Thứ Tư, 26 tháng 5, 2021

Lí tưởng muốn dâng hiến cho đời, đi theo khát vọng, đi theo tiếng gọi yêu thương của trái tim yêu nước qua đoạn thơ


 


Em hãy viết bài văn trình bày cm nhn v thông đip v Lí tưởng mun dâng hiến cho đi, đi theo khát vng, đi theo tiếng gi yêu thương ca trái tim yêu nước qua đon thơ:

    Anh vi tôi đôi người xa l

T phương tri chng hn quen nhau.

Súng bên súng, đu sát bên đu

Đêm rét chung chăn thành đôi tri k

Đng chí!

 

Rung nương anh gi bn thân cày

Gian nhà không mc k gió lung lay

Giếng nước gc đa nh người ra lính.

 ng chí, Chính Hu)

T đó, liên h vi mt tác phm khác hoc thc tế đ làm ni bt thông đip được gi ra t đan thơ.

Bài làm

Đất nước
                       Của những câu chuyện đều làm ta rưng rưng nước mắt
                       Đã trở thành những bài ca không bao giờ tắt
                       Trên mỗi con đường, mỗi thôn xóm ta qua
                       Từ non ngàn cho tới biển xa.
(Nam Hà)
Con người Việt Nam, văn học Việt Nam luôn lấy tiêu chí yêu nước làm đầu. Thơ hiện đại Việt Nam cũng không nằm ngoài quy luật này. Các nhà thơ luôn trĩu nặng nỗi niềm quê hương đất nước.Những bài thơ viết ra trong thời chiến tranh khốc liệt hay khi đất nước hòa bình dù gắn với tiếng nói cá nhân vẫn sang lên tình cảm yêu nước, tình yêu với con người, cảnh vật, quê hương. Nhà thơ Chính Hữu đã viết về tình cảm cao đẹp ấy, đồng thời tái hiện lại một cách chân thực hình ảnh người lính chống Pháp, qua bài thơ “Đồng chí” của ông. Người lính với lý tưởng muốn dâng hiến cho đời, đi theo khát vọng, đi theo tiếng gọi yêu thương của trái tim yêu nước làm rung cảm bao thế hệ độc giả:

Anh với tôi đôi người xa lạ

Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau.

Súng bên súng, đầu sát bên đầu

Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ

Đồng chí!

 

Ruộng nương anh gửi bạn thân cày

Gian nhà không mặc kệ gió lung lay

Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.

Đồng chí là một bài thơ cô đúc, “tiết kiệm” trong từng hình ảnh, từng câu chữ. Bằng những chi tiết, những hình ảnh hết sức chân thật, cụ thể mà đầy tính chắt lọc, khái quát, bài thơ đã thể hiện một cách cảm động tình đồng chí gắn bó giữa những người nông dân mặc áo lính, cùng chiến đấu giữ gìn độc lập tự do của Tổ quốc. Họ đều là những người nông dân mặc áo lính ra đi từ các làng quê nghèo, làm ăn vất vả, gian nan. Những con người khổ nghèo ấy vừa được Cách mạng giải phóng và giờ đây gắn bó thắm thiết vì mục đích của cuộc chiến đấu. Những con người cùng chung cảnh ngộ, cùng chung nhiệm vụ, lí tưởng chiến đấu, cùng chia sẻ mọi gian lao, thiếu thốn dã hình thành nên tình đồng chí thiêng liêng, cao đẹp.

Sự gặp gỡ, gắn bó trong quân đội cách mạng giữa những người nông dân “tứ xứ” tình cờ nhưng thực lại rất tự nhiên và tất nhiên bởi những con người này cùng chiến đấu, hi sinh vì một lí tưởng cao cả:

Anh với tôi đôi người xa lạ

Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau.

Súng bên súng, đầu sát bên đầu

Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ

Đồng chí!

Năm câu thơ nói lên một quá trình thương mến: từ “đôi người xa lạ” rồi “thành đôi tri kỉ”, về sau kết thành “đồng chí”. Các câu thơ biến hóa, 7, 8 từ rồi rút lại, nén xuống 2 từ, cảm xúc vần thơ như dồn tụ lại, nén chặt lại. Những ngày đầu đứng dưới lá quân kì: “Anh với tôi đôi người xa lạ / Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”. Đôi bạn gắn bó với nhau bằng bao kỉ niệm đẹp: Súng bên súng, đầu sát bên đầu/Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ. Từ những người xa lạ ở những miền quê khác nhau, nhưng khi đã cùng đứng chung hàng ngũ, cùng lý tưởng và mục đích chiến đấu, “họ” trở thành những người thân của nhau.  Chính Hữu đã sử dụng từ “đôi” thay vì “hai” để gợi lên sự thân thiết ngay từ khi mới gặp mặt. Mặc dù là bất ngờ, “chẳng hẹn” mà gặp nhưng cuộc gặp gỡ này của những người lính như là lời hẹn từ trước. Đó là lời hẹn với quê hương đất nước, bởi anh và tôi đều chung ý chí chiến đấu, một lòng yêu nước, cùng tự nguyện nhập ngũ để quen nhau. Lời hẹn của những người lính nảy sinh từ điều kiện của đất nước. Cái hẹn không lời mà tác giả nhắc đến mang bao ý nghĩa sâu trong tâm hồn người lính. Tình đồng chí được vun đắp thêm qua những nhiệm vụ, qua lý tưởng chiến đấu. Chính Hữu dùng hình ảnh sóng đôi để miêu tả “súng bên súng, đầu sát bên đầu”. “Súng bên súng” là cách nói hàm súc,giàu hình tượng, đó là những con người cùng chung lí tưởng chiến đấu. Với người lính, “súng” là một vật vô cùng quan trọng, đó là biểu tượng cho sự lý trí, cho sức chiến đấu, nó không thể tách rời được với người lính. Họ ra trận đánh giặc để bảo vệ đất nước, quê hương, giữ gìn nền độc lập, tự do, sự sống còn của dân tộc – “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Còn hình ảnh “đầu sát bên đầu” lại diễn tả sự đồng ý, đồng tâm, đồng lòng của hai con người đó. Chính Hữu đã dung các từ “sát, bên, chung” gợi sự chia sẻ của người lính, ý hợp tâm giao. Những người lính đến với nhau nhẹ nhàng bình dị, vừa có cái chung của lí tưởng lớn, vừa có cái riêng của một đôi bạn ỷ hợp tâm đầu. Câu thơ “Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ” ắp đầy kỉ niệm về một thời gian khổ, cùng nhau chia ngọt sẻ bùi “Bát cơm sẻ nửa – Chăn sui đắp cùng”. “Cái hay của nhà thơ là đã biết đem cái ấm áp của “đêm rét chung chăn” vào bài thơ, sưởi nóng mối tình đồng chí lên thành mức độ tri kỉ”. Và như thế mới thành “đôi tri kỉ” để rồi đọng kết lại là “Đồng chí!”. “Đồng chí” – hai tiếng ấy mới thiêng liêng làm sao! Hai tiếng “đồng chí” vang lên, như một tiếng gọi thiết tha. Nhịp thơ đang dàn trải, như những lời thủ thỉ, tâm tình, đến đây chợt lắng lại, ngắt ra thành một câu thơ riêng, chỉ với hai từ và dấu chấm than, tựa như một nốt nhấn ngân vang.Nó diễn tả niềm tự hào, xúc động, cứ ngân vang lên mãi. Xúc động bởi đó là biểu hiện cao nhất của một tình bạn thắm thiết, đẹp đẽ. Còn tự hào bởi đó là tình cảm thiêng liêng, cao cả của những con người cùng chung chí hướng, cùng một ý nguyện, cùng một lí tưởng, ước mơ.

Tự hào biết bao về mối tình đồng chí cao cả thiêng liêng, cùng chung lí tưởng chiến đấu của những người lính vốn là những trai cày giàu lòng yêu nước ra trận đánh giặc. Vì nghĩa lớn, các anh sẵn sàng từ giã những gì gắn bó thân thương nhất: “ruộng nương”,”gian nhà”,”giếng nước”,”gốc đa”… lên đường:

Ruộng nương anh gửi bạn thân cày

Gian nhà không mặc kệ gió lung lay

Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.

Ba câu thơ bao trùm một nỗi nhớ: nhớ ruộng nương, nhớ bạn thân cày, nhớ gian nhà, nhớ giếng nước, gốc đa. Hình ảnh nào cũng thắm thiết một tình quê vơi đầy. Họ ra đi để lại sau lưng những băn khoăn, trăn trở, những bộn bề, lo toan của cuộc sống đời thường. Đối với những người nông dân, thiết thân nhất là ruộng vườn cả đời cày sâu cuốc bẫm, là ngôi nhà nhỏ có gia đình thân yêu. Vậy nhưng họ vẫn quyết tâm gạt bỏ lại sau lung, lên đường theo tiếng gọi của quê hương, đất nước. Hai chữ “mặc kệ” đã diễn tả sâu sắc vẻ đẹp và chiều sâu đời sống tâm hồn người lính. Vì nghĩa lớn, họ sẵn sàng ra đi khi lí tưởng đã rõ ràng, mục đích đã chọn lựa. Song dù có dứt khoát thì vẫn nặng lòng với quê hương. Gác tình tiêng ra đi vì nghĩa lớn, vẻ đẹp ấy thật đáng trân trọng và tự hào. Trong bài thơ “Đất nước”, ta bắt gặp điểm tương đồng trong tâm hồn những người lính:

Người ra đi đầu không ngoảnh lại

Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy.

Mặc dù đầu không ngoảnh lại nhưng các anh vẫn cảm nhận được “Sau lưng thềm năng lá rơi đầy”, cũng như người lính trong thơ của Chính Hữu, nói “mặc kệ” nhưng tấm lòng luôn hướng về quê hương. Họ vẫn gắn bó lắm, vẫn yêu nhớ lắm cái mảnh đất quê hương nghèo khó, nên mới có thể cảm nhận được nỗi lòng của người thân nơi hậu phương:

Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.

Giếng nước gốc đa” là hình ảnh hoán dụ mang tính chất nhân hóa diễn tả một cách tinh tế tâm hồn người chiến sĩ, tô đậm sự gắn bó của người lính với quê nhà. Đã bao lần ta bắt gặp hình ảnh cây đa, bến nước, sân đình trong ca dao xưa, nhưng vẫn thật mới mẻ trong thơ Chính Hữu. Biện pháp nghệ thuật hoán dụ “giếng nước”, “gốc đa” gợi ta nhớ tới nơi hò hẹn của những người dân quê, nhắc đến những kỉ niệm một thời gắn bó trên mảnh đất quê hương. Chúng cũng biết “nhớ” khi cách xa những người con thân yêu của làng quê. “Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính” hay chính là tấm lòng của người ra đi không nguôi nhớ về quê hương. Nghệ thuật nhân hoá được sử dụng thật đắc địa. Bao tình cảm nặng sâu như đều dồn tụ trong tiếng “nhớ“ giản dị ấy. Giữa người chiến sĩ và quê hương có mỗi giao cảm vô cùng sâu sắc,đậm đà. Có cả 2 nỗi nhớ ở cả hai phía chân trời. Giữa người đi xa và người ở lại luôn có một sợi dây vô hình gắn kết. Người đọc cảm nhận từ hình ảnh thơ một tình quê ăm ắp. Tình yêu quê hương đã góp phần hình thành tình đồng chí, làm nên sức mạnh tinh thần để người lính vượt qua mọi thử thách gian lao, ác liệt thời máu lửa.

Với nhiều hình ảnh chọn lọc, từ ngữ gợi cảm mà lại gần gũi thân thuộc, với biện pháp sóng đôi, đối ngữ được sử dụng rất thành công, Chính Hữu đã viết nên một bài ca với những ngôn từ chọn lọc, bình dị mà có sức ngân vang. Bài thơ vừa mang vẻ đẹp giản dị, bình dị khi nói về đời sống vật chất của người chiến sĩ, lại vừa mang vẻ đẹp cao cả, thiêng liêng, thơ mộng khi nói về đời sống tâm hồn, về tình đồng chí của các anh – người lính buổi đầu kháng chiến chống Pháp. Ngôn ngữ thơ hàm súc, mộc mạc như tiếng nói của người lính trong tâm sự, tâm tinh. Tục ngữ thành ngữ, ca dao được Chính Hữu vận dụng rất linh hoạt, tạo nên chất thơ dung dị, hồn nhiên, đậm đà. Sự kết hợp giữa bút pháp hiện thực và màu sắc lãng mạn chung đúc nên hồn thơ chiến sĩ.

Hình ảnh anh lính nông dân chưa biết chữ thời kì đầu kháng Pháp trong bài thơ Đồng chí  mang trong mình lý tưởng muốn dâng hiến cho đời, đi theo khát vọng, đi theo tiếng gọi yêu thương của trái tim yêu nước. Lẽ sống đẹp là truyền thống tốt đẹp của người dân Việt Nam qua nhiều thế hệ.

Trong những cuộc chiến tranh, khi đất nước lâm nguy, Rất nhiều người đã cống hiến cho quê hương, góp sức mình để giành lại độc lập và chủ quyền dân tộc. Thời đại đó là thời đại của những người “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”, sẵn sàng xả thân vì màu xanh hoà bình trên mảnh đất quê hương. Trong thời đại ngày nay, khi đất nước đã hoà bình, thống nhất và đang trên đà phát triển, tiếp nối truyền thống, là một người con của đất nước, nhiệm vụ của thế hệ hôm nay là ra sức phấn đấu học tập, lao động để phục vụ, xây dựng đất nước vững mạnh đi lên, “sánh vai với các cường quốc năm châu”, để mỗi ngày được ngắm nhìn quê hương thay da đổi thịt, lớn mạnh, hùng cường. Cống hiến cho đất nước là nghĩa vụ và bổn phận của tất cả người dân Việt Nam. Mỗi người, với khả năng của mình, đã cố gắng đóng góp cho đất nước mình để đưa quê hương ngày càng giàu đẹp hơn. Sống có trách nhiệm với đất nước, chúng ta phải sống có mục đích, ước mơ, lí tưởng. Chính những mơ ước, lí tưởng ấy là cơ sở để chúng ta xây dựng đất nước ngày càng đàng hoàng hơn, to đẹp hơn. Đặc biệt, tuổi trẻ cần tránh xa những tệ nạn xã hội, biết sống một cách lành mạnh và có trách nhiêm. Có như thế, ta mới là người sống có trách nhiệm với đất nước mình bởi mỗi người chỉ có thể có trách nhiệm với người khác khi có trách nhiệm với chính bản thân mình. Chiến đấu chống lại đại dịch COVID-19, người dân Việt Nam đã đồng lòng cùng Chính phủ bằng rất nhiều hành động cụ thể, những tấm lòng thiện nguyện đang được nhân lên mỗi ngày. Ở những công việc, vị trí khác nhau, mọi người đều có cách của riêng mình để chung tay cùng cộng đồng phòng, chống dịch bệnh.

Bài thơ Đồng chí là một xúc cảm thiêng liêng, là một tình yêu rộng lớn, trong cái lớn lao nhất của đời người. Gặp nhau trên cùng một con đường Cách mạng, tình đồng chí như được thắt chặt hơn bằng một sợi dây yêu thương vô hình. Đọc bài thơ, ta càng trân trọng và tự hào về lịch sử, chúng ta càng ý thức sâu sắc được rằng, nền độc lập, tự do, hòa bình và thống nhất hôm nay đã phải đánh đổi bằng xương máu, tuổi xuân, cuộc đời và hạnh phúc của biết bao thế hệ đi trước. Chúng nhắc nhớ thế hệ trẻ hôm nay, phải sống sao cho xứng đáng với lịch sử hào hùng của dân tộc, với sự hy sinh cao cả của thế hệ cha anh, với sự tin yêu và kỳ vọng của Đảng, Bác Hồ và của cả dân tộc Việt Nam.