Hiển thị các bài đăng có nhãn Văn tự sự. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Văn tự sự. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Năm, 17 tháng 12, 2020

Đóng vai ông họa sĩ kể lại truyện Lặng lẽ Sa Pa

 

Con đường nghệ thuật thật nhọc nhằn, phải có niềm say mê và sự sáng tạo mới đạt được sự thành công. Nghề hội họa cũng thế. Cho nên tôi quyết định thực hiện chuyến đi lên Lào Cai để tìm đề tài sáng tác cho bức tranh trước khi về hưu. Những nơi tôi từng đi qua đều có những cảnh đẹp tuyệt vời: những rặng núi cao hùng vĩ nhưng chẳng có gì có thể mang đến ấn tượng mạnh cho tôi. Nhưng rồi, trong một lần dừng chân tại SaPa, tôi đã tiếp xúc với một cậu thanh niên- một chàng trai đã mang đến cho tôi cảm hứng về mẫu người lao  động nhiệt tình cống hiến cho đất nước trong âm thầm lặng lẽ.

Ngồi cạnh tôi trên chiếc xe khách là một cô kĩ sư trẻ mới ra trường. Suốt chặng đường, chúng tôi nói chuyện với nhau thật nhiều về nghệ thuật, về cuộc sống. Cảm giác thân thiện giữa chúng tôi chẳng khác gì hai bố con. Tôi dự định sẽ đưa cô đến ty Lai Châu, gửi gắm cô cho ông trưởng phòng rồi mới tiếp tục cuộc hành trình. Bác lái xe cũng là người vui tính, thỉnh thoảng góp chuyện với chúng tôi. Xe chạy qua Sa Pa, một vùng đất bắt đầu với những rặng đào, với những  đàn bò lang cổ có đeo chuông ở đồng cỏ thung lũng hai bên đường. Tôi đã định về hẳn ở đây để tận hưởng sự thanh bình những ngày cuối đời, nhưng bây giờ chưa phải là lúc. Bác lái xe đã hỏi tôi rằng chắc tôi sợ Sa Pa buồn. Buồn à? Ai mà chả sợ, vì có lẽ nó sẽ là con gián gặm nhắm con người ta.. Nắng bắt đầu len tới, đốt cháy rừng cây, những cây thong chỉ cao quá đầu, rung tít trong nắng. Mây bị nắng xua đi, cuộn tròn từng cục, lăn trên các vòm lá ướt sương.

Bỗng xe đột nhiên dừng lại để lấy nước và cho hành khách nghỉ ngơi trong ba mươi phút, bác lái xe bảo sẽ giới thiệu với tôi con người cô độc nhất thế gian, tôi sẽ thích vẽ anh ta. Bác lái xe kể, anh thanh niên hai mươi bảy tuổi, làm công tác khí tượng kiêm vật lí địa cầu trên đỉnh Yên Sơn cao 2600m, quanh năm chỉ có bốn bề cây cỏ và mây mù lạnh lẽo, thèm người quá, anh đã ngáng cây ngang đường cho xe dừng lại để gặp gỡ trò chuyện ít phút với mọi người.  Theo tay chỉ của bác lái xe, tôi nhìn thấy một người thanh niên với tầm vóc nhỏ bé, gương mặt rạng rỡ đang chạy xuống sườn đồi. Người thanh niên biếu bác lái xe củ tam thất vì biết vợ bác bị ốm, còn bác trao lại cho anh những quyển sách mà bác mua hộ. Bác lái xe giới thiệu chúng tôi với người thanh niên và đề nghị cậu đưa tôi cùng cô kỹ sư lên thăm nơi ở và làm việc của cậu ấy. Anh thanh niên rất vui vẻ mời chúng tôi lên nhà chơi nhưng lại vội vàng chạy về trước.  “Chắc cu cậu chưa kịp dọn dẹp nhà cửa đây này”, tôi nghĩ thầm.

Thật không ngờ, vừa bước lên bậc tam cấp, tôi thấy cả một vườn hoa đầy sắc màu. Anh tặng cho cô kĩ sư một đóa hoa to, với tấm lòng hiếu khách của một người đã quá lâu chưa gặp ai cả, cô là cô gái Hà Nội thứ nhất gặp anh từ bốn năm nay.

Thôi, chấm dứt tiết mục hái hoa- anh thanh niên đề nghị:

- Đã qua năm phút, cháu sẽ nói về công chuyện của cháu trong năm phút, còn hai mươi phút, bác cho cháu nghe chuyện dưới xuôi

Công việc của anh là  đo gió, đo mưa , tính mây, đo chấn động mặt đất. Lúc đầu anh rất cô đơn, nhưng sau đó đã tự hỏi : Mình sinh ra là gì, mình đẻ ỏ đâu và mình vì ai mà làm việc. Tất cả là vì cuộc sống mà mỗi người góp sức vào xây dựng. Anh đã nhận thấy “anh với công việc là đôi”, không còn buồn, không “cô độc” nữa.  Vả lại anh còn có người bạn là sách. Rồi anh kể về những ngày “ốp” cực khổ. Dù rằng những hôm mưa bão lạnh buốt, dù rằng chỉ mới 1h sáng, nhưng vì công việc mà không ngại ngần gì, để hoàn thành trách nhiệm của bản thân.Anh thanh niên đang nói bỗng dừng lại.

Tôi chợt cảm thấy có cái gì đó thật bối rối, bối rối vì đã gặp được điều mà tôi mong ước từ lâu, tôi đã gặp anh, con người tạo cảm hứng cho tôi, gặp được anh là quả là đáng giá trị của một chuyến đi dài.Càng nghĩ về cuộc sống và công việc của anh mà tôi càng thêm nể phục. Thật ít khi ta phải sống một mình. Mà dẫu khi ta có sống một mình đi chăng nữa thì xung quanh ta luôn còn có mọi người. Như anh lại sống một mình nơi đỉnh cao vắng lặng không một bóng người như thế này quả thật là một người dũng cảm, không biết sợ là gì.Chưa cần đến nỗi cô đơn vì vắng bóng người. Như bác lái xe đã kể, anh thèm gặp người ghê lắm. Vì muốn được nói chuyện được nhìn ngắm con người mà anh đã nghĩ ra một cái trò thật hay ho. Đó là lăn các khúc gỗ ra chặn đường xe đi. Để rồi khi có xe nào dừng lại, anh hò hởi chạy tới phụ khiên khúc gỗ bỏ ra.  Được nói chuyện, hỏi han, cười vui là anh mãn nguyện rồi.

 Rồi anh mời chúng tôi vào nhà uống nước chè. Tôi bước theo chân anh vào nhà. Ngôi nhà ba gian thật sạch sẽ, ngăn nắp. Bàn làm việc, một giá sách, một chiếc giường con đã được thu gọn về một góc trái gian. Nhìn những quyển sách trên kệ còn làm tôi than phục hơn, đầy đủ chủ đề từ khoa học, văn hóa cho đến cả văn học nữa… Tôi vẽ anh. Tôi vẽ cái tinh thần của anh.

Anh thanh niên rót cho tôi chén trà nóng, thứ mà ba ngày nay tôi mới được gặp lại. Rồi  anh kể về lúc anh xin ra mặt trận nhưng không được, lúc những chú lái máy bay cảm tạ vì góp phần phát hiện đám mây khô, giúp không quân ta bắn hạ phản lực Mĩ… Có lẽ không có ngọn lửa nào tỏa sáng hơn ngọn lửa nhiệt tình trong con tim người sức trẻ. Tôi thấy được sự lấp lánh, niềm vui sướng trong đôi mắt anh thế là ý tưởng chực tuôn trào. Tôi vẽ anh. Tôi vẽ cái tinh thần của anh. Thế nhưng vẽ bây giờ cũng là một việc làm khó, nặng nhọc và gian nan. Phải làm sao và bằng cách nào làm cho người ta hiểu được anh ta mà không phải như hiểu một ngôi sao xa? và làm thế nào để đặt được chính tâm hồn tôi ở trong đó? Chao ôi, bắt gặp được một con người như anh ta là một cơ hội hãn hữu cho sáng tác. Nhưng hoàn thành sáng tác là một chặng đường dài. Mặc dù nghĩ vậy nhưng tôi cũng cố vẽ, chấp nhận thử thách khắc nghiệt này.

Nhưng cậu ngay tức khắc từ chối bảo rằng không xứng đáng để tôi vẽ, sẽ giới thiệu người đáng để vẽ hơn. Có lẽ vì tôn trọng tôi nên cậu vẫn ngồi im, nhưng vẫn cố gắng thuyết phục tôi cho bằng được. Nào là ông kĩ sư vườn rau kiên nhẫn thụ phấn cho từng hoa su hào để có năng suất cao, nào là người cán bộ vẽ bản đồ sét, mười năm không dám về quê, sợ nhỡ có sét lại vắng mặt mình. Tôi rất xúc động. Sa Pa chỉ nghe nhắc đến tên người ta nghĩ đến nơi nghỉ ngơi nhưng ở đây có những con người đang âm thầm cống hiến cho đất nước. Những lời anh nói có một âm vang rất lớn, khơi gợi những điều mà người khác chưa nghĩ hoặc chưa được đúng. Phác họa vài nét, tôi đã ghi xong lần đầu gương mặt của anh, bỗng anh giật mình nói to: “ Trời ơi, chỉ còn năm phút”. Thật không ngờ thời gian lại trôi qua nhanh đến thế, tôi cũng tiếc phải xa anh.

- Chào anh , tôi rồi sẽ trở lại, tôi ở lại ít hôm với anh được không- tôi nắm tay người thanh niên lắc mạnh.

Cô gái cũng chào tạm biệt anh. Sau đó, anh đưa cho tôi cái làn trứng- gà do anh tự nuôi, bảo là đồ ăn trưa cho tôi, người lái xe và cô gái trẻ, anh không thể tiễn tôi cùng cô gái vì sắp đến giờ “ốp”, rồi bảo lần sau tôi hãy trở lại nhé. Tôi ra về trong niềm nuối tiếc vấn vương.

Bước xuống bậc cấp xuống đồi, đến mặt đường tôi nhìn lên thì thấy anh thanh niên đã đi vào nhà.

Chúng tôi ra về, nắng đã mạ bạc cho cả con đèo, đốt cháy rừng cây hừng hực làm cho đóa hoa càng rạng rỡ, tôi nhìn đồng hồ, vẫn chưa đến 11h, đến giờ “ốp” đâu, sao anh ta không tiễn mình nhỉ. Tôi chợt thoáng thấy cô kĩ sư liếc nhìn mình, rồi hồi hộp nhưng cũng chẳng nói gì.

Chuyến đi này sẽ là một trong những kỉ niệm khó quên của tôi. Tôi đã gặp anh thanh niên , con người thật đẹp, thật cao cả, đẹp từ cách sống đến tâm hồn. Cậu đã cho tôi những ấn tượng mạnh về một thế hệ trẻ, những người anh hùng âm thầm lặng lẽ phục vụ cho đất nước, cống hiến hết mình cho xã hội. Tôi nghĩ mình sẽ vẽ thành công chân dung của một người lao động trẻ âm thầm cống hiến cho đất nước và tôi lại lên gặp anh, kể cho anh nghe những chuyện dưới xuôi.

Cuộc sống thật kì diệu. Ẩn sâu ở đâu đó, trong cuộc sống bề bộn này, cái đẹp luôn hiện hữu. Ở khắp mọi miền đất nước, cái đẹp đang chờ đợi được khám phá. Chân tôi vẫn còn khỏe. Dĩ nhiên là tôi sẽ tiếp tục đi, đi đến khi nào không thể đi được nữa mới thôi.

Bùi Thị Mỹ Hạnh

Trong vai Cô kĩ sư kể lại chuyện Lặng lẽ Sa Pa

 

Chuyến đi nhận công tác của tôi lên thành phố mộng mơ Sa Pa là một chuyến đi thật khó quên trong đời tôi. Lúc đó tôi mới ra trường, vừa bước qua cuộc đời học trò chật hẹp để bước vào cuộc sống mới khiến tôi không khỏi ngỡ ngàng. Trong chuyến đi từ Hà Nội lên Sa Pa này tôi gặp gỡ và quen biết với rất nhiều con người thuộc thế hệ khác nhau đã để lại trong tôi nhiều ấn tượng sâu sắc.Những con người Tôi đã gặp được thật đẹp, thật cao cả. Họ làm cho tôi thấy yêu đời hơn, thấy tự tin với công việc của mình hơn và anh thanh niên để lại ấn tượng sâu đậm về một thế hệ trẻ như tôi - anh đã cống hiến hết mình cho phong trào ba sẵn sàng.

Vào buổi sáng hôm ấy, gió thu của Hà Nội se se lạnh, đất trời chuyển mình, tôi lưu luyến nhìn lại mảnh đất thân yêu lần cuối và bước lên xe khách.

Ở trên xe hành trình lên Sa Pa, tôi quen được ông họa sĩ, một người họa sĩ nhiệt huyết đã qua tuổi trung niên, mái tóc đã lâm râm những sợi bạc của một con người từng trải. Và tôi còn quen với bác lái xe vui tính, nhiệt tình giúp cho không khí luôn vui vẻ.

Chiếc xe khách đang chầm chậm lăn bánh trên con đường cheo leo uốn lượn quanh co. Bỗng người lái xe quay sang hỏi ông hoạ sĩ ngồi bên cạnh tôi:

- Chúng ta vừa qua Sa Pa đấy, bác không nhận ra ư?

 Ông hoạ sĩ già mỉm cười đáp: - Có. Tôi nhận ra Sa Pa bắt đầu với những rặng đào và những đàn bò lang cổ đeo chuông ở các đồng cỏ trong thung lũng hai bên đường. Chỗ ấy là Tả Phình phải không bác?

Người lái xe không hỏi gì nữa. Tôi và ông hoạ sĩ cũng im lặng vì khung cảnh trước mắt bỗng hiện ra với vẻ đẹp kì lạ. Nắng bắt đầu len tới đốt cháy rừng cây. Những cây thông chỉ cao quá đầu, rung tít trong nắng những ngón tay bàng bạc dưới cái nhìn bao che của những cây tử kinh thỉnh thoảng nhô cái đầu màu hoa cà lên trên màu xanh của rừng. Mây bị nắng xua, cuộn tròn lại từng cục, lăn trên các vòm lá ướt sương, rơi xuống đường, luôn cả vào gầm xe. Giữa lúc đó, xe bỗng phanh kít lại. Khách trên xe xôn xao kêu lên: - Cái gì thế? - Bác lái xe bảo là dừng lại một lúc để lấy nước và cho khách ăn lót dạ.

Trong lúc mọi người vui vẻ trò chuyện, bác lái xe quay sang nói nhỏ với ông hoạ sĩ:

-Tôi sắp giới thiệu với ông một người cô độc nhất thế gian. Thế nào ông cũng thích vẽ hắn cho mà xem!- Nói đến đây, tự nhiên bác nhìn tôi, khiến tôi đỏ mặt. Rồi bác kể: - Một thanh niên hai mươi bảy tuổi, làm công tác khí tượng địa cầu trên đỉnh Yên Sơn cao hai nghìn sáu trăm mét. Cách đây bốn năm, có hôm xe tôi đi đến đây thì thấy một khúc cây chắn ngang đường, phải hãm lại. Một anh thanh niên ở đâu chạy đến, cùng tôi và hành khách lăn khúc cây sang ven đường. Tôi hỏi không biết ai mà lại đẩy cây ra giữa đường thế này thì anh ta đỏ mặt. Thì ra vì mới lên đây nhận công tác, một mình sống trên đỉnh núi, bốn bề chỉ có cây cỏ và mây mù lạnh lẽo, chưa quen, thèm người quá nên anh ta kiếm kế dừng xe lại để gặp chúng tôi, được nhìn và nói chuyện một lát. Kìa, anh ta kia!.

Tôi trông theo hướng tay bác lái xe thì thấy một người con trai tầm vóc nhỏ bé, nét mặt rạng rỡ từ sườn núi trước mặt chạy lại chỗ xe đỗ. Anh ta đưa cho bác lái xe một gói nhỏ. Bác lái xe hỏi là cái gì thì anh ta bảo là gửi biếu vợ bác gói củ tam thất để ngâm rượu uống cho khoẻ. Bác lái xe cũng rút từ túi xách ra một gói giấy, tươi cười nói:

- Đây là cuốn sách tôi mua hộ anh.

Người con trai nhìn khắp lượt hành khách, vẻ hân hoan lộ rõ. Bác lái xe dắt anh đến trước mặt ông hoạ sĩ: -Tôi giới thiệu với anh một hoạ sĩ lão thành nhé. Còn cô gái này là kĩ sư nông nghiệp. Anh đưa khách về nhà đi! Tuổi già cần nước chè. Ở Lào Cai đi sớm quá không kịp uống. Anh hãy đưa ra cái món chè pha nước mưa thơm như nước hoa của Yên Sơn nhà anh.

Anh thanh niên đỏ mặt, luống cuống cười:

- Vâng! Mời họa sĩ và cô lên chơi! Nhà cháu ở kia kìa! Lên cái bậc cấp kia là tới đấy. Nước sôi đã có sẵn, nhưng để cháu về trước một tí. Bác và cô lên ngay nhé!

Nói xong, anh ta chạy vụt đi, cũng tất tả vội vàng như lúc đến. Tôi thầm nghĩ chắc là anh ta về trước để kịp thu dọn nhà cửa. Con trai độc thân thường hay thiếu ngăn nắp.

Nhưng khi đến nơi, tôi ngạc nhiên ồ lên một tiếng khi thấy anh ta đang hái hoa. Sau gần hai ngày ngồi ô tô, qua ngót bốn trăm cây số đường dài cách xa Hà Nội, giờ đây đứng trông mây mù ngang tầm với chiếc cầu vồng kia, tôi lại gặp hoa lay-ơn, hoa thược dược... vàng, đỏ, tím, hồng... rực rỡ. Quên cả e thẹn, tôi chạy đến bên anh. Tự nhiên như đã quen nhau từ lâu, anh trao bó hoa cho tôi và nói:

- Tôi cắt thêm mấy cành nữa. Rồi cô muốn lấy bao nhiêu tùy ý. Cô cứ cắt một bó rõ to vào, cắt hết cũng được, nếu cô thích. Tôi không biết kỉ niệm thế nào cho thật long trọng ngày hôm nay. Bác và cô là đoàn khách thứ hai đến thăm nhà tôi từ Tết và cô là cô gái thứ nhất từ Hà Nội lên tới nhà tôi từ bốn năm nay.

Anh ta đã nói to những điều lẽ ra người ta chỉ nghĩ, điều đó làm cho tôi và hoạ sĩ già cảm động thật sự. Tôi ôm bó hoa vào lòng rồi nhìn thẳng vào đôi mắt trong sáng của anh. Anh quệt vội giọt mồ hôi trên sống mũi, mỉm cười và hỏi nhỏ: - Cũng đoàn viên phỏng? - Tôi vâng rất nhẹ và gật đầu.

Bất chợt, anh tuyên bố chấm dứt tiết mục cắt hoa. Anh kể cho chúng tôi nghe về công việc hằng ngày của anh là quanh quẩn bên mấy chiếc máy đo gió, đo mưa, đo nắng, tính mây, đo chấn động mặt đất... để ghi chép các thông tin, báo về trung tâm bằng máy bộ đàm. Trên cơ sở ấy, trung tâm sẽ dự báo thời tiết, phục vụ cho sản xuất và chiến đấu. Anh còn bảo là ban đêm không cần nhìn máy, chỉ nhìn gió lay lá hay nhìn trời là có thể đoán được mây, được gió. Đêm nào anh cũng phải ghi và báo về trung tâm lúc một giờ sáng. Xách đèn ra vườn, gió và tuyết như chỉ chực đợi người là ào ào xô tới. Cái im lặng lúc đó thật dễ sợ, nó như bị gió chặt ra từng khúc, mà gió thì giống những nhát chổi lớn muốn quét đi tất cả, ném vứt lung tung... Những lúc im lặng lạnh cóng mà lại hừng hực như lửa cháy. Xong việc, trở vào, không thể nào ngủ lại được.

Anh thanh niên ngừng nói. Ông hoạ sĩ thoáng bối rối. Có lẽ ông đã bắt gặp một con người mà ông ao ước được biết. Chỉ cần một nét hiện ra trên gương mặt người ấy là đủ khẳng định một tâm hồn, khơi gợi một ý sáng tác, một nét mới đủ là giá trị một chuyến đi dài của ông.

Hoạ sĩ háo hức giục anh thanh niên kể tiếp, nhưng anh cất giọng vui vẻ: - Báo cáo hết!-

 Rồi anh mời chúng tôi vào nhà uống trà. Ông hoạ sĩ đảo mắt nhìn quanh căn nhà nhỏ và ngồi xuống ghế. Căn nhà ba gian sạch sẽ, ngăn nắp. Một chiếc giường con, một bàn học, một giá sách. Tôi đến trước chiếc bàn học, lật xem bìa cuốn sách anh đang đọc dở rồi để lại như cũ. Anh rót nước mời chúng tôi. Ông hoạ sĩ già nhấp chén trà nóng toả hương thơm ngát, tỏ vẻ thích thú, rồi tự tay rót thêm chén nữa và nói:

-Ta thoả thuận thế này: Chuyện dưới xuôi, mười ngày nữa trở lại đây, tôi sẽ kể anh nghe. Tôi sẽ trở lại, hứa danh dự đấy. Tôi cũng muốn biết cái im lặng lúc một giờ sáng chon von trên cao nó thế nào. Bây giờ có cả ba chúng ta đây, anh hãy kể chuyện anh đi! Sao người ta bảo rằng anh là người cô độc nhất thế gian? Rằng anh “thèm” người lắm?.

Anh thanh niên bật cười khanh khách, bảo đấy là những từ của bác lái xe. Bác ấy nói thế chưa đúng vì bạn anh ở trạm đặt trên đỉnh núi Phăng Xi Păng cao ba nghìn một trăm bốn mươi hai mét mới đúng là “một mình”. Mà làm khí tượng thì ở cao như thế mới là lí tưởng.

Rồi anh hạ giọng như tâm sự:

- Hồi chưa vào nghề, những đêm bầu trời đen kịt nhìn kĩ mới thấy một ngôi sao, cháu cũng nghĩ ngay ngôi sao kia lẻ loi một mình. Bây giờ làm nghề này, cháu không nghĩ như vậy nữa. Và khi ta làm việc, ta với công việc là đôi, sao gọi là một mình được? Huống chi việc của cháu gắn liền với việc của bao anh em, đồng chí dưới kia. Công việc của cháu gian khổ thế đấy, chứ cất nó đi cháu buồn đến chết mất. Còn “thèm” người thì ai mà chả “thèm” hở bác? Mình sinh ra là gì? Mình đẻ ở đâu? Mình vì ai mà làm việc? Đấy, cháu tự nói với cháu thế đấy. Bác lái xe đi về Lai Châu cứ đến đây dừng lại một lát. Không vào giờ “ốp” là cháu chạy xuống chơi, lâu dần thành lệ. Cháu bỗng dưng tự hỏi: Cái nhớ xe, nhớ người ấy thật ra là cái gì vậy? Nếu là nỗi nhớ phồn hoa đô thị thì xoàng. Cháu ở liền trong trạm hằng tháng. Bác lái xe bao lần dừng, bóp còi toe toe, mặc, cháu gan lì nhất định không xuống. Ấy thế là một hôm, bác lái phải thân hành lên trạm cháu. Cháu nói: Đấy, bác cũng chẳng "thèm" người là gì?.

Anh quay sang nhìn tôi: - Và cô cũng thấy đấy, lúc nào tôi cũng có người trò chuyện. Nghĩa là có sách ấy mà. Mỗi người viết một vẻ- . Rồi anh say sưa kể về những đồng nghiệp của mình đang âm thầm ngày đêm cống hiến cho đất nước. Theo anh thì họ đáng quý biết bao!

Trong thời gian ngắn ngủi, ông hoạ sĩ đã nhanh tay phác hoạ chân dung anh thanh niên vào sổ tay. Còn tôi, tôi cũng hiểu thêm về cuộc sống một mình dũng cảm tuyệt đẹp của anh, về thế giới riêng của những con người mà anh vừa kể. Tôi muốn có một cái gì đó để tặng anh, nói như anh là để kỉ niệm cuộc gặp gỡ đặc biệt này. Một cái cỏn con gì đó có thể biến thành một chút dịu dàng, một chút dũng cảm trong cuộc sống của anh, ví dụ như cuốn sách hay món trang trí nhỏ chẳng hạn. Tiếc thay, trong túi xách của tôi giờ đây chẳng có một vật gì như thế!

-Trời ơi! Chỉ còn năm phút! - Anh thanh niên kêu lên tiếc rẻ. Anh chạy ra sau nhà rồi trở vào ngay, tay cầm một cái làn. Hoạ sĩ già cũng tặc lưỡi, miễn cưỡng đứng dậy. Tôi đặt lại chiếc ghế, thong thả đến chỗ ông. Anh thanh niên nhắc rằng tôi bỏ quên chiếc khăn mùi xoa và đưa cho tôi. Tôi nhận lấy chiếc khăn rồi vội quay đi. Đến bậu cửa, ông hoạ sĩ chụp lấy tay anh lắc mạnh:

- Tôi sẽ quay trở lại. Chắc chắn thế. Tôi ở với anh ít hôm, được chứ?.

Đến lượt tôi chìa tay ra cho anh nắm, cẩn trọng, rõ ràng như người ta trao cho nhau một cái gì chứ không phải là cái bắt tay rồi nhìn thẳng vào mắt anh cái nhìn như mãi mãi không bao giờ gặp lại.

- Chào anh.

Tôi không biết cảm giác lúc đó là gì nữa. Điều cuối cùng anh dành sự quan tâm cho mọi người đó là anh ấn cái làn vào tay bác hoạ sĩ rồi nói là để cho mọi người ăn trưa. Anh xin lỗi không tiễn được vì đã đến giờ làm việc. Anh mỉm cười chào và dặn hoạ sĩ nhớ quay trở lại.

Tôi và hoạ sĩ bước xuống đến mặt đường, ngước nhìn lên thì không thấy bóng anh đâu nữa. Có lẽ anh đã vào nhà hoặc ra vườn khí tượng. Hoạ sĩ xách làn trứng, còn tôi ôm bó hoa to. Lúc này, nắng đã mạ bạc cả con đèo, đốt cháy rừng cây hừng hực như một bó đuốc lớn làm cho bó hoa càng rực thêm. Chúng tôi lững thững đi về phía chiếc xe. Hoạ sĩ lẩm bẩm: - Thanh niên bây giờ lạ thật! Các anh chị cứ như là con bướm. Mà mới mười một giờ, đã đến giờ “ốp” đâu? Tại sao anh ta không tiễn mình đến tận xe nhỉ?-. Tôi liếc nhìn ông, tự dưng trong lòng hồi hộp nhưng vẫn giữ im lặng. Tôi ra về với một nỗi xúc động khó tả và có một chút gì đó nuối tiếc. Vậy là ta đã xa con người con trai ấy rồi. Có lẽ, không bao giờ tôi quên cuộc gặp gỡ bất ngờ và đặc biệt này.

Chuyến đi Sapa này để lại trong tôi một ấn tượng khó quên và đặc biết là anh thanh niên tiêu biểu cho thế hệ trẻ chúng tôi - luôn luôn tích cực tham gia và ủng hộ phong trào ba sẵn sàng của thanh niên yêu nước. Tôi khám phá thêm những điều kì lạ mới mở ở Sapa những con người cao cả đang cống hiến hết sức mình cho đất nước.Họ sống bên cái lặng lẽ của Sapa nhưng không hề lặng lẽ mà dồi dào nhiệt huyết của tuổi trẻ.

Nguồn:dehoctot

Đóng vai Anh thanh niên kể lại truyện Lặng lẽ Sapa

 

Nguồn: https://dafulbrightteachers.org

Tôi gắn bó vời vùng đất Sa Pa này cũng được mấy năm rồi. Cô đơn lắm nhưng không nỡ bỏ về dưới xuôi bởi nơi đây có công việc mà tôi yêu thích. Tôi sống quanh quẩn làm công tác khí tượng trên đỉnh Yên Sơn cao hai nghìn sáu trăm mét; quanh năm làm bạn với mây mù và thiên nhiên lạnh lẽo. Ở trên này tôi có quen được bác lái xe rất thú vị. Tôi được bác gọi kẻ được mệnh danh là cô độc nhất thế gian. Nhà văn Nguyễn Thành Long trong một lần lên đây tìm cảm hứng đã lấy tôi làm một nhân vật trong câu chuyện Lặng lẽ Sa Pa của ông.

Tôi thèm lắm cái hơi người ấm đượm giữa cái trốn mênh mông bát ngát này. Ấy thế mà trời chẳng phụ tôi đã cho tôi có một cuộc gặp gỡ đầy bất ngờ đong đầy những dư vị tình cảm. Nhờ bác lái xe mà tôi đã gặp gỡ được ông họa sĩ và cô kĩ sư, họ đã để lại trong tôi ấn tượng sâu sắc.

 Nhắc đến bác lái xe già cơ duyên tôi may mắn được gặp bác qua một lần đẩy cây chắn ngang xe bác. Nghĩ lại thấy ngại và đáng xấu hổ vì ước muốn nhỏ nhen được gặp người của mình mà làm chắn đoạn đường bác đi. Thế mà bác lại chẳng trách tôi lại thông cảm và hiểu cho tôi. Từ đó về sau bác hay lên thăm tôi khi thì mua sách khi lại mua cho tôi những thứ tôi cần.

Hôm nay cũng như thường lệ; nhác thấy chiếc xe của bác phía xa xa, tôi rạng rỡ chạy tới dũi vào tay bác củ tam thất nhỏ vừa đào được, gửi bác về ngâm rượu bồi bổ cho bác gái vừa mới ốm dậy. Tôi hồ hới khoe với bác mà chẳng để ý bác còn dẫn thêm hai người khách. Bác giới thiệu nhanh với tôi rằng đó là một ông họa sĩ già và một cô kĩ sư nông nghiệp. Theo lời gợi ý của bác, tôi có lời mời khách lên thăm nhà và cũng chính là nơi tôi làm việc.

Ở đây cuộc sống cô độc tôi có trồng thêm vài cây hoa: hoa dơn; hoa thược dược; hoa hồng phấn;… Sắc xanh đỏ, tím đan xen rực rỡ. Không nhiều nhưng cũng đủ làm nức lòng khách nơi xa. Cô kĩ sư xinh đẹp cũng không nằm trong ngoại lệ, cô ồ lên một tiếng đầy thích thú. Cô ấy là cô gái đầu tiên từ Hà Nội tới thăm nhà tôi vậy chả có lý do gì mà tôi không dành tặng cho cô ấy một bó hoa thật to cả?

Bác lái xe già chỉ cho tôi gặp “người” được 30 phút để bác không lỡ dở hành trình của mình. Vì thế tôi phải tranh thủ từng giây từng phút quý giá của cuộc đời. Tôi xin ông và cô 5 phút để kể về câu chuyện của mình và 20 phút để được nghe về chuyện dưới xuôi. Tôi thực sự rất muốn biết dưới xuôi bây giờ tình hình kinh tế, con người như thế nào, có gì đổi mới hay không?

Tôi bắt đầu kể về công việc của mình: - Công việc của cháu  gắn liền với những chiếc máy nằm ngoài vườn kia. Nhiệm vụ của cháu là đo gió, đo mưa, đo nắng, tính mây, tính chấn động, dự báo thời tiết hàng ngày phục vụ cho bà con sản xuất và chiến đấu. - Vừa kể tôi vừa giới thiệu cho bác từng loại máy: nào là máy đo mưa; mưa xong thì đổ nước mưa ra cốc phân li rồi đo; còn đây là máy nhật quang kí, chuyên dùng để đo mức độ nắng dựa trên khả năng thiêu đốt giấy rồi máy đo gió; đo mây;…Đây là những máy móc làm việc hàng ngày của tôi; tôi sử dụng chúng để nghiên cứu lấy số liệu rồi báo về bằng bộ đàm chuyên dụng vào khoảng thời gian cố định là bốn giờ; mười một giờ; bảy giờ tối và mười một giờ sáng. Nắm chắc kiến thức khoa học; công việc nói chung là đơn giản. Chỉ ngại mỗi hôm thời tiết khắc nhiệt; gió tuyết lạnh căm mà phải ra vườn lúc một giờ sáng thì cảm giác thật khó tả. Cái lặng im; gào thét lạnh lẽo của gió như giằng xé, nuốt trọn con người nhỏ bé. Lúc xong việc quay trở vào giường lại đau đáu chằn chọc không tài nào tiếp giấc được nữa.

Nói đến đây giọng tôi như có cái gì đó đè nén, có cái gì nghẹn ngào đến khó tả bỗng nghẹn lại. Tôi ngẩng lên thấy cô gái đang chăm chú lắng nghe, ông họa sĩ già lại dục tôi: 

-Anh kể tiếp đi. 

Tôi sợ rằng kể nữa mình sẽ chẳng kìm được cảm xúc nên lảng sang, tôi vui vẻ: 

- Thôi mời cô và ông vào trong nhà. Chè đã ngấm rồi đó.

Nhà tôi thì đơn sơ: có chiếc giường con; chiếc bàn học và một giá sách. Sống một mình thế có lẽ là đủ. Tôi rót nước mời ông, mời cô nhưng cô gái trẻ lại đang mải mê bên trang sách nên tôi chỉ lẳng lặng đặt nhẹ phía trước mặt. Uống chè tôi pha, ông họa sĩ tỏ ra thích thú, ông tiếp:

- Ta thỏa thuận thế này. Chuyện dưới xuôi, mười ngày nữa trở lại đây, tôi sẽ kể anh nghe. Tôi sẽ trở lại, danh dự đấy. Tôi cũng muốn biết cái yên lặng lúc một giờ sáng chon von trên cao nó thế nào. Bây giờ có cả ba chúng ta đây, anh hãy kể chuyện anh đi. Sao người ta bảo anh là người cô độc nhất thế gian? Rằng anh “thèm” người lắm?”

Nghe đến đây tôi sững sờ, đoán biết là do bác lái xe kể, tôi vội thanh minh:

- Không, không đúng đâu. Một mình thì anh bạn trên trạm đỉnh Phan-xi-păng ba nghìn một trăm bốn mươi hai mét kia mới một mình hơn cháu. Làm khí tượng, ở được cao thế mới là lí tưởng chứ.

Nói cho vui thế chứ cũng có lúc tôi đã từng nghĩ mình cô đơn nhưng ngẫm lại cho cùng tôi nào có cô đơn, tôi còn có công việc vả lại công việc của tôi còn gắn liền với bao anh em, đồng chí dưới kia. Còn nói về cái thèm người tôi không phủ nhận. Mỗi lúc như thế tôi lại nói với lòng mình rằng:  Mình sinh ra ở đâu và làm việc vì cái gì? Mình phải có trách nhiệm và cống hiến hết mình. Mà đâu chỉ mình tôi thèm người bác lái xe cũng thế còn gì, những hôm bác ấn còi inh ỏi mà tôi không chịu xuống là bác lại mò lên tận đây.

Quay sang cô kĩ sư tôi đùa cợt: Và cô thấy đấy, tôi còn có sách làm bạn cơ mà.

Ông họa sĩ thắc mắc hỏi tôi: Quê anh ở đâu?

Tôi cũng không ngần ngại chia sẻ:

- Quê cháu ở Lào Cai và cháu có một ông bố tuyệt lắm. Hai bố con cháu cùng viết đơn xin ra lính đi mặt trận. Kết quả: bố cháu thắng cháu một – không. Dịp tết vừa rồi có một đoàn các chú lái máy bay lên thăm cơ quan cháu ở Sa Pa. Không có cháu ở đấy. Các chú lại cử một chú lên tận đây. Chú ấy nói: nhờ có cháu góp phần phát hiện một đám mây khô mà ngày ấy, tháng ấy, không quân ta hạ đựơc bao nhiêu phản lực Mĩ trên cầu Hàm Rồng. Đối với cháu lúc đấy cảm xúc như vỡ òa, hạnh phúc vì cũng có lúc mình lại lập được chiến công to đến thế. Chú lái máy bay có nhắc đến bố cháu, ôm cháu mà lắc “Thế là một – hòa nhé!”. Chú nói thế chứ cháu vẫn còn thua bố nhiều lắm

Bất giác quay sang tôi thấy ông họa sĩ đang hí hoáy vào cuốn sổ trên gối. Bác vẽ tôi nhưng mình còn chưa xứng đáng. Dù thể để không vô lễ tôi vẫn ngồi yên để bác vẽ. Những nét phác họa nhanh nhưng chứa đựng đầy tâm huyết và tình cảm ở trong đó. Tôi cảm nhận là vậy.

Tôi biết có rất nhiều người xứng đáng hơn mình. Tôi nhanh nhảu: “Cháu giới thiệu với bác ông kĩ sư ở vườn rau dưới Sa Pa! Ngày này sang ngày khác ông ngồi im trong vườn su hào, rình xem cách ong lấy phấn, thụ phấn cho hoa su hào. Rồi, để được theo ý mình, tự ông cầm một chiếc que, mỗi ngày chín mười giờ sáng, lúc hoa tung cánh, đi từng cây su hào làm thay cho ong. Hàng vạn cây như vậy. Để củ su hào nhân dân toàn miền Bắc nước ta ăn được to hơn, ngon hơn trước. Ông kĩ sư làm cháu thấy cuộc đời đẹp quá. Bác về Sa Pa vẽ ông ta đi, bác. Hay là, đồng chí nghiên cứu khoa học ở cơ quan cháu ở dưới ấy đấy. Có thể nói đồng chí ấy trong tư thế sẵn sàng suốt ngày chờ sét. Nửa đêm mưa gió rét buốt, mặc, cứ nghe sét là đồng chí choáng choàng chạy ra. Như thế mười một năm. Mười một năm không một ngày xa cơ quan. Không đi đến đâu mà tìm vợ. Đồng chí cứ sợ nhỡ có sét lại vắng mặt mình. Đồng chí đang làm một cái bản đồ sét riêng cho nước ta. Có cái bản đồ ấy thì lắm của lắm bác ạ. Của chìm nông, của chìm sâu trong lòng đất đều có thể biết, quý giá lắm. Trán đồng chí cứ hói dần đi. Nhưng cái bản đồ sét thì sắp xong rồi.”

Đó là những con người hi sinh thầm lặng, những con người cống hiến hết mình giữa cái chốn hoang vu, lạnh lẽo để dựng xây quê hương đất nước. Nói đến đây tôi thoáng thấy một nét đượm buồn ,băn khoăn đầy ưu tư trên khuôn mặt ông họa sĩ.

Còn về cô kĩ sư nông nghiệp. Tôi không giỏi đoán được suy nghĩ con gái. Tôi không biết rằng cô đang nghĩ gì? Về câu chuyện tôi kể hay về những cảm xúc tình yêu trong cuốn sách? Hay phải chăng còn là những quyết định đã qua? Tôi không thể đoán được nhưng tôi chắc rằng trong cô đang dạt dào lên một ấn tượng hàm ơn khó tả. Và như muốn để lưu lại chút gì đó nơi đây cô cố tình kẹp lại chiếc khăn tay vào giữa cuốn sách gửi lại cho tôi.

Nhưng vì lịch sự, vì những suy nghĩ chốc lát tôi lại gào lên : 

-  Ô, cô còn quên khăn mùi soa đây này.

 Rồi cuộn tròn lại trả cho cô. Cô gái ngượng ngùng nhận rồi ngoảnh mặt quay đi.

Tôi đúng là vô tâm, vô tâm nên mới không hiểu ý nhị của người con gái đáng yêu; tâm tình ấy. Mãi đến bây giờ nhận ra thì cũng đã chỉ còn là quá khứ.

Thời gian cũng đã hết tôi phải tiễn 2 người khách đặc biệt ra về. Ông họa sĩ ôm chặt vai tôi lắc mạnh đầy hứa hẹn: 

- Chắc chắn rồi tôi sẽ trở lại. Tôi ở với anh ít hôm được chứ?

Còn cô gái nắm lấy tay tôi buông câu nhẹ nhàng: “Chào anh”. Một tình cảm nghẹn ngào như hàm chứa trong đó, cảm xúc dâng trào đến tột cùng trong tôi và có lẽ trong cả chính cô gái ấy.

Tôi xách vội túi trứng, dúi vào tay ông họa sĩ: 

-Cái này để ăn trưa cho bác, cho cô và bác lái xe. Cháu có bao nhiêu là trứng, ăn không xuể. Cháu không tiễn bác và cô ra xe được, vì gần tới giờ “ốp” rồi. Thôi chào bác, chào cô. Bác sẽ trở lại nhé.

Trung thực mà nói chưa đến giờ tôi trực nhưng tôi sợ sợ cái cảm giác chia li ấy, sợ phải nói lời tạm biệt, sợ phải xa cái gọi là “hơi người”.

Tôi chạy vào trong nhà và ngắm nhìn mãi cho đến khi bóng cái xe khuất hẳn phía đằng xa.

Đó là câu chuyện của tôi câu chuyện về chuyến gặp gỡ đặc biệt nơi núi rừng lạnh lẽo. Trong con mắt của ông họa sĩ già, của cô kĩ sư và của những người khác nữa, có lẽ đôi lúc họ sẽ tự hỏi tại sao tôi lại hành khổ mình đến thế? Tại sao tôi lại phí hoài tuổi trẻ đến thế? Tuổi trẻ để bay bổng còn tại sao tôi lại chọn cuộc sống cô đơn? Tôi không buồn mà trái lại tôi còn cảm thấy vui, cảm thấy hạnh phúc vì đã được đóng góp một phần sức lực nhỏ bé cho quê hương, đất nước; được cống hiến nhiệt thành tuổi trẻ này cho non sông, núi rừng, để quốc gia ngày một đi lên, phát triển hưng thịnh và giàu đẹp. Hi vọng thế hệ sau này sẽ có những con người như tôi, như ông kĩ sư hay đồng chí nghiên cứu sét- Những con người Lặng lẽ Sa Pa.

Thứ Tư, 16 tháng 12, 2020

Mơ gặp Vũ Nương

 

“Đau đớn thay phận đàn bà

Lời rằng bạc mệnh ấy là lời chung”

“Phận đàn bà” mà Nguyễn Du nhắc đến không chỉ là một Thúy Kiều với nỗi khổ đoạn trường mà còn là thân phận của bao nhiêu người phụ nữ trong xã hội phong kiến điển hình là nhân vật Vũ Nương. Mặc dù đọc qua câu chuyện “Chuyện người con gái Nam Xương” nhiều lần, nhưng mỗi lần trải mình trên từng câu chữ của Nguyễn Dữ, tôi lại không ngăn được xúc động và niềm ao ước mãnh liệt: được gặp chính Vũ Nương – người con gái đã lấy cái chết chứng minh cho sự trong sạch của mình. Điều ước đó trở thành hiện thực trong một giấc mơ trưa. Đó là một giấc mơ vô cùng chân thực. Tôi đã gặp được nàng Vũ Nương trong câu chuyện bằng xương bằng thịt thực sự chứ không phải mơ hồ qua con chữ nữa.

Tôi bàng hoàng khi trước mắt mình là một thế giới tuyệt đẹp, thế giới chỉ có trong cổ tích. Con đường tôi đang đi lóng lánh những sắc màu tuyệt đẹp của hàng nghìn viên đá khác nhau. Những rặng san hô hình thù kì lạ, lũ tôm cá hàng đàn rượt đuổi nhau. Tôi nhận ra mình đang ở thủy cung, nhưng điều kì lạ đó chẳng là gì so với việc tôi có thể trò chuyện được với những nàng tiên cá và nghe họ hát. Tôi say sưa lắng nghe tiếng hát của họ rồi bất giác vỗ tay khi bài hát kết thúc. Các chị nhận ra có người lạ nhưng chẳng mấy ngạc nhiên. Họ đến gần tôi và mỉm cười và trò chuyện như đã quen biết từ lâu:

- Chúng ta có một vị khách trẻ tuổi đây. Các chị là tiên cá nơi cung nước của rùa thần, em là ai? Em giới thiệu để mọi người cùng biết.

Rất tự tin, tôi đã giới thiệu về mình và không quên khen ngợi tiếng hát của các nàng tiên cá còn hay hơn cả nhưng câu chuyện tôi được học. Trong các nàng tiên cá với bộ vảy óng ánh thì có một người con gái khác biệt. Nàng ấy khá trẻ, nàng mặc chiếc áo xanh da trời, trên tóc cài chiếc thoa ngọc. Thấy tôi chăm chú nhìn người con gái khác biệt ấy, các nàng tiên nói:

- Còn đây là Vũ Nương, nàng ấy không phải tiên cá nhưng chúng tôi xem nàng ấy chẳng khác gì chị em. Đời nàng ấy buồn lắm,xưa kia ở trên trần gian bị chồng ruồng rẫy nên lấy cái chết minh oan. May mà hôm đó chị em ta đang dạo chơi ở bến nước Hoàng Giang, chứng kiến cảnh đau lòng nên rẽ một đường nước để nàng ta thoát chết.

Tôi không tin vào mắt mình, một cảm giác vui sướng vừa hồi họp khi nay đã tận mắt gặp được người mình luôn nghĩ tới. Được nhắc đến tên mình, Vũ Nương bước lại gần tôi hơn. Nàng nhìn vào mắt tôi và hỏi:

- Em có tò mò về cuộc đời ta hay không? Dù mới gặp em lần đầu nhưng ta cảm thấy rất thân quen. Nếu muốn, ta sẽ kể cho em nghe về những ngày tháng mà ta chỉ muốn quên đi.

Đó là điều hằng mong ước bấy lâu nay, nên tôi nhanh chóng đáp lại:

- Em rất muốn nghe ạ!

Vũ Nương kéo tay tôi ngồi vào một tảng đá đẹp rồi nhẹ nhàng câu chuyện:

- Ta sinh ra ở Nam Xương, gia đình ta nghèo ba mẹ ngỏ ý muốn ta lấy Trương Sinh,một người cùng làng để ta được yên phận vì nhà người ta cũng là gia đình danh gia vọng tộc. Huống hồ gì Trương Sinh cũng đem lòng cảm mến ta và nhiều lần dạm ngõ. Ta thuận tình cha mẹ nên đồng ý lấy chàng và cũng muốn vui cảnh nghi gia nghi thất. Chồng ta – Trương Sinh dù lớn lên trong nhung lụa nhưng lại không đi học, điều đó chẳng đáng kể gì nếu như chàng ta không vốn tính cộc cằn, gia trưởng, đối với ta phòng ngừa quá mức. Ta thương chồng, trọng nghĩa phu thê nên chẳng bao giờ làm điều gì khiến chàng ấy phải bận lòng.

Vũ Nương tâm sự trong tiếng thở dài, nàng cúi đầu giấu giọt nước mắt lăn dài trên má:

- Năm đấy, triều đình có lệnh bắt lính, Trương Sinh không thể tránh khỏi nên ta và mẹ già đành ngậm ngùi từ biệt. Nỗi đau tiễn chồng ra trận chưa được nguôi ngoai thì mẹ già lâm trọng bệnh. Ta thương mẹ, chăm sóc, lo lắng như mẹ ruột của mình. Có lẽ bệnh của bà không phải chỉ vì tuổi già sức yếu mà vì trông đợi đứa con trai biền biệt chẳng biết sống chết thế nào. Nước khánh chuông rền, sức cùng lực kiệt, bà chẳng thể đợi ngày xum vầy với con mình mà đã vội vàng ra đi mãi mãi. Lúc đó ta như người mất hồn, nỗi đau chia lìa người thân khiến ta suy kiệt. Nhưng vì phận là dâu, làm vợ, ta thay chồng lo toan mọi việc chu toàn cho gia đình, ma chay tế lễ mẹ chồng ta.

Dù những chuyện Vũ Nương kể tôi cũng đã nắm được khi học xong câu chuyện nhưng muốn được nghe tận lời người trong cuộc nên tiếp tục tò mò:

- Ba năm sau, Trương Sinh trở lại quê hương đoàn tụ với gia đình có phải vậy không chị?

- Đúng rồi em, Sau bao ngày mong mỏi, chờ đợi, chồng tôi cũng cũng trở về. Tôi mừng vui, nghĩ mình sẽ được hạnh phúc bên chồng con nào ngờ giông bão đời ta từ đó bắt đầu. Ta biết trách ai bây giờ? Trách chàng Trương hay trách chính mình. Vừa về nhà nghe tin mẹ mất, chàng buồn lắm bế con ra thăm mẹ.Lúc thăm mẹ về, chàng giận vô cớ đùng đùng nổi giận, quát tháo tra hỏi ta. Ta rất ngờ, ngạc nhiên, sửng sốt. Khi nghe chàng mắng mỏ tôi mới biết chàng đang ghen, cho rằng tôi không chung thuy. Tôi vừa khóc vừa giãi bày. Nhưng bao lời nói chân thành của tôi chàng vẫn không nghe, không tin mà con đánh đuổi tôi đi.

Nói đến đây, nàng ngập ngừng trong tiếng khóc:

- Ta không hiểu rõ nguyên nhân và chàng cũng chẳng giải thích. Chàng cho ta là trắc nết, đoan tâm, lăng loàn. Hàng xóm có sang minh oan, giải bày chàng cũng để ngoài tai. Ngọn lửa trong lòng chàng thiêu đốt lí trí chàng, thiêu cả tình cảm phu thê để rồi chàng buộc miệng nói những lời cay đắng xua đuổi ta. Ta thấy mình bị xúc phạm một cách ghê gớm, thất vọng khi bị chồng đuổi đi. Hành động của Trương Sinh khiến ta thấy mình bị coi thường, khinh khi. Ta là phận nữ nhi,khi xuất giá theo chồng thì nguyện sống chết cũng chẳng thể về nhìn mặt ba mẹ mình được nữa. Nỗi oan ức chỉ lòng trời soi thấu nên ta đã lấy cái chết mà minh oan cho chính bản thân mình. Ta suy nghĩ kĩ lắm mới quyết định quyên sinh. Chỉ có cái chết mới  minh chứng tấm lòng trong sạch của ta nhưng bé Đản sẽ sống ra sao nếu thiếu mẹ…Đản ơi, mẹ xin lỗi con. Đứng trước sông, ta thề nguyện khấn thần linh chứng giám tấm lòng trinh bạch của mình. Sau đó ta gieo mình xuống sông.Nhưng ta không chết. Tỉnh dậy ta thấy mình đang ở dưới thủy cung.Có lẽ lời than đã thấu tới các vị thần linh. Thần linh hiểu và thương tình.

Nói đến đây, Vũ Nương lấy khăn lau vội dòng nước mắt, các nàng tiên cá cũng sụt sùi theo. Chẳng hiểu sao tôi ngồi đấy như tượng và lồng ngực thì có cái gì đè nặng. Thương cho Vũ Nương, thương cho nhưng người phụ nữ chịu nhiều bất hạnh, họ quá thấp cổ bé họng nên chẳng biết kêu than cùng ai.

- Ở chốn cung nước xinh đẹp này, chị có quên đi nỗi đau ngày ấy hay vẫn còn nhớ cố nhân?

Vũ Nương ngước mắt nhìn về một hướng xa xăm, chắc nơi đó là quê nhà của chị:

- Làm sao ta có thể quên đi những kí ức ấy huống hồ gì ta còn có cha mẹ thân sinh và bé Đản. Chỉ tiếc rằng ta không thể trở về được nữa, ơn đức của Linh Phi và tình sâu nghĩa nặng của các chị em ở đây đã xoa dịu nỗi đau của ta, cho ta một kiếp sống mới, hoàn toàn khác chứ không phải Vũ Nương của ngày xưa. Người con gái chung thủy ấy đã chết từ lúc chồng cô ta ruồng bỏ.

Tôi nắm bàn tay của chị như để an ủi , động viên:

- Em biết rằng Trương Sinh cũng đã ăn năn về lối ghen tuông vô cớ của mình, chàng ta có lập đàn giải oan cho chị ở bến sông Hoàng Giang đúng không?

- Nhắc đến đây, ta phải tạ ơn Phan Lang, người cùng làng của cố nhân đã trao gửi giúp ta lời mong ước và tín vật. Nhưng em ơi, nước đổ đi rồi làm sao hốt lại, có những chuyện phải thuận theo ý trời. Duyên tình của ta và chàng Trương đã hết.

Giọt nước mắt của Vũ Nương rớt xuống mắt tôi, khiến mắt tôi cũng cay xòe. Tôi choàng tỉnh giấc trong cái nắng trưa gay gắt mà cứ ngỡ mình còn lạc nơi cung nước rùa thần. Phải một lúc lâu, tôi mới nhận ra mình đã mơ, một giấc mơ chẳng khác gì sự thật. Tôi vừa sung sướng vừa luyến tiếc như cái cảm giác sắp chạm vào một ngôi sao tuyệt đẹp. Câu chuyện của Vũ Nương vẫn còn ám ảnh tôi mãi. Vũ Nương một người con gái tài hoa nhưng mệnh bạc. Tuy kiếp đời ngắn ngủi nhưng nàng đã làm tròn bổn phận của một người con dâu, một người vợ và một người mẹ. Thế nhưng nàng chịu tiếng oan của cuộc đời. Trương Sinh chỉ là một trong những nguyên nhân trực tiếp dẫn đến bi kịch cuộc đời nàng còn nguyên nhân gián tiếp là do chiến tranh đã đẩy cuộc đời nàng vào bi kịch.

  Nguồn: Phan Trúc Phương

Hóa thân Lục Vân Tiên

 

Cuộc đời mỗi chúng ta luôn xuất hiện những cuộc gặp gỡ bất ngờ. Để rồi người chúng ta vô tình tương ngộ trong cuộc gặp gỡ đó có thể sẽ trở thành một người quan trọng trong số mệnh của chúng ta. Tôi cũng tình cờ rơi vào một cuộc gặp như thế. Và người con gái tôi gặp được khi ấy mãi đến sau này vẫn ghi dấu sâu sắc trong lòng tôi - Lục Vân Tiên.

Tôi quê ở huyện Đông Thành, khôi ngô tuấn tú, tài kiêm văn võ. Từ nhỏ, Tôi đã khát khao lập được nhiều công danh, giúp ích cho đời. Tôi theo thầy lên núi tu học từ khi còn nhỏ. Tôikhông ngừng cố gắng rèn luyện văn thành võ thạo. Tôi chỉ mong có ngày được đem tài năng giúp dân giúp nước.

Năm ấy, nghe tin triều đình mở khoa thi, từ giã thầy, tôi xuống núi, hăm hở về kinh đô ứng thí. Lộ trình đầy gian nan. Giữa đường, tôi bất ngờ gặp nhân dân dắt díu nhau chạy trốn, tiếng kêu khóc vang lên thảm thiết. Tôi đã ân cần hỏi han sự tình đầu đuôi và quyết ra tay đánh cướp để cứu dân lành thoát khỏi cảnh đau thương, nước sôi lửa bỏng. Tôi nói với mọi người: “Tôi xin ra sức anh hào,cứu người cho khỏi lao đao buổi này!”. Tôi nghĩ rằng, kẻ cướp ỷ thế mạnh hiếp đáp kẻ lành, quả là bọn bất nhân, tôi quyết ra tay cứu giúp.

Lửa giận trong tôi bùng cháy dữ dội. Tuy tôi không có vũ khí, tay không tất sắt nhưng thầy đã dạy phải biết bênh vực dân lành, gặp kẻ hoạn nạn phải ra tay tương trợ. Huống chi giặc cướp hung tàn, người dân hiền lành vô tội sao có thể tránh thoát khỏi tay chúng? Không chần chừ nghĩ ngợi gì thêm, Tôi bẻ một cành cây rắn chắc ven đường làm gậy rồi nhanh chóng xông về phía làng lũ cướp đông đảo và đáng sợ, gươm giáo sáng ngời, đang hoành hành, quát lớn:

- Bọn hung đồ kia! Ban ngày ban mặt, tụi bây lại làm thói hồ đồ hại người dân vô tội.

Thấy Tôi bất ngờ xông ra cản đường, lũ cướp thoáng dừng lại. Những tưởng chúng sẽ biết đường dừng tay. Ngờ đâu tên tướng cướp Phong Lai "mặt đỏ phừng phừng" đầy sát khí trợn mắt cầm thanh gươm sắc chỉ thẳng vào tôi đe dọa:

- Thằng nào tim to gan lớn tiếng vậy? Mày can dự phải hậu quả vạ thân. Bọn bay đâu vây bắt nó lại.

Phong Lai có tiếng dữ tợn và có sức khoẻ muôn người khôn địch! Đàn em theo hắn rất đông và rất hung tàn. Nghe tiếng hắn ra lệnh, cả toán cướp hò hét, bao vây tứ phía, kiên quyết không cho tôi có cơ hội tháo chạy. Tiếng gươm khua sắc lạnh, tiếng cười hét điên loạn đằng đằng sát khí. Những khuôn mặt gớm ghiếc, nhưng ánh mắt chế nhạo nhìn tôi chằm chằm. Rồi chúng cứ thế mà xông vào, vung gươm, giáo nhằm tôi mà đâm. Tôi bình tĩnh quan sát. Trái đánh phải chặn, trước thủ sau công càn quét. Lũ cướp hữu dũng vô mưu, khó khăn chống đỡ đòn đánh của tôi, chẳng mấy chốc đã rơi vào thế yếu. Đột kích bên tả, xung phong bên hữu, tôi tung hoành giữa bọn cướp. Chúng bị tôi đánh tơi bời. Nhiều tên gục ngã không đứng dậy nổi. Nhiều tên kêu la thảm thiết, e dè không dám tiến lên. Được một lúc, bọn lâu la đã khiếp đảm quăng gươm giáo bỏ chạy tan tác. Tướng cướp Phong Lai thất thần định chạy trốn cũng bị tôi một gậy không kịp trở tay, bỏ mạng.

Nhìn lũ cướp chạy xa, âm thanh hỗn loạn biến mất, nghe tiếng than khóc trong xe ngựa gần đó, tôi bèn lại gần hỏi thăm.

- Không biết là ai đang ở trong xe than khóc.

Trong xe có tiếng trả lời :

- Cô con chúng tôi là người lương thiện, gặp kẻ hung đồ, may có công tử ra tay cứu giúp. Đa tạ ơn công tử cứu mạng.

Nghe vậy, tôi liền nhanh chóng giải thích:

- Xin thưa ta thiệt là người ngay. Ta đã trừ bọn lâu la rồi, giờ thì không còn sợ gì nữa. Nhưng khoan, nàng đừng ra, nàng là phận gái cứ ngồi trong đó không phải ra làm gì. Không biết tiểu thư con gái nhà ai? Đi đâu mà gặp tai ương bất ngờ. Nàng tên họ là gì? Có việc quan trọng hay sao mà lại đi qua chốn này? Lại chẳng hay hai nàng ai là thầy ai là tớ?

Chần chừ chốc lát, tôi mới nghe được câu trả lời nghẹn ngào:

- Thưa công tử, tiện thiếp tên Kiều Nguyệt Nga, còn đây là đầy tớ tên Kim Liên. Quê thiếp ở tận Tây Xuyên, cha thiếp làm tri phủ Hà Khê. Cha cho gọi thiếp qua đó để yên bề gia thất. Làm phận con đâu dám trái lời cha mẹ. Chẳng may giữa đường gặp nạn, may được công tử giải nguy. Nếu không trinh tiết, phẩm giá gìn giữ một đời cũng đã bỏ đi rồi.

Nói rồi, tôi nghe nàng thưa tiếp:

- Mời công tử ngồi tạm trước xe để cho tiện thiếp được lạy tạ tỏ lòng biết ơn người cứu nạn. Thiếp chẳng biết làm thế nào cho phải. Ở đây, gặp gỡ giữa đường chẳng có bạc vàng, gấm vóc. May sao, Hà Khê cũng không xa lắm, xin tôi theo thiếp về bên đó để thiếp được dịp trả ơn tôi.

Nghe vậy, tôi cười nói:

- Nàng chớ bận tâm làm gì. Ta làm ơn đâu phải để trông chờ trả ơn. Là đấng nam nhi, xả thân hành hiệp trượng nghĩa là đạo lí nên làm, nào có mưu cầu danh lợi thiệt hơn. Nam nhi đầu đội trời, chân đạp đất, thấy việc nghĩa không từ nan, thấy người gặp nạn quyết ra tay ứng cứu, đó mới là nghĩa khí của anh hùng.Thấy việc nghĩa không làm thì đâu còn xứng mặt!

Nói xong, tôi cáo biệt chủ tớ hai người, tiếp tục lên đường.

Trên đường lòng tôi ngổn ngang nhiều cảm xúc, vui sướng vì đã làm được việc nghĩa, hóa giải an nguy cho người dân vô tội. Đồng thời tôi cũng cảm phục người con gái khéo léo, dịu dàng. Con đường phía trước vẫn còn dài, lần này xuống núi, Tôi tự nhủ sẽ làm rạng danh thầy dạy, đem tài trí giúp ích cho cuộc đời.

Hóa thân Kiều Nguyệt Nga

 

Tôi nhắc ông lão đánh xe chạy nhanh một chút để kịp đến phủ nha tri phủ Hà Khê. Ánh mặt trời đã lên cao tự lúc nào, người đi đường thấp thoáng sau rặng tre xa xa. Tôi nhớ cha nhiều lắm, mong muốn gặp cha nôn nao trong lòng. Cha tôi vốn nghiêm khắc; ông muốn sắp đặt chuyện tình duyên của tôi nên cho gọi tôi từ quê nhà ở huyện Tây Xuyên qua Hà Khê để yên bề gia thất. Kiều Nguyệt Nga tôi dù không muốn nhưng phận làm con phải vâng lời cha mẹ liền đem theo cô hầu Kim Liên lên đường.

Bầu trời trong vắt, những đám mây trôi nhè nhẹ. Từng đàn cò trắng nhẹ nhàng hạ cánh xuống cánh đồng lúa đang thì con gái. Hai bên bờ sông, rặng liễu rũ bóng thướt tha. Nhưng tôi có một dự cảm không lành: Đường xa, phận gái yếu liễu đào tơ, nếu chẳng may giữa đường gặp chuyện chẳng lành thì biết xoay sở làm sao? Nghĩ thế thôi tôi cảm thấy lạnh trong người.

Quả như điều tôi lo lắng, khi xe đến một quãng đường vắng xa nhà cửa không người qua lại. Tôi nghe thấy la hét thảm thiết tiếng người dân vọng đến.Tôi kéo rèm xe nhìn ra đường. Tôi thấy mọi người chạy tán loạn, dắt díu nhau chạy vào rừng để trốn. Tiếng kêu khóc vang lên thảm thiết. Ông lão xa phu hốt hoảng đứng đậy bỏ chạy. Tôi sợ hãi kêu bác lại. Ông vừa chạy vừa nói: – Tôi chạy đây, tôi không muốn chết! Lũ cướp rất đáng sợ, chúng trang bị rất nhiều vũ khí, chúng đang tàn phá nhà cửa và cướp bóc của cải của dân làng. Các cô cũng hãy chạy mau đi, nghe lời lão đi! Các cô mà bị chúng bắt lại, thì nguy lắm đó. Thôi lão đi đây….”. Vừa dứt lời, ông lão đã tức tốc chạy đi. Tôi hoảng đến không biết làm gì.

Thình lình một toán cướp từ đâu xông tới chặn trước xe quát tháo, đòi vàng bạc. Tôi và Kim Liên vô cùng hoảng sợ. Chúng hùng hổ bao vây quanh kiệu, khuôn mặt dữ tợn, xua gươm, múa giáo thị uy.Tên tướng cướp cười sằng sặc, khuôn mặt chằng chịt những vết sẹo trong thật gớm giếc. Hắn cất giọng nham nhở đầy dục vọng định vén màn thưa:

-Tiểu thư đi đâu mà vội vã thế này? Hãy ở lại vui vẻ cùng bọn ta. Nơi đây thanh vắng, đừng la lối om sòm.

Bọn lâu la cũng hò hét hô ứng. Kim Liên sợ quá nép chặt sau lưng. Tôi cũng không còn hồn vía. Sau đó, hắn định lao vào kiệu bắt tôi ra thì ngay lúc đó một tiếng quát của ai đó sang sảng vang lên:

- Lũ côn đồ kia, hãy dừng tay! Giữa ban ngày ban mặt sao dám chặn đường cướp bóc dân lành?

Tên tướng cướp nghe tiếng, giật mình, bỏ qua tôi quay lại nhìn chàng trai.

-Thằng nào dám tới lẫy lừng nơi đây? A! Thằng nhãi con. Không chuyện gì của mày ở đây, chớ có can dự kẻo chuốc vạ vào thân.

Tôi thấy một chàng trai đang cầm một cành cây dài bẻ bên đường làm gậy rồi nhanh như chớp xông vào giữa đám cướp. Bọn lâu la quay lại quát nạt, khua gươm giáo vây bốn phía quyết không cho chàng đường tháo chạy. Chẳng chút nao núng, chàng trai trẻ vạch tội kẻ côn đồ, nhân danh chính nghĩa, ra lời kêu gọi dừng tay. Bọn cướp không những không nghe mà còn cười nhạo, lấy đông hiếp yếu vây đánh kẻ thân cô thế cô. Tên tướng cướp mắt trợn ngược đầy hung tợn, mặt đỏ phừng phừng cầm thanh gươm sắc bén chỉ vào chàng và quát:

- Bọn bay đâu  bắt nó lại.

Bọn chúng người cầm gươm, người cầm giáo đằng đằng sát khí hô vang: “GIẾT! GIẾT! GIẾT!”. Rồi chúng  xông vào, vung gươm, giáo nhằm chàng mà đâm. Tiếng gươm khua sắc lạnh, tiếng cười hét điên loạn đằng đằng sát khí.

Trận chiến diễn ra kịch liệt. Chàng trai đánh trái chặn phải, thủ trước công sau càn quét lũ cướp hữu dũng vô mưu. Tiếng la quát vang lên, tiếng gươm giáo chạm nhau nghe sắt lạnh, tiếng thét đầy sức mạnh của chàng trai, tiếng kêu la của bọn cướp bị đánh. Kim Liên sợ quá nấp đằng sau kiệu, khuyên tôi bình tĩnh. Lũ cướp rất đông và đáng sợ, gươm giáo sáng ngời. Tướng cướp Phong Lai "mặt đỏ phừng phừng" đầy sát khí, ra lệnh cho bọn cướp lao đầu vào đánh.Giữa vòng vây của lũ cướp, không một tấc sắt trong tay, một mình với cành cây làm gậy, chàng đột kích bên tả, xung phong bên hữu, chàng tung hoành giữa bọn cướp. Chàng đánh bọn chúng tơi bời. Chàng làm chúng sợ kinh hồn, vứt hết gươm giáo mà bỏ chạy tán loạn để thoát thân. Tên tướng cướp định bỏ trốn cũng bị chàng đánh cho một trận sống dở chết dở. Tướng cướp bị chàng cho thêm một gậy tiêu diệt. Chàng tả đột hữu xông không khác Triệu Tử phá vòng Đương Dang. Thật là oai hùng làm sao.

Sau một lúc, tiếng kêu dần ra xa. Chàng đã đánh tan quân cướp. Thật là may quá, tôi và Kim Liên đã được cứu rồi. Kim Liên ở phía sau kiệu vẫn chưa hoàn hồn, còn thút thít khóc lóc. Tôi dần dần bình tĩnh lại.Thoáng sau, tôi thấy chàng đi đến kiệu, ân cần hỏi han.

- Không biết là ai đang ở trong xe than khóc.

Lúc này Kim Liên mới bình tĩnh lại lên tiếng trả lời :

- Cô con chúng tôi là người lương thiện, gặp kẻ hung đồ, may có công tử ra tay cứu giúp. Đa tạ ơn công tử cứu mạng.

Nghe vậy, chàng trai liền nhanh chóng giải thích:

- Xin thưa ta thiệt là người ngay. Ta đã trừ bọn lâu la rồi, giờ thì không còn sợ gì nữa. Nhưng khoan, nàng đừng ra, nàng là phận gái cứ ngồi trong đó không phải ra làm gì. Không biết tiểu thư con gái nhà ai? Đi đâu mà gặp tai ương bất ngờ. Nàng tên họ là gì? Có việc quan trọng hay sao mà lại đi qua chốn này? Lại chẳng hay hai nàng ai là thầy ai là tớ?

Nghe chàng hỏi, tôi xúc động nghẹn ngào trả lời:

- Thưa công tử, tiện thiếp tên Kiều Nguyệt Nga, còn đây là đầy tớ tên Kim Liên. Quê thiếp ở tận Tây Xuyên, cha thiếp làm tri phủ Hà Khê. Cha cho gọi thiếp qua đó để yên bề gia thất. Làm phận con đâu dám trái lời cha mẹ. Chẳng may giữa đường gặp nạn, may được công tử giải nguy. Nếu không trinh tiết, phẩm giá gìn giữ một đời cũng đã bỏ đi rồi.

Nói rồi, tôi sửa soạn khăn áo thưa tiếp:

- Mời công tử ngồi tạm trước xe để cho tiện thiếp được lạy tạ tỏ lòng biết ơn người cứu nạn. Thiếp chẳng biết làm thế nào cho phải. Ở đây, gặp gỡ giữa đường chẳng có bạc vàng, gấm vóc. May sao, Hà Khê cũng không xa lắm, xin chàng theo thiếp về bên đó để thiếp được dịp trả ơn chàng.

Thế nhưng vừa nghe tôi nói vậy, chàng cười nói :

- Nàng chớ bận tâm làm gì. Ta làm ơn đâu phải để trông chờ trả ơn. Là đấng nam nhi, xả thân hành hiệp trượng nghĩa là đạo lí nên làm, nào có mưu cầu danh lợi thiệt hơn. Nam nhi đầu đội trời, chân đạp đất, thấy việc nghĩa không từ nan, thấy người gặp nạn quyết ra tay ứng cứu, đó mới là nghĩa khí của anh hùng.Thấy việc nghĩa không làm thì đâu còn xứng mặt!

Chàng cảm tạ tấm chân tình ấy của tôi rồi từ biệt để lên đường. Thế đấy! Chàng  đã giúp ích cho dân làng rồi  lại hăm hở lên đường để thi thố tài năng, cứu giúp những người khốn khó, diệt trừ lũ bạo ngược.

Nhìn chàng đi xa mà mắt tôi không thể rời xa. Không biết từ lúc nào hình ảnh chàng đã khắc sâu vào trái tim tôi. Tôi thực sự cảm phục trước hành động anh hùng và hào hiệp của chàng. Người đời ai cũng vì lợi danh, nay chàng chẳng màng đến. Chàng quả thực là phi thường.

Chàng ra đi để lại trong tôi bao vấn vương. Đâu chỉ cảm phục, hàm ân mà trong lòng tôi đã khởi phát tình yêu mến đậm sâu đối với chàng. Nay người không cảm nhận, đường đời vạn nẻo, biết đến bao giờ được hội ngộ để tỏ lòng.Một lần hộ thân, cứu giá, nghìn năm ơn ấy ghi sâu.

Chuyển đọan trích LỤC VÂN TIÊN CỨU KIỀU NGUYỆT NGA thành văn xuôi

 


Cuộc đời mỗi chúng ta luôn xuất hiện những cuộc gặp gỡ bất ngờ. Để rồi người chúng ta vô tình tương ngộ trong cuộc gặp gỡ đó có thể sẽ trở thành một người quan trọng trong số mệnh của chúng ta. Lục Vân Tiên cũng tình cờ rơi vào một cuộc gặp như thế. Và người con gái Lục Vân Tiên gặp được khi ấy mãi đến sau này vẫn ghi dấu sâu sắc trong lòng Lục Vân Tiên.

Lục Vân Tiên quê ở huyện Đông Thành, khôi ngô tuấn tú, tài kiêm văn võ. Từ nhỏ, Lục Vân Tiên đã khát khao lập được nhiều công danh, giúp ích cho đời. Chàng theo thầy lên núi tu học từ khi còn nhỏ. Lục Vân Tiên không ngừng cố gắng rèn luyện văn thành võ thạo. Chàng chỉ mong có ngày được đem tài năng giúp dân giúp nước.

Năm ấy, nghe tin triều đình mở khoa thi, từ giã thầy, chàng xuống núi, hăm hở về kinh đô ứng thí. Lộ trình đầy gian nan. Giữa đường, Lục Vân Tiên bất ngờ gặp nhân dân dắt díu nhau chạy trốn, tiếng kêu khóc vang lên thảm thiết. Chàng đã ân cần hỏi han sự tình đầu đuôi và quyết ra tay đánh cướp để cứu dân lành thoát khỏi cảnh đau thương, nước sôi lửa bỏng. Chàng nói với mọi người: “Tôi xin ra sức anh hào,cứu người cho khỏi lao đao buổi này!”. Tiên nghĩ rằng, kẻ cướp ỷ thế mạnh hiếp đáp kẻ lành, quả là bọn bất nhân, chàng quyết ra tay cứu giúp.

Lửa giận trong Lục Vân Tiên bùng cháy dữ dội. Tuy chàng không có vũ khí, tay không tất sắt nhưng thầy đã dạy phải biết bênh vực dân lành, gặp kẻ hoạn nạn phải ra tay tương trợ. Huống chi giặc cướp hung tàn, người dân hiền lành vô tội sao có thể tránh thoát khỏi tay chúng? Không chần chừ nghĩ ngợi gì thêm, Lục Vân Tiên bẻ một cành cây rắn chắc ven đường làm gậy rồi nhanh chóng xông về phía làng lũ cướp đông đảo và đáng sợ, gươm giáo sáng ngời, đang hoành hành, quát lớn:

- Bọn hung đồ kia! Ban ngày ban mặt, tụi bây lại làm thói hồ đồ hại người dân vô tội.

Thấy Lục Vân Tiên bất ngờ xông ra cản đường, lũ cướp thoáng dừng lại. Những tưởng chúng sẽ biết đường dừng tay. Ngờ đâu tên tướng cướp Phong Lai "mặt đỏ phừng phừng" đầy sát khí trợn mắt cầm thanh gươm sắc chỉ thẳng vào Lục Vân Tiên đe dọa:

- Thằng nào tim to gan lớn tiếng vậy? Mày can dự phải hậu quả vạ thân. Bọn bay đâu vây bắt nó lại.

Phong Lai có tiếng dữ tợn và có sức khoẻ muôn người khôn địch! Đàn em theo hắn rất đông và rất hung tàn. Nghe tiếng hắn ra lệnh, cả toán cướp hò hét, bao vây tứ phía, kiên quyết không cho Lục Vân Tiên có cơ hội tháo chạy. Tiếng gươm khua sắc lạnh, tiếng cười hét điên loạn đằng đằng sát khí. Những khuôn mặt gớm ghiếc, nhưng ánh mắt chế nhạo nhìn Lục Vân Tiên chằm chằm. Rồi chúng cứ thế mà xông vào, vung gươm, giáo nhằm Lục Vân Tiên mà đâm. Lục Vân Tiên bình tĩnh quan sát. Trái đánh phải chặn, trước thủ sau công càn quét. Lũ cướp hữu dũng vô mưu, khó khăn chống đỡ đòn đánh của Lục Vân Tiên, chẳng mấy chốc đã rơi vào thế yếu. Đột kích bên tả, xung phong bên hữu, chàng tung hoành giữa bọn cướp. Chúng bị đánh tơi bời. Nhiều tên gục ngã không đứng dậy nổi. Nhiều tên kêu la thảm thiết, e dè không dám tiến lên. Được một lúc, bọn lâu la đã khiếp đảm quăng gươm giáo bỏ chạy tan tác. Tướng cướp Phong Lai thất thần định chạy trốn cũng bị Lục Vân Tiên một gậy không kịp trở tay, bỏ mạng.

Nhìn lũ cướp chạy xa, âm thanh hỗn loạn biến mất, nghe tiếng than khóc trong xe ngựa gần đó, Lục Vân Tiên bèn lại gần hỏi thăm.

- Không biết là ai đang ở trong xe than khóc.

Trong xe có tiếng trả lời :

- Cô con chúng tôi là người lương thiện, gặp kẻ hung đồ, may có công tử ra tay cứu giúp. Đa tạ ơn công tử cứu mạng.

Nghe vậy, Lục Vân Tiên liền nhanh chóng giải thích:

- Xin thưa ta thiệt là người ngay. Ta đã trừ bọn lâu la rồi, giờ thì không còn sợ gì nữa. Nhưng khoan, nàng đừng ra, nàng là phận gái cứ ngồi trong đó không phải ra làm gì. Không biết tiểu thư con gái nhà ai? Đi đâu mà gặp tai ương bất ngờ. Nàng tên họ là gì? Có việc quan trọng hay sao mà lại đi qua chốn này? Lại chẳng hay hai nàng ai là thầy ai là tớ?

Chần chừ chốc lát, Lục Vân Tiên mới nghe được câu trả lời nghẹn ngào:

- Thưa công tử, tiện thiếp tên Kiều Nguyệt Nga, còn đây là đầy tớ tên Kim Liên. Quê thiếp ở tận Tây Xuyên, cha thiếp làm tri phủ Hà Khê. Cha cho gọi thiếp qua đó để yên bề gia thất. Làm phận con đâu dám trái lời cha mẹ. Chẳng may giữa đường gặp nạn, may được công tử giải nguy. Nếu không trinh tiết, phẩm giá gìn giữ một đời cũng đã bỏ đi rồi.

Nói rồi, Kiều Nguyệt Nga sửa soạn khăn áo thưa tiếp:

- Mời công tử ngồi tạm trước xe để cho tiện thiếp được lạy tạ tỏ lòng biết ơn người cứu nạn. Thiếp chẳng biết làm thế nào cho phải. Ở đây, gặp gỡ giữa đường chẳng có bạc vàng, gấm vóc. May sao, Hà Khê cũng không xa lắm, xin chàng theo thiếp về bên đó để thiếp được dịp trả ơn chàng.

Lục Vân Tiên cười nói :

- Nàng chớ bận tâm làm gì. Ta làm ơn đâu phải để trông chờ trả ơn. Là đấng nam nhi, xả thân hành hiệp trượng nghĩa là đạo lí nên làm, nào có mưu cầu danh lợi thiệt hơn. Nam nhi đầu đội trời, chân đạp đất, thấy việc nghĩa không từ nan, thấy người gặp nạn quyết ra tay ứng cứu, đó mới là nghĩa khí của anh hùng.Thấy việc nghĩa không làm thì đâu còn xứng mặt!

Nói xong, Lục Vân cáo biệt chủ tớ hai người, tiếp tục lên đường.

Trên đường lòng Lục Vân Tiên ngổn ngang nhiều cảm xúc, vui sướng vì đã làm được việc nghĩa, hóa giải an nguy cho người dân vô tội. Đồng thời cũng cảm phục người con gái khéo léo, dịu dàng. Con đường phía trước vẫn còn dài, lần này xuống núi, Lục Vân Tiên tự nhủ sẽ làm rạng danh thầy dạy, đem tài trí giúp ích cho cuộc đời.


Nguồn: ST có chỉnh sửa

Chuyển đọan trích KIỀU Ở LẦU NGƯNG BÍCH thành văn xuôi

 


Từ một thiếu nữ tài sắc sống trong cảnh "êm đềm trướng rủ màn che", sau khi tự nguyện bán mình để cứu cha, tôi rơi vào tay Mã Giám Sinh và Tú Bà mụ chủ lầu xanh. Mụ Tú Bà quả thực là tay lọc lõi, già đời trong nghề. Sợ tôi quẫn trí làm liều, mụ mang lời ngon ngọt ra dụ dỗ, hứa hẹn nhiều điều. Mụ khuyên tôi đến lầu Ngưng Bích nghỉ dưỡng một thời gian cho khuây khỏa rồi hứa sẽ tìm một tấm chồng xứng đáng cho ta. Mụ khóc lóc than trách rằng mình cũng bị Mã Giám Sinh lừa gạt chứ sự tình chẳng muốn thế. Tin lời, tôi tạm đến Ngưng Bích. Ngay lập tức, mụ biệt giam tôi ở đây, không cho ai tiếp cận đồng thời cho người canh phòng hết sức cẩn trọng. Biết mình chẳng thoát được, tôi đành ngồi đợi cho ngày tháng dần trôi mà trong lòng muôn vàn ngán ngẩm.

Lầu Ngưng Bích thật thơ mộng, nhưng lại hoang vắng đến rợn người.Ngồi trên lầu cao, tôi nhìn phía trước chỉ thấy núi non trùng điệp, ngẩng lên phía trên là vầng trăng như sắp chạm đầu, nhìn xuống phía dưới là những đoạn cát vàng trải dài vô tận, lác đác như “bụi hồng” nhỏ bé. Cả một không gian mênh mông, hoang vắng không một bóng người tôi càng thấy cô đơn, trơ trọi. Trong cái không gian rợn ngợp và thời gian dài dặc, quẩn quanh "mây sớm đèn khuya" gợi vòng tuần hoàn khép kín của thời gian, tất cả như giam hãm con người, như khắc sâu thêm nỗi đơn côi khiến tôi càng thấy "bẽ bàng" chán ngắt, buồn tủi.. Tôi đau buồn, xấu hổ, tủi thẹn với thiên nhiên, với lòng mình, với những người thân yêu. Tôi chẳng biết tâm sự cùng ai. Sớm và khuya, ngày và đêm chỉ mình tôi thui thủi nơi đất khách quê người, chỉ còn biết làm bạn với thiên nhiên.

Tôi nhớ tới Kim Trọng, nhớ tới quãng thời gian hạnh phúc bên nhau, nhớ đến những lời thề nguyền dưới ánh trăng vằng vặc. Tôi dường như đắm chìm trong tâm trạng nhớ nhung. Tôi thương Kim Trọng đang mong chờ mình vô vọng, không biết tôi đã lỗi hẹn xưa.Nhưng thương chàng rồi lại thương mình. Thương mình bơ vơ bên trời góc bể, càng nuối tiếc mối tình đầu, càng hiểu rằng tấm son mà tôi dành cho chàng Kim chẳng bao giờ nguôi ngoai. Không chỉ vậy mà tấm son đã bị hoen ố của tôi đến khi nào mới rửa cho được. Tôi đau đớn xót xa.ân hận, tủi hổ.

Rồi tôi nhớ đến cha mẹ, thương cha mẹ ngày ngày tựa cửa ngóng trông, thương cho cha me ngày càng già, day dứt không được ở cận kề chăm sóc. Nỗi xót thương da diết và day dứt trong tôi khôn nguôi vì không thể quạt nồng, ấp lạnh, phụng dưỡng song thân khi già yếu. Nơi quê nhà giờ chắc tất cả đã đổi thay. Cha mẹ thì mỗi người thêm một già yếu mà tôi thì chẳng thể ở bên chăm sóc. Giờ đây khoảng cách không gian giữa tôi và cha mẹ diệu vợi.Buồn biết bao khi phải dấn thân vào nơi vô định. Buồn biết bao khi phải mãi mãi xa cách người yêu. Buồn biết bao khi có cha, mẹ mà không được phụng dưỡng sớm hôm. Một nỗi buồn mênh mông như đè nặng, bao quanh lấy tôi. Nhìn đâu tôi cũng thấy buồn, cảnh vật dù có đổi thay nhưng nỗi buồn của tôi thì như cố định. Tôi cảm nhận được những gì sẽ đến với mình như một định mệnh không sao thoát ra được.

Tôi nhớ thương cha mẹ, quê hương mong ước có ngày đoàn tụ và trông ra cửa bể lúc chiều hôm.Không gian mênh mông và thời gian buồn bã. Giữa khung cảnh ấy chỉ có một con thuyền vô định và hiện hữu với cánh buồm thấp thoáng xa xa như một ảo ảnh. Cảnh càng làm tôi buồn nhớ về cha mẹ, quê nhà xa cách, nỗi cô đơn và khát khao sum họp. Cánh hoa trôi man mác trên ngọn nước mới sa gợi trong lòng tôi nỗi buồn về thân phận trôi nổi của tôi không biết rồi sẽ bị trôi dạt, bị vùi dập ra sao.Tôi đau đớn cho thân phận của mình và đưa mắt nhìn bãi cỏ trước lầu.Cả nội cỏ trải ra mênh mông một màu vàng úa gợi tới sự héo tàn, buồn bã. Màu xanh nhàn nhạt trải dài từ mặt đất tới chân mây không phải màu xanh của sự sống của hy vọng mà chỉ gợi nỗi chán ngán vô vọng vì cuộc sống vô vị, tẻ nhạt, cô quạnh này không biết bao giờ mới kết thúc. Cảnh mờ mịt cũng giống như tương lai mờ mịt, thân phận nội cỏ hoa héo của tôi. Và tôi nghe con sóng nổi lên ầm ầm sau cơn gió. Âm thanh của tiếng sóng "ầm ầm" dữ dội va vào vách đá như đang ở dưới ngay dưới "ghế ngồi" của tôi. Tôi lo sợ, kinh hãi trước sóng gió, bão táp của cuộc đời này sắp đổ xuống đầu mình.

 

Chuyển đọan trích CHỊ EM THUÝ KIỀU thành văn xuôi

 


Vương Ông và Vương Bà sinh được hai cô con gái đầu lòng vô cùng xinh đẹp. Cô chị tên là Thuý Kiều, cô em tên là Thuý Vân. Cả hai nàng vóc dáng mảnh mai, thanh tú như cây hoa mai; tinh thần trắng trong, tinh khiết như tuyết. Mỗi người đẹp một vẻ, không ai giống ai. Vẻ đẹp của họ đạt đến mức lí tưởng, hoàn mĩ, trọn vẹn mười phân vẹn mười, tưởng như không còn gì có thể đẹp hơn.

Trước hết nói về Thuý Vân. Thuý Vân đẹp một vẻ đẹp phúc hậu, đoan trang, quý phái hơn người. Khuôn mặt nàng đầy đặn, ngây thơ, trong sáng như trăng rằm ; nét lông mày cong, đậm; miệng cười tươi như hoa nở ; tiếng nói trong trẻo như ngọc rung ; mái tóc đen óng, mượt mà hơn mây ; làn da trắng mịn màng hơn tuyết. Nét nào ở nàng cũng hoàn hảo hơn những vẻ đẹp vốn có trong trời đất.

Thuý Vân đã đẹp thế, nhưng Thuý Kiều còn đẹp hơn. Cả tài và sắc Thuý Kiều đều nổi bật hơn em. Thuý Kiều đẹp "sắc sảo mặn mà". Một vẻ đẹp nổi bật, có sức hấp dẫn, cuốn hút mạnh mẽ người khác. Đôi mắt nàng trong biếc, xanh thăm thẳm như làn nước mùa thu dợn sóng. Đôi lông mày thanh tú càng tôn thêm vẻ đẹp sâu thẳm của đôi mắt. Đôi mắt ấy thể hiện cái sắc sảo của trí tuệ, sự mặn mà của tâm hồn nàng. Vẻ đẹp của nàng khiến hoa phải "ghen" ghét vì thua sắc thắm, liễu phải đố kị vì kém xanh; khiến người ta ngẩn ngơ, nghiêng nước nghiêng thành.

Không chỉ đẹp, Kiều còn rất có tài. Vốn sinh ra, Thuý Kiều đã là một cô gái tài giỏi thông minh. Theo quan niệm thẩm mỹ phong kiến, người tài là người hội đủ cả bốn khả năng : cầm, kỳ, thi, hoạ. Thuý Kiều là người tài theo đúng nghĩa đó. Nàng biết làm thơ, vẽ tranh, biết ca ngâm, thành thạo âm nhạc và đặc biệt ở lĩnh vực nào cũng xuất sắc hơn người. Nàng thuộc lòng các cung bậc âm thanh ngón đàn điêu luyện. Tự tay nàng đã soạn thảo một bản nhạc có tên là "Bạc mệnh" nói về người phận mỏng, xấu số khiến ai nghe cũng phải sầu não, buồn thương rơi lệ.

Gia đình Vương Viên ngoại thuộc tầng lớp phong lưu, nền nếp. Hai nàng thiếu nữ họ Vương dù xuân xanh đã sắp đến tuổi lấy chồng nhưng vẫn sống một cuộc sống yên bình, phẳng lặng, khuôn phép : "Êm đềm trướng rủ, màn che - Tường đông ong bướm đi về mặc ai".

Chuyển bài thơ ĐOÀN THUYỀN ĐÁNH CÁ thành văn xuôi

 


Chúng tôi là những ngư dân miền biển, thường xuyên cùng đoàn thuyền ra khơi đánh bắt cá trong đêm. Công việc bắt đầu khi hoàng hôn buông xuống

Trên biển, mặt trời từ từ chìm xuống biển, ánh sáng vàng rực hắt thẳng lên trời cao. Đó như là một hòn lửa khổng lồ bị dìm vào biển nước, sức mạnh vô biên của nó có thể tạo nên những đợt sóng kinh hồn. Đêm cũng từ từ buông xuống. Cái khoảnh khắc giao điểm giữa đêm và ngày thật kì diệu. Nó cứ khiến lòng ta nôn nao khó tả. Trời mới còn đang sáng đáy thôi, bỗng chốc tối sầm lại, vệt sáng tối kéo dài trên mặt biển rồi mất hút tận khơi xa.

Dưới kia, các thuyền viên đã lên thuyền cả rồi, cột buồm rùng rùng chuyển động, cánh buồm căng lên đồng loạt. Đoàn thuyền thuyền đánh cá rùng mình chuyển động rồi xếp hàng ra khơi. Thuyền này nối đuôi thuyền kia tạo thành một vệt dài trên biển. Bất chấp màn đêm, chúng tôi vẫn lao động say sưa. Tiếng hát ra khơi lại rộn vang khắp các thuyền. Dân chài lưới đầu sóng ngọn gió nhưng yêu đời lắm. Lần ra khơi nào chúng tôi cũng ca hát. Hát từ bờ hát đến khơi xa. Hát rằng cá bạc biển đông lặng, những luồng cá thu đang dệt biển tạo ra muôn luồng sáng. Mong rằng chúng dệt lưới ta để chuyến ra khơi thật bội thu.Lời hát cứ dặt dìu theo nhịp sóng biển. Tiếng hát khơi bừng khí thế ra trận. Ai cũng tràn đầy tin tưởng ở trong lòng. Cánh buồm no gió đẩy thuyền lướt mạnh ra khơi. chúng tôi mượn tiếng hát,

Trăng dần lên cao. mà thú thật, giữa biển khơi bao la, trăng có lên hay xuống chúng tôi cũng không biết nữa. Không lấy gì để so sánh mà biết nó lên hay lặn. Đoàn thuyền vẫn giữ hàng ngũ, trật tự băng băng lao tới. Nhìn cảnh ấy cứ ngỡ như rằng nó đăng lướt đi giữa mây cao với biển bằng. Nhiều lúc tôi nghĩ cả đoàn thuyền đang bay chứ không phải đang bơi vì biển và trời gần nhau quá.

Khi thuyền đã dò được luồng cá chúng tôi bắt đầu hạ buồm đánh bắt cá, khung cảnh thiên nhiên đẹp với gió trời, trăng hòa cùng con người trong thế trận hăng say lao động, đánh bắt cá trong đêm thật hào hứng. Lao động trong đêm thật vui với tiếng hát xóa tan đi nặng nhọc, mệt mỏi. Bài hát gọi cá vào lưới được sự hỗ trợ của trăng trời trăng như giúp chúng tôi gặt hái được nhiều thành quả.

Biển với chúng tôi như người mẹ vĩ đại. Biển mẹ che chở chúng tôi, nuôi lớn chúng tôi từng ngày. Có lúc biển mẹ  bao dung, hiền hòa, trìu mến. Có lúc biển mẹ giận dữ như muốn trừng phạt những đứa con ngỗ nghịch không biết nghe lời. Cuộc sống dân chài sớm bờ tối biển chẳng ngày nào yên. Nhưng chúng tôi mạnh mẽ, chúng tôi tự hào về công việc của mình. Mỗi chuyến ra khơi bồi đắp trong tôi một tình yêu lớn đối với biển cả.

Khi sao mờ dần cũng là lúc trời sắp sáng, ánh rạng đông ló dạng, những đàn cá quẫy tung trong lưới nhảy nhót lấp lánh lung linh dưới ánh hồng bình minh buổi sáng. Không ai bảo ai chúng tôi thực hiện công việc cuối cùng đó là xếp lưới, căng buồm để trở về nhà.

Bài hát lại vang lên. Tiếng hát bội thu vang khắp biển trời, lúc khoan thai dìu dặt theo sóng biển, lúc vút cao khí thế cùng gió cùng mây. Đoàn thuyền lướt đi trong gió để kịp về bến trước phiên chợ buổi sáng. Một ngày mới đang bắt đầu thật đẹp. Mặt trời đội biển nhô lên kì vĩ. Đó là khung cảnh ấn tượng nhất mỗi ngày mà chúng tôi vẫn thường thấy. Một chiếc mâm bạc không lồ từ từ dưới biển sâu nhô lên rực sáng chói gắt. Ánh sáng kéo một vệt dài trên biển rồi tỏa ra giống hệt như ánh đèn màu mà tôi vẫn thường thấy trong những đêm văn nghệ.Cá đầy thuyền xếp đầy khoang lấp lánh li ti dưới ánh mặt trời thật đẹp. Chúng tôi như quên sự mệt mỏi, vất vả của một đêm thức trắng lao động thay vào đó là sự vui mừng, phấn khởi khi chuyến đánh cá bội thu.Tiếng hát vui mừng cùng gió thổi căng cánh buồn. Có lẽ con thuyền cũng háo hức trở về nên băng băng vượt sóng.

Chuyến đánh cá trong đêm của chúng tôi tuy vất vả, mệt nhọc nhưng xứng đáng. Chúng tôi lao động hăng say, hết mình để làm giàu cho gia đình, đất nước. Rừng vàng biển bạc chúng tôi sẽ mãi yêu vùng biển quê mình và giữ gìn lãnh thổ thiêng liêng của dân tộc trước mọi kẻ thù ngoại bang.