuyền
ta lái gió vơi buồm trăng
Lướt
giữa mây cao với biển bằng
Ra
đậu dặm xa dò bụng biển,
Dàn
đan thế trận lưới vây giăng.
[…]
Sao
mờ, kéo lưới kịp trời sáng
Ta
kéo xoăn tay chùm cá nặng.
Vảy
bạc đuôi vàng loé rạng đông,
Lưới
xếp buồm lên đón nắng hồng.
Có
lẽ, con người đẹp nhất là khi làm việc, say mê lao động, thực sự hòa mình vào
thiên nhiên đất trời, hòa mình vào vũ trụ bao la… Huy Cận đã gửi gắm hồn mình
qua bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” với một tình yêu cuộc sống thiết tha và say đắm!
Cảm hứng trữ tình cùng với ngòi bút tài hoa của người thi nhân, cùng nghệ thuật
miêu tả sắc sảo súc tích nhà thơ đã tạo những vần thơ ấm áp hơi thở của cuộc sống
mới. Bài thơ vừa là một bức tranh đẹp đẽ, vừa là khúc ca hào hùng về những người đánh cá trên biển cả bao la – những
con người thực sự làm chủ biển trời, làm chủ cuộc đời mới!
Ngay
từ những dòng thơ đầu, nhà thơ Huy Cận đã phản ánh được không khí say mê đầy sôi
nổi của người dân miền Bắc trong xây dựng hòa bình. Hoàng hôn, đêm trăng sáng
và bình minh chính là ba không gian chính của con người trong đêm đánh cá, cũng
chính là miền thơ mà tác giả Huy Cân đã tô nên một bức họa về sự nhiệt huyết
lao động của con người. Một khung cảnh vừa thực vừa ảo hiện lên trong tâm trí
chúng ta. Sự hào phóng và giàu có của biển cả đã đem tặng những chú cá cho những
người dân lao động. Lời hát ngợi ca say mê vẫn cất lên không ngừng. Hình
ảnh con người và trời biển, thiên nhiên, vũ trụ luôn hoà hợp, gắn bó với nhau,
soi sáng nhau để cùng làm nên bài ca lao động hùng tráng.
Đoàn
thuyền và niềm vui, sức mạnh người lao động trên biển, làm chủ cuộc đời đang
chinh phục biển khơi lướt đi giữa trờ cao biển rộng có cái lân
lân, sảng khoái lạ thường:
Thuyền
ta lái gió vơi buồm trăng
Lướt
giữa mây cao với biển bằng
Ra
đậu dặm xa dò bụng biển,
Dàn
đan thế trận lưới vây giăng.
Lời
thơ vẽ ra một bức tranh lông lộng trời mây, mênh mông biển cả. Con thuyền vốn
nhỏ bé trước biển cả bao la giờ đây qua cái nhìn của nhà thơ chợt trở nên lớn
lao, kì vĩ. Hình ảnh con thuyền được đặt trong mối quan hệ hài hòa với những
hình tượng thiên nhiên “gió”,”trăng”,”trời”,”biển”. Hình ảnh đoàn thuyền
được làm đẹp bởi một sức tưởng tượng kỳ lạ, giàu chất lãng mạn: thuyền lái
gió, trăng là cánh buồm. Con thuyền ấy đang lướt đi, như bay lên giữa hai tầng
không gian, trên thì có “mây cao”, dưới thì có “biển bằng” mênh
mông sóng nước. Gió làm lái, trăng làm buồm và câu hát dựng xây sự say mê, đoàn
thuyền cứ thế mà bẻ sóng ra khơi và người lao động cứ nặng tay với những giá trị
mà thiên nhiên ban tặng.Con thuyền đang thả sức tung hoành giữa khoảng không
bao la của vũ trụ vô cùng vô tận, đang lướt tới với tất cả sức mạnh chinh phục
biển cả, chinh phục thiên nhiên. Cách nói như vậy giúp ta cảm nhận được thuyền
và con người như hòa nhập vào thiên nhiên bát ngát, lâng lâng trong cái thơ mộng
của trời, biển, gió, trăng. Từ “lướt”
đặc tả cảnh đoàn thuyền ra khơi với vận tốc phi thường; thiên nhiên cùng góp sức
với con người trên con đường lao động và khám phá. Người ngư dân vốn gần gũi nhỏ
bé, nhưng khi đứng trước thiên nhiên biển trời bao la sóng nước lại trở nên kì
vĩ và lớn lao đến thế. Hình ảnh con thuyền chính là sự ẩn dụ cho những người
dân làng chài – những con người miền biển cần cù mà đầy chân chất. Tư thế ra
khơi nhẹ nhàng, thoải mái, đầy khí thế đó chỉ có ở những con người vừa thoát
khỏi kiếp sống nô lệ, được làm chủ sản xuất, làm chủ đất trời, sông biển cùa
mình. Quả thật, trí tưởng tượng của nhà thơ đã đem đến cho người đọc một hình ảnh
về con thuyền đẹp đẽ – vẻ đẹp khỏe khoắn, thơ mộng cũng là hiện thân cho con người
trong lao động.
Nhưng
lao động không phải là một cuộc du ngoạn. Người ngư dân lao động khẩn trương và
không mệt mỏi để “dàn đan thế trận”:
Ra
đậu dặm xa dò bụng biển,
Dàn
đan thế trận lưới vây giăng.
Hai
câu thơ khắc họa hình ảnh một trận đánh, một cuộc chiến đấu với thiên nhiên bằng
tất cả trí tuệ và năng lực nghề nghiệp. Nhịp thơ trở nên hối hả lôi cuốn.
Bên
cạnh cái ung dung, sảng khoái của người dân chài, ta vẫn cảm nhận được nỗi vất
vả của người lao động. Giữa biển khơi bao la, con người với tư thế hiên ngang, vượt
bao dặm biển trong trời đêm chủ động “dò bụng biển”, tìm ra bãi cá, “dàn
đan thế trận” để bủa lưới bắt cá. Lúc này, mỗi thủy thủ là một chiến sĩ, một
chiến sĩ trên biển và con thuyền, mái chèo, lưới, các ngư cụ khác chính là vũ
khí của họ. Công việc đánh cá được dàn đan như một thế trận hào hùng. Ý thơ gợi
sự khéo léo như nghệ sĩ của người dân chài và tâm hồn phóng khoáng, dũng cảm
chinh phục biển cả. Huy Cận phải có sự am hiểu sâu sắc về nghề
chài lưới này và lòng thông cảm với người lao động mới vẽ được bức tranh vừa
hiện thực, sinh động mà lãng mạn ấy. Những con người lao động vốn nhỏ bé trước
biển cả bao la giờ đây qua cái nhìn của nhà thơ trở nên lớn lao, kỳ vĩ và ngang
tầm vũ trụ. Họ làm việc với tất cả lòng dũng cảm, niềm say mê, trí
tuệ nghề nhiệp và tâm hồn phơi phới.
Suốt
dọc cả bài thơ là tiếng hát, sau những tiếng hát ca ngợi, những tiếng hát lao động
hăng say là tiếng hát niềm vui thu hoạch:
Sao
mờ, kéo lưới kịp trời sáng,
Ta
kéo xoăn tay chùm cá nặng.
Vẩy
bạc đuôi vàng loé rạng đông,
Lưới
xếp buồm lên đón nắng hồng.
Bóng
đêm đang dần tàn, một đêm trôi qua thật nhanh trong nhịp điệu lao động hào hứng,
hăng say. Trên bầu trời, sao đã thưa và mờ. Ngày đang đến, nhịp độ lao động
ngày càng khẩn trương, Nhịp thơ 2-2-3 phù hợp với nhịp lao động khẩn trương. Hình
ảnh con người hiện ra trong sớm mai trên biển. Hình ảnh những người dân chài
như có hình, có khối đó là hình ảnh khoẻ mạnh, đẹp đẽ của con người trong sự
làm chủ. Kéo xoăn tay – kéo mạnh, kéo bằng tất cả sức lực, khiến cho các cơ bắp
nổi lên cuồn cuộn. Hình ảnh thơ “kéo xoăn tay” như tạc bức tượng đồng về người
ngư dân: người dân chài mạnh mẽ, nghiêng mình trụ vững, dồn tất
cả sức mạnh vào đôi cánh tay cuồn cuộn trông mới đẹp làm sao! Trong
cái “chùm cá nặng”như có sức ẩn chứa bao niềm vui tươi, sung sướng của
người ngư dân trước thành quả mà họ đã tốn bao công sức mới thu hoạch được.
Lưới
kéo lên, những tia nắng sớm chiếu trên khoang cá đầy làm lấp lánh màu sắc.
Khoang thuyền đầy ắp cá. Màu của vẩy cá, màu vàng của đuôi cá “lóe rạng
đông”. Nghệ thuật dùng từ của tác giả thật điêu luyện, sắc cá
dưới ánh trăng và sắc cá dưới ánh bình minh đều được miêu tả tuyệt đẹp. Câu thơ
vừa thực mà vừa có nghĩa ẩn dụ. Không chỉ tả màu của vẩy, sắc của đuôi cá trong
sớm mai mà còn gợi nghĩ đến bạc, vàng – những tài sản quý giá lấy lên từ biển cả.
Bởi không chỉ nhận ánh sáng phản chiếu từ tràng sao. Vẩy bạc đuôi vàng tự phát
sáng lóe rạng đông tạo nên ngày mới, làm cuộc sống đổi thay. Đó cũng chính là mục
đích của người lao động, là hướng đi của nhân dân ta trong những năm đó.
Những
câu thơ có màu sắc rực rỡ, nó mang lại thi vị, vẻ hấp dẫn riêng cho việc kéo lưới
bình thường. Câu thơ cuối nhẹ thơ gọn, dứt khoát kết thúc một cuộc
hành trình gian nan. Lời thơ giản dị biểu hiện niềm thư thái của
con người: lưới xếp nghỉ, kéo buồm lên, trở về trong buổi bình minh. “Nắng
hồng” không những khắc họa được vẻ đẹp tươi sáng của bầu trời mà còn thể hiện
được lòng yêu đời, yêu thiên nhiên. Màu hồng của một ngày mới, một cuộc đời mới
đang chào đón mọi người. Các từ “bạc”, “vàng”, “hồng” vừa gợi
màu sắc sáng đẹp, vừa gợi sự quý giá, giàu có của biển ban tặng con người cần
cù, dũng cảm. Khổ thơ như tạo nên hình ảnh đẹp như tạc vào biển cả mênh mông tư
thế khoẻ khoắn, mạnh mẽ của người dân chài ăn sóng nói gió, gợi lên khí thế lao
động hăng say, khẩn trương của người lao động trên nền trời đang sáng dần, ửng
hồng.
Băng
bút pháp lãng mạn, nhịp thơ khỏe với trí tưởng tượng mới mẻ, độc đáo, Huy Cận
đã ca ngợi sự giàu đẹp của biển quê hương, và đặc biệt là hình ảnh người lao động
được miêu tả với nhiêu vẻ đẹp: sự sảng khoái của người làm chủ đất nước, nhiệt
tình lao động với tất cả tình yêu biển, yêu nghề. Bài thơ thực sự là tiếng hát
cất lên từ hồn thơ Huy Cận để dâng tặng cuộc đời. Mang trong mình cả phong vị cổ
điển nhưng lại rất hiện đại ở những liên tưởng bất ngờ, cả cảm hứng vũ trụ hoà
cùng luồng cảm hứng lãng mạn. Bài thơ mở ra một viễn cảnh thật huy hoàng và
tràn đầy niềm tin vào một tương lai nhất định nở hoa. Vì vậy, đọc bài thơ ta
càng thêm yêu đất nước và con người lao động Việt Nam
Viết
về cuộc sống của người lao động với niềm
say mê lao động, chinh phục thiên nhiên bằng công việc lao động của mình, nhiều
nhà văn, nhà thơ đã dành hết tâm huyết để ghi nhận, cổ vũ. Đọc Lặng lẽ Sa Pa của
Nguyễn Thành Long ta cũng thấy những con người miệt mài làm việc, miệt mài
nghiên cứu khoa học, trong lăng lẽ mà rất khẩn trương vì lợi ích của đất nước,
vì cuộc sống của con người.
Nhân
vật chính trong Lặng lẽ Sa Pa,Anh thanh niên là hình ảnh tiêu biểu cho những
con người ở Sa Pa, là chân dung con người lao động mới trong công cuộc xây dựng
và bảo vệ đất nước. Anh yêu công việc đang làm tới mức hòa nhập bản thân mình với
nó. Trong khi mọi người còn ái ngại cho cuộc sống ở độ cao 2600m của anh thì
anh lại ước ao được làm việc ở độ cao trên 3000m. Vì anh cho như vậy mới gọi là
lý tưởng. Anh có những suy nghĩ thât đúng đắn và sâu sắc về công viêc đối với
cuộc sống con người: “khi ta làm việc,ta với công việc là một, sao gọi là một
mình được”. Và anh hiểu rằng công việc của anh còn gắn với công việc của
bao anh em đồng chí dưới kia: “Công việc của cháu gian khổ thật đấy chứ cất
nó đi, cháu buồn đến chết mất”. Mặc dù chỉ có một mình, không người giám
sát, anh đã vượt qua những gian an của hoàn cảnh, làm việc một cách nghiêm túc,
tự giác với tinh thần trách nhiệm cao. Nửa đêm, đúng giờ “ốp”, dù mưa tuyết giá
lạnh thế nào anh cũng trở dậy ra ngoài: làm việc. Anh miệt mài lao động khoa học
lặng lẽ mà khẩn trương vì lợi ích của đất nước, vì cuộc sống của mọi người. Cuộc
sống lao động giản dị nhưng cao đẹp làm nên vẻ đẹp đích thực của mỗi con người,
có sức thuyết phục lan toả với những người xung quanh.Truyện ngắn “Lặng lẽ Sa
Pa khẳng định vẻ đẹp của con người lao động và ý nghĩa của những công việc thầm
lặng.
Hai
tác phẩm Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận và Lặng lẽ Sa Pa của Nguyễn Thành Long
khắc họa thành công hình ảnh những con người lao động bình thường. Tuy cách
nhau 14 năm nhưng hai tác phẩm đều là sản phẩm viết về công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở miền Bắc và vẻ đẹp của con người lao động trong thời đại mới.
Ngưòi lao động vô danh trong hai tác phẩm đủ mọi thành phần, lứa tuổi, nghề nghiệp,
dù ở núi cao hay biển xa đều là những con người tràn đầy sức sống, lòng tin tưởng
và niềm hăng say lao động, yêu nghề. Họ có sức mạnh làm chủ thiên nhiên, làm chủ
cuộc đời và là những con người sống với lí tưởng cao đẹp, lạc quan, với niêm
tin vững chắc vào tương lai tươi sáng. Nhân vật anh thanh niên trong Lặng lẽ Sa
Pa và hình ảnh ngư dân lao động trong Đoàn thuyền đánh cá cùa Huy Cận là hiện
thân của vẻ đẹp người lao động một thời. Đó là những người ưu tú của quê hưọng
trong sự nghiệp xâv dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hình ảnh người lao động trong hai
tác phẩm được xây dựng bằng những nét vẽ đẹp, khi lãng mạn, bay bổng; khi gân
guốc hào sảng; vừa khẳng định được vị trí quan trọng của họ đối với xã hội, với
cuộc đời; vừa cho thấy niềm tin yêu của các tác giả đối với những con người
đáng quý ấy.
Hai
tác giả Huy Cận và Nguyễn Thành Long đã thành công trong việc khắc họa hình ảnh
người lao động thật lạc quan, yêu đời và sống có trách nhiệm. Họ thực sự tìm thấy
niềm hạnh phúc trong lao động. Chính họ đã đóng góp một phần công sức lớn lao
cùa mình vào việc đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, là hậu phương vững chắc bảo vệ Tổ
quốc thân yêu. Càng khâm phục họ, thanh niên chúng ta phải ra sức học tập để
sau này trở thành người sống có ích để xây dựng đất nước ngày càng phát triển,
văn minh.