ĐỀ LUYỆN TẬP TUYỂN
SINH 10_2023-2024_ Chủ đề THIÊN NHIÊN LÊN TIẾNG
Câu 1.
Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu:
Ở Việt Nam tuy rất
ít vùng có tuyết rơi, chủ yếu chỉ trên Sa Pa mới có tuyết nhưng hiện tượng này
không còn xa lạ gì với chúng ta. Tuyết là một dạng kết tủa của các tinh thể nước
đá, hình thành dưới áp suất thấp của không khí Trái Đất. Vậy tại sao mùa đông
có tuyết rơi?
Sự hình thành tuyết
rơi
Không khí trên cao, nhiệt độ thấp, điều
này khiến hơi nước ở những đám mây kết dính lại với nhau tạo thành những bông
tuyết nhỏ. Dần dần, nhiều dẫn đến nặng, không khí không thể lưu thông và kéo
mây tiếp, dẫn đến hiện tượng tuyết rơi.
Các bông tuyết được hình thành ở nơi lạnh
nhất của đám mây. Tuyết cơ bản được hình thành từ những hạt nước nhỏ li ti kết
tủa thành. Các tinh thể nước đá trên mây, kết hợp lại ở nhiệt độ thấp, đóng
băng ngay khi nhiệt độ đủ thấp, tạo thành các bông tuyết và rơi khi đủ nặng.
Nhiệt độ trên mây càng thấp, hạt băng
kết tủa tại đấy sẽ càng đẹp, với các hình dạng như mũi kim, hình trụ, hình tấm,…
và dù có hình dạng nào đi nữa thì bông tuyết cũng luôn có sáu chỉ giác đặc
trưng tạo nên vẻ long lanh cho bông tuyết.
Khi nghiên cứu sự hình thành của bông
tuyết, các nhà khoa học cho biết, sự kết hợp đơn giản giữa các phôi nước chưa
thể tạo ra những bông tuyết đối xứng mà trong thời gian tuyết rơi, bay trong
không trung, bản thân các bông tuyết luôn quay xung quanh trục của chính nó. Bởi
vậy, nó luôn rất cân xứng và giữ được hình lục giác trong quá trình vận động
khi rơi xuống đất.
Tại sao mùa đông có
tuyết rơi?
Nhiều người nhầm tưởng rằng càng lạnh
thì tuyết càng rơi. Điều này không đúng, tuyết chỉ rơi khi trong không khí còn
một lượng hơi nước nhất định. Không khí càng lạnh, bầu trời càng giữ được ít
hơi nước, nên nhiệt độ tuyết rơi phù hợp là – 10 độ C, nhiệt độ này ở trên các
đám mây bắt đầu xuất hiện các tinh thể tuyết, kết hợp với nhau tạo thành tuyết
rơi xuống đất.
Tuyết rơi vào mùa đông khá có lợi cho
sản xuất và cuộc sống ở các nước có nhiệt độ thấp. Bởi lí do là sau khi tuyết
rơi, không khí ẩm, có lợi cho sức khoẻ con người, có thể làm cho các loại sâu bệnh
chết. Tuy nhiên, đối với Việt Nam thì tuyết rơi không hề tốt, bởi Việt Nam thuộc
nước nhiệt đới, tuyết rơi ảnh hưởng rất nhiều đến cuộc sống con người về sức
khoẻ, sản xuất,…
Hi vọng bài viết trên đây đã giúp bạn
hiểu rõ nguyên nhân tại sao mùa đông có tuyết rơi cũng như hiểu được quá trình
hình thành những bông tuyết xinh đẹp.
(Theo
Trang Trịnh, doisongphapluat.com, Thứ Hai,
26/12/2016, 14:50)
a. Theo văn bản, tuyết
được hình thành như thế nào?
b. Tìm 01 phép liên kết
trong đoạn văn in đậm đầu văn bản.
c. Văn bản trên nêu
lên nội dung gì? Em hãy đặt nhan đề cho văn bản.
d. Vận dụng những hiểu
biết về tự nhiên và xã hội, em hãy lí giải vì sao ở Việt Nam hiện tượng tuyết
rơi thường không tốt.Trả lời trong khoảng 4-6 dòng.
Câu 2.
Từ việc hiểu nội dung Ngữ liệu trên và từ trải nghiệm cuộc sống, hãy viết
bài văn khoảng 500 chữ trả lời câu hỏi: Thảm
họa tự nhiên ngày càng nhiều và khó lường, phải chăng Trái đất đang "nổi
giận"?
Câu 3.
Học sinh được chọn 1 trong 2 đề sau:
Đề 1.
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao.
Biển cho ta cá như lòng mẹ
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào.
Sao mờ, kéo
lưới kịp trời sáng
Ta kéo xoăn
tay chùm cá nặng.
Vảy bạc đuôi
vàng loé rạng đông,
Lưới xếp buồm
lên đón nắng hồng.
( Trích Đoàn thuyền đánh cá, Huy Cận, SGK Ngữ Văn 9, Tập
1, NXBGDVN, 2023, Trg. 140)
Hãy phân tích đoạn thơ trên giúp em cảm nhận được cách
sống hài hòa giữa con người với thiên nhiên. Trình bày những tác động
của đoạn thơ đối với bản thân em.
Đề 2.
Tình huống:
Khi những khu rừng đang biến mất, khi trái đất nóng lên từng ngày, khi con người
phải đối diện với cơn giận dữ khủng khiếp từ thiên nhiên, khi dịch bệnh bùng
phát ở quy mô toàn cầu; Khi những nền
văn minh rực rỡ huy hoàng vụt tắt, khi những khác biệt văn hóa có nguy cơ bị đồng
hóa vào các “hố đen” trung tâm, khi con người trở thành kẻ thù số một của tự
nhiên, văn chương đã làm gì?
Nhiệm vụ: Hãy
chọn giới thiệu một tác phẩm văn học để giúp các bạn nhận ra mối liên kết
mật thiết giữa con người với thiên nhiên và viết bài văn nghị luận lý
giải cho sự lựa chọn của em.
GỢI Ý
Câu 1.
a.Theo văn bản, tuyết
được hình thành: Các bông tuyết được hình thành ở nơi lạnh nhất của
đám mây. Tuyết cơ bản được hình thành từ những hạt nước nhỏ li ti kết tủa
thành. Các tinh thể nước đá trên mây, kết hợp lại ở nhiệt độ thấp, đóng băng
ngay khi nhiệt độ đủ thấp, tạo thành các bông tuyết và rơi khi đủ nặng.
b. Phép liên kết trong đoạn văn in đậm đầu văn bản:
Phép lặp: tuyết
Phép liên tưởng: tuyết rơi, Sa Pa, tinh thể nước đá, dưới
áp suất thấp, không khí, mùa đông
Phép nối: Vậy
c. Văn bản trên nêu lên nội dung về: Lý giải sự hình
thành tuyết và Tại sao mùa đông lại có tuyết.
Nhan đề: Tại sao lại có tuyết?
d. ở Việt Nam hiện tượng
tuyết rơi thường không tốt vì:
– Khí hậu ở Việt Nam là nhiệt đới gió mùa ẩm vì thế nếu xảy ra
hiện tượng tuyết rơi thì thường những hạt tuyết được hình thành dưới dạng băng
tuyết, gây ra tình trạng lạnh cóng cho con người và gia súc. Nếu con người và
gia súc không kịp thích nghi, không được giữ nhiệt, sưởi ấm thì có thể dẫn đến
tình trạng tử vong.
– Cây trồng ở Việt Nam chủ yếu là những cây nhiệt đới, khả
năng chống chịu kém với nhiệt độ thấp. Tuyết rơi chứng tỏ nhiệt độ xuống khá thấp.
Điều này có thể gây ra hiện tượng cây trồng chết hàng loạt.
=> Qua những phân tích trên có thể thấy, tuyết rơi gây hại
tới sức khỏe của người và gia súc, làm chết cây trồng, ảnh hưởng đến kinh tế của
người nông dân, vì vậy hiện tượng tuyết rơi ở Việt Nam phần lớn gây hại. (Chỉ
những người giàu có hưởng lợi bởi họ được đi du lịch, trải nghiệm tuyết rơi)
Câu 2. Thảm họa tự nhiên ngày càng nhiều và khó
lường, phải chăng Trái đất đang "nổi giận"?
A. Mở bài
- Trong những năm gần
đây, con người chứng kiến sự gia tăng của các hiện tượng thời tiết cực đoan như
bão lũ, hạn hán, động đất, cháy rừng... Điều này khiến nhiều người đặt câu hỏi:
Phải chăng Trái đất đang "nổi giận"?
B. Thân bài
* Giải thích:
+ Trái đất "nổi
giận" là là một cách mô tả ẩn dụ về những hiện tượng thời tiết cực đoan và
biến đổi khí hậu đang diễn ra ngày càng gia tăng trên khắp thế giới.
+ Những hiện tượng này
được xem như là sự phản ứng của Trái đất trước những hành động tàn phá môi trường
của con người.
=> Trái
đất đang "nổi giận" là lời cảnh tỉnh cho con người về những hậu quả
nghiêm trọng của việc khai thác và sử dụng tài nguyên thiên nhiên một cách bừa
bãi.
* Thực trạng:
- Các hiện tượng thời
tiết bất thường, nhiệt độ tăng cao, băng tan, mực nước biển dâng, mưa lũ, bão lốc,
giông tố, đang không ngừng gia tăng cả về số lượng và sức mạnh. Và hậu quả là dịch
bệnh, mất mùa, mất nơi ăn chốn ở, thiếu đất canh tác, suy giảm đa dạng sinh học...
- Liên hợp quốc dự báo
đến năm 2035, nhiệt độ Trái Đất sẽ tăng thêm 2 độ C, tiếp tục làm tan chảy các
dòng sông băng, đẩy mực nước biển dâng cao. Hậu quả là nhiều vùng sản xuất
lương thực trù phú, khu vực đông dân cư, các đồng bằng lớn, các đảo thấp trên
Trái Đất sẽ lần lượt ngập chìm trong nước biển.
* Nguyên nhân:
Hoạt động của con người đang tác động tiêu cực đến hệ thống
sinh thái của Trái đất, dẫn đến biến đổi khí hậu với tốc độ chưa từng có.
- Con người khai thác
rừng, khoáng sản, và các nguồn tài nguyên thiên nhiên khác một cách quá mức mà
không có kế hoạch tái tạo, dẫn đến suy thoái môi trường.
- Rác thải sinh hoạt,
công nghiệp, và nông nghiệp được xả thải trực tiếp ra môi trường mà không qua xử
lý, gây ô nhiễm nguồn nước, đất đai, và bầu khí quyển.
- Con người sử dụng
quá nhiều nhiên liệu hóa thạch như than đá, dầu mỏ, và khí đốt, thải ra khí nhà
kính gây hiệu ứng nhà kính và làm cho nhiệt độ Trái đất tăng cao.
* Hậu quả: của
việc Trái đất "nổi giận" là vô cùng to lớn
- Môi trường sống bị ảnh
hưởng nặng nề, hệ sinh thái dần bị phá hủy. Nhiệt độ Trái đất
tăng cao, dẫn đến tan chảy chỏm băng, mực nước biển dâng cao. Bão,
lũ lụt, hạn hán, cháy rừng,... xảy ra thường xuyên và dữ dội hơn, gây thiệt hại
nặng nề về người và tài sản.
- Ô nhiễm không
khí, nước, và đất đai ảnh hưởng đến sức khỏe con người và hệ sinh thái. Con
người phải đối mặt với nhiều nguy cơ như thiên tai, dịch bệnh, thiếu nước, thiếu
lương thực. Nền kinh tế và xã hội bị ảnh hưởng nghiêm trọng, dẫn đến di cư,
xung đột do tranh chấp tài nguyên thiên nhiên.
- Gây suy thoái
hệ sinh thái, mất đa dạng sinh học. Nhiều loài động thực vật
quý hiếm bị đe dọa tuyệt chủng do mất môi trường sống và ô nhiễm môi trường.
* Giải pháp:
- Hạn chế sử dụng
nhiên liệu hóa thạch, phát triển năng lượng tái tạo, sử dụng phương tiện giao
thông công cộng, tiết kiệm điện năng và phát triển các nguồn năng lượng
tái tạo....
- Bảo vệ môi trường: Hạn
chế khai thác tài nguyên thiên nhiên, trồng cây xanh, chống phá rừng, xử lý rác
thải khoa học, hạn chế sử dụng nước lãng phí, tái sử dụng nước thải...
- Tăng cường giáo dục
về bảo vệ môi trường, nâng cao ý thức của cộng đồng trong việc bảo vệ Trái đất,
khuyến khích lối sống xanh, bền vững.
- Bài học:
- Mỗi cá nhân cần
chung tay hành động để bảo vệ môi trường, góp phần "xoa dịu" cơn giận
của Trái đất và gìn giữ hành tinh xanh cho thế hệ mai sau:
+ Phân loại rác thải,
tái chế rác thải, và xử lý rác thải đúng cách;
+ Hạn chế sử dụng
túi nilon, đồ nhựa dùng một lần, và các sản phẩm hóa học độc hại;
+ Sử dụng năng lượng tái tạo, tiết kiệm
năng lượng, và trồng cây xanh.
C. Kết bài
- Đừng biến
Trái Đất thành một môi trường sống khắc nghiệt. Đến một ngày nào đó, liệu con
người có phải rời Trái Đất để tìm nơi sinh sống mới trong vũ trụ hay không? Tin
buồn là cho đến thời điểm này, các nhà khoa học vẫn chưa tìm ra một hành tinh
nào có sự sống, ngoài Trái Đất.
Câu 3.
Đề 1.
A. MỞ BÀI
- Vẻ đẹp của thiên nhiên và tình yêu
lao động luôn là đề tài hấp dẫn được kết tinh trong những tác phẩm văn học.
Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận là bài ca lãng mạn mà đầy hùng tráng ngợi ca
con người lao động.
- Bài thơ là một bài ca lao động hứng khởi và
hào hùng, bài ca của cuộc sống và của những con người lao động cần cù đang ngày
đêm cống hiến và làm giàu cho Tổ quốc.
- Tác giả đã dùng nhiều hình ảnh tráng lệ để thể hiện sự
hài hoà giữa thiên nhiên và con người lao động trong các câu thơ sau:
Ta hát bài ca gọi cá vào,
…
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng.
B. THÂN BÀI
1. Khái quát:
- Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá viết về
vùng biển Quảng Ninh vào năm 1958 – thời kì miền Bắc giành được độc lập, tập
trung xây dựng kinh tế.
- Bài thơ trở thành khúc tráng ca khi
nhịp điệu cộng với sự xuất hiện nhiều từ “hát” giống như khúc ca hào hùng về
lao động.
- Cảm hứng trữ tình được diễn tả theo
mạch thời gian: hoàng hôn - đêm trăng - bình minh. Cảnh bình minh như một biểu
tượng mang ý nghĩa: một thời đại huy hoàng đang mở ra phía trước, cuộc sống cần
lao của nhân dân ta đang nở hoa.
2. Phân tích:
* Khổ 5:
Tinh thần lao động hăng say và lòng biết ơn biển.
Ta hát bài ca gọi cá vào,
…
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào.
- Đại từ “ta” một lần nữa lại
vang lên đầy tự hào kiêu hãnh.
- “Ta hát bài ca gọi cá vào”:
Người dân chài đã biến công việc nặng nhọc thành bài ca vui tươi. Tiếng hát của
ngư dân trở thành giai điệu lao động đầy lạc quan, yêu đời. Bút
pháp lãng mạn khi miêu tả giúp cho công việc đánh cá đêm trở nên thơ mộng.
-
Nghệ thuật nhân hóa "gõ thuyền" như phụ họa trong giai
điệu câu hát, thiên nhiên cùng với con người gõ nhịp tình yêu cuộc sống -
nhiệt tình lao động xây dựng cuộc sống.
- Nghệ thuật nhân hóa kết hợp so sánh “biển
cho ta cá như lòng mẹ…” thể hiện nguồn tài nguyên vô tận của thiên nhiên Việt
Nam - biển Đông Việt Nam.
+ Giọng thơ tự nhiên, tha thiết, chân
thành có âm hưởng ca dao. Biển - người mẹ vĩ đại, đã nuôi lớn những ngư dân bằng
chất mặn mà của muối, của cá tôm... Biển rất ân tình.
+ Hình ảnh so sánh “như lòng mẹ”
quen thuộc, có sức truyền cảm mãnh liệt, thể hiện tình yêu biển, yêu đời
chan chứa của những con người gắn bó với biển từ bao đời,
bao thế hệ.
=> Câu thơ là khúc tâm tình thiết
tha với biển thân yêu, là lời cảm ơn biển, biển vừa bao la mà lại
trĩu nặng yêu thương.
* Khổ 6:
Cảnh thu hoạch cá với tiếng hát niềm vui thắng lợi.
Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng
…
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng.
- Nhịp thơ 2-2-3 phù hợp với nhịp lao
động khẩn trương. Nhịp thơ nhanh gọn, tác giả đã khắc họa rõ những thao
tác nhịp nhàng, thành thạo.
- Giờ đây đêm đã tàn “sao mờ”,
ánh sao đêm báo hiệu cho trời sắp sáng. Không gian và thời gian ấy như thôi
thúc người lao động làm việc nhanh gấp cho “kịp trời sáng”.
- Cảnh kéo lưới được miêu tả đầy ấn tượng.
Những cánh tay rắn chắc kéo lưới "xoăn tay". "Kéo xoăn
tay" là một hình ảnh đặc tả động tác kéo lưới rất căng, khỏe và đẹp,thái
độ làm việc cật lực của những người ngư dân.
- "Chùm cá nặng" là một
hình ảnh ẩn dụ gợi tả niềm vui tươi, sảng khoái được mùa cá.
Khoang thuyền đầy ắp cá.
- Những “vẩy bạc đuôi vàng” của
cá tô điểm cho cảnh sắc thiên nhiên tươi đẹp, góp ánh sáng cho buổi
rạng đông đồng thời cũng biểu hiện tâm hồn rạng rỡ hân hoan của
con người của biển. Sắc cá dưới ánh trăng và sắc cá dưới ánh rạng đông đều được
miêu tả thật tuyệt đẹp.
- “Nắng hồng” không những khắc
họa được vẻ đẹp tươi sáng của bầu trời mà còn thể hiện được lòng yêu đời,
yêu thiên nhiên. Màu hồng của một ngày mới, một cuộc đời mới đang chào
đón mọi người.
- Nhịp điệu câu thơ cuối của khổ thơ
trên chậm rãi, gợi cảm giác thanh thản, vui tươi, phản ánh tâm trạng thoải
mái của ngư dân trước kết quả tốt đẹp của chuyến ra khơi.
⇒
Rạng đông đến không chỉ từ mặt trời mà còn từ thành quả lao động
của con người. Đồng thời cũng biểu hiện niềm vui sướng vô bờ của
con người của biển.
3. Đánh giá
- Thành công của bài thơ: hình ảnh thơ
đẹp, xây dựng bằng sự liên tưởng phong phú, âm hưởng mạnh mẽ, bút pháp lãng mạn
xen hiện thực
-Tác giả sử dụng màu sắc kết hợp với
cách vận dụng các thủ pháp nghệ thuật như ẩn dụ, hoán dụ, nhân hoá …đã làm nên
bức tranh thiên nhiên và lao động thật tráng lệ.
- Bài thơ là khúc hát ngợi ca con người
lao động trên biển đồng thời là niềm say mê tự hào của con người làm chủ quê
hương.
4. Tác động
Đoạn thơ là một bức
tranh đẹp về thiên nhiên biển cả và hình ảnh người lao động khỏe khoắn, hăng
say khơi gợi trong lòng em niềm tự hào về vẻ đẹp của quê hương đất nước và tình
yêu quê hương, yêu con người tha thiết, đặc biệt là tình yêu đối với biển cả
quê hương. Đọc đoạn thơ em học được bài
học giáo dục quý giá về cách sống hồn nhiên, sống gắn bó với thiên nhiên. Sống
hài hòa với thiên nhiên là để đảm bảo sự phát triển bền vững cho cả hiện tại và
tương lai. Sống hài hòa với thiên nhiên không chỉ là trách nhiệm mà còn là quyền
lợi của mỗi người. Con người và thiên nhiên là một thể thống nhất, khi chúng ta
gìn giữ thiên nhiên, cũng chính là gìn giữ cuộc sống của chính mình. Mỗi hành động
nhỏ bé của mỗi cá nhân đều góp phần tạo nên sự thay đổi to lớn, hướng đến một
tương lai bền vững cho Trái Đất và cho thế hệ mai sau.
Đoạn thơ gợi cho em suy
nghĩ về trách nhiệm của bản thân đối với quê hương, đất nước: Mỗi người cần có
ý thức gìn giữ và bảo vệ những giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc, đồng thời
chung tay xây dựng quê hương, đất nước ngày càng giàu đẹp. Em cần rèn luyện lối
sống giản dị, tiết kiệm, đề cao tinh thần trân trọng tài nguyên thiên
nhiên. Sống biết ơn những gì thiên nhiên ban tặng và luôn ý thức
về trách nhiệm bảo vệ môi trường sống chung.
C. KẾT BÀI
- Nói rằng lao động là niềm-vui sáng tạo.
Nói rằng biển quê ta giàu đẹp. Nói rằng khi người lao động làm chủ cuộc đời thì
mới có ấm no hạnh phúc. Cả ba điều ấy, Huy Cận đã nói được rất hay trong bài
thơ “Đoàn thuyền đánh cá”.
- Bài thơ đã truyền cho người đọc một
niềm tin và sức sống mới, giúp ta thêm yêu những người lao động, những người cần
cù, dũng cảm và tự hào hơn về quê hương mình.
Đề 2.
1. Nêu vấn đề:
Khi những khu rừng đang biến mất, khi
trái đất nóng lên từng ngày, khi con người phải đối diện với cơn giận dữ khủng
khiếp từ thiên nhiên, khi dịch bệnh bùng phát ở quy mô toàn cầu; Khi những nền văn minh rực rỡ huy hoàng vụt tắt,
khi những khác biệt văn hóa có nguy cơ bị đồng hóa vào các “hố đen” trung tâm,
khi con người trở thành kẻ thù số một của tự nhiên, văn chương đã làm gì?
- Dẫn vào nội dung lựa
chọn:
Viết
về bất cứ dòng sông nào trên trái đất, người ta cũng cần có, cần thể hiện được
một tình yêu tha thiết, lắng sâu và một sự am tường không hề sách vở về những vấn
đề địa lí, lịch sử và văn hoá gắn liền với chúng. Bởi các dòng sông luôn là cái
nôi của những vùng, những nền văn hoá đa dạng, lắm sắc màu và là đối tượng mà
các cư dân sống trong vòng tay của chúng phải vô hạn biết ơn. Viết về con sông
Hương cũng cần và lại càng cần như vậy. Đây là một thách thức nhưng là thách thức
đã được chuyển hoá thành niềm giục giã đầy tự nhiên, đầy xao xuyến trong tâm hồn
những ai yêu sông Hương, yêu Huế. May thay, chúng ta đã có được những nhà thơ,
nhà văn tài năng vượt qua được các thách thức nói trên để tặng cho sông
Hương những tác phẩm bất hủ. Trong những nhà thơ, nhà văn đó có Hoàng Phủ Ngọc
Tường, người đã viết nên một thiên tuyệt bút có nhan đề là Ai đã đặt
tên cho dòng sông?
2. Giới thiệu
tác phẩm và nêu ý nghĩa: (Theo https://vanchuongphuongnam.vn/ve-dep-thien-nhien-van-hoa-va-lich-su-trong-but-ky-ai-da-dat-ten-cho-dong-song.html)
- Ai đã đặt tên cho dòng sông? - được xuất
bản năm 2010, là một trong những tác phẩm bút kí đặc sắc của một tác giả người
Huế, Hoàng Phủ Ngọc Tường. Tác phẩm thể hiện những nét đặc sắc, độc đáo của
dòng sông Hương. Qua đó, chúng ta có thể nhận ra được tài năng, phong cách viết
tài hoa của tác giả. Phần thứ nhất là phần nói về cảnh quan thiên nhiên của
sông Hương. Phần thứ hai và phần thứ ba nói về sự gắn bó của sông Hương với lịch
sử văn hoá.
Với sức tưởng tượng
phong phú kết hợp giữa tư duy hình tượng và tư duy logic, Hoàng Phủ Ngọc Tường
đã cung cấp cho chúng ta nhiều tri thức về sự hình thành sông Hương từ thượng
nguồn ra tới biển: “Giữa lòng Trường Sơn, sông Hương đã sống một nửa cuộc đời
mình… ra khỏi vùng núi, sông Hương đã chuyển dòng một cách liên tục… Từ ngã ba
Tuần, sông Hương theo hướng Nam Bắc qua điện Hòn Chén, vấp Ngọc Trản, nó chuyển
hướng sang Tây Bắc, vòng qua thềm đất Nguyệt Biều, Lương Quán rồi đột ngột vẽ một
hình vòng cung thật tròn về phía Đông Bắc, ôm lấy chân đồi Thiên Mụ, xuôi dần về
Huế”. Phải có sự dày công tra cứu tỉ mỉ những thông tin khoa học địa lí, địa
chất, về sự hình thành của sông Hương, cùng với những cảm xúc thăng hoa, ông mới
có được những trang văn miêu tả, tường thuật vừa mang tính khoa học vừa mang
tính văn chương sâu lắng và đằm thắm đến thế.
Sông Hương ở đầu nguồn với
sức sống mãnh liệt, hoang dại nhưng cũng dịu dàng và mạnh mẽ: “Rừng già đã
hun đúc cho nó một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng”. Ông
đã thổi vào dòng sông một ngọn gió tâm hồn dào dạt nhạy cảm, liên tưởng tự do để
càng mạnh mẽ hơn, đắm say hơn ở địa phận thượng nguồn. Khi về đến đồng bằng,
sông Hương được thay đổi về tính cách: “Sông như chế ngự được bản năng của
người con gái, mang một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ, trở thành người mẹ phù sa
của một vùng văn hóa xứ sở”. Sông Hương còn mang vẻ đẹp trầm mặc khi chảy
dưới chân những rừng thông u tịch với những lăng mộ âm u của các vua chúa triều
Nguyễn. Đó là vẻ đẹp mang màu sắc triết lí, cổ thi khi đi trong âm hưởng ngân
nga của tiếng chuông chùa Thiên Mụ, có vẻ đẹp “vui tươi” khi đi qua những bãi bờ
xanh biếc vùng ngoại ô Kim Long, có vẻ đẹp “mơ màng trong sương khói” khi nó rời
xa thành phố để đi qua những bờ tre, lũy trúc và những hàng cau thôn Vĩ Dạ.
Đoạn miêu tả sông Hương
chảy qua thành phố là đoạn gây được ấn tượng mãnh liệt nhất với người đọc. Đó
là hình ảnh chiếc cầu bắc qua sông: “Chiếc cầu trắng in ngấn trên nền trời,
nhỏ nhắn như những vành trăng non”. Cảnh vật dường như thắm đẫm hồn thơ, hồn
người “Đường cong ấy làm cho dòng sông như mềm hẳn đi, như một tiếng vâng không
nói của tình yêu… Tôi nhớ sông Hương, quý điệu chảy lững lờ của nó khi ngang
qua thành phố”. Dường như sông Hương cũng “dùng dằng” không muốn xa thành
phố: “Rồi như sực nhớ lại một điều gì đó chưa kịp nói. Nó đột ngột đổi dòng
rẽ ngặt sang hướng Đông Tây để gặp lại thành phố ở góc Bao Vinh… khúc quanh này
thật bất ngờ… Đấy là nỗi vương vấn, cả một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu”.
Và sông Hương trở lại “để nói một lời thề trước khi về biển cả”. Tác giả
liên tưởng tới lời thề của đôi tình nhân chung thủy: “Lời thề ấy vang vọng
khắp khu vực sông Hương thành giọng hò dân gian, ấy là tấm lòng người dân Châu
Hóa xưa mãi mãi chung tình với quê hương xứ sở”.
Hoàng Phủ Ngọc Tường đã
viết về dòng sông với tấm lòng ưu ái, với tình yêu sâu sắc, thuỷ chung… Trong mối
quan hệ với con người, dòng sông ấy là dòng sông – đời người. Với xứ sở đã sinh
thành và cưu mang nó. Sông Hương đã tri ân bằng dòng nước mát lành và phù sa
màu mỡ để hoa trái của những khu vườn An Hiên ngọt lành, cho những ngôi làng
ven sông trở thành ngôi làng thơm tho của xứ Huế.
Sông Hương không chỉ
mang vẻ đẹp của thiên nhiên, của lịch sử mà dòng sông ấy còn mang vẻ đẹp văn
hóa, văn chương theo chiều dài lịch sử trong cảm hứng của nhiều thi sĩ, họa sĩ,
nhạc sĩ. Từ trong thơ Nguyễn Du, Bà Huyện Thanh Quan, Cao Bá Quát, Tản Đà, Đoàn
Phú Tứ, Tố Hữu… dòng sông hiện lên với những hình dáng và màu sắc khác nhau
trong mọi cung bậc của cảm xúc. Với Cao bá Quát thì Hương Giang “như kiếm dựng
trời xanh” (Trường giang như kiếm lập thanh thiên). Nhà thơ Tản Đà trong
bài Chơi xuân đã viết về sông Hương “Dòng sông trắng – lá cây
xanh”. Với đại thi hào Nguyễn Du những năm tháng “đã lênh đênh trên quãng sông
này với một phiến trăng sầu và từ tiếng nước rơi bán âm của những mái chèo
khuya”. Với bà Huyện Thanh Quan dòng sông là “bóng chiều bảng lãng”. Với Tố Hữu
thì “dòng sông gắn liền với sức mạnh tâm hồn”, gắn với hình ảnh “Cô gái thẩn thờ
vê áo mỏng/ Nghiêng nghiêng vành nón dáng chờ ai/ Ven bờ sông phẳng con đò mộng/
Lả lướt đi về trong gió mai” .
Một đặc sắc nữa trong cảm
quan nghệ thuật của tác giả là đã gắn sông Hương với âm nhạc cổ điển Huế qua
liên tưởng đa chiều: “Sông Hương đã trở thành một người tài nữ đánh đàn lúc
đêm khuya… Quả đúng vậy, toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế đã được hình thành
trên mặt nước của dòng sông này”. Ông đã tưởng tượng: “Trong một khoang thuyền
nào đó, giữa tiếng nước rơi bán âm của những mái chèo khuya”. Phải có độ nhạy
cảm về thẩm âm, hiểu biết về âm nhạc cung đình Huế, tác giả mới có được những
liên tưởng độc đáo như vậy. Hình tượng dòng sông được diễn đạt bằng những hình ảnh
so sánh tài tình, mới lạ “Sông Hương đã sống một nửa cuộc đời của mình như một
cô gái di-gan phóng khoáng và man dạ, dòng sông mềm như tấm lụa, sông Hương đã
trở thành một người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya…”
Sông Hương còn đẹp bởi một
huyền thoại chứa đựng chiều sâu của tâm linh khi dân làng Thành Chung lý giải về
cách gọi tên: “Vì yêu quý con sông xinh đẹp của quê hương con người ở hai
bên bờ sông đã nấu nước trăm loài hoa đổ xuống sông để làn nước thơm tho mãi”.
Ông xem “Sông Hương như nỗi hoài vọng về một cái đẹp nào đó chưa đạt tới ở đời”
(Sử thi buồn), nó là “Dòng sông của thời gian ngân vang, của sử thi viết
giữa màu cỏ lá xanh biếc, vẻ đẹp của dòng sông đổi sắc không ngừng dưới ánh nắng
và trong mùi hương trốn tìm của hoa trái trong vườn” (Hoa trái quanh tôi).
Và qua cách nhìn, cách cảm của một thi nhân, một nhạc sĩ, một họa sĩ, Hoàng Phủ
Ngọc Tường đã đem đến cho người đọc nhận thức về chiều sâu văn hoá và vẻ đẹp
tâm hồn của con người xứ sở nơi dòng sông đi qua.
Từ góc nhìn văn hóa và
những triết lý về dòng sông trong mối quan hệ với lịch sử, Hoàng Phủ Ngọc Tường
đã đưa người đọc lật tìm những tư liệu, những sự kiện có liên hệ với dòng sông.
Tên của sông Hương được ghi trong Dư địa chí của Nguyễn Trãi
là “Linh Giang” (dòng sông mang yếu tố tâm linh của vùng đất địa linh nhân kiệt).
Những giai thoại, huyền thoại về dòng sông đã góp phần trả lời câu hỏi: Ai đã đặt
tên cho dòng sông?
Dòng sông ấy là điểm tựa
để quân dân Đại Việt bảo vệ biên cương. Ở thế kỉ XVIII, nó vẻ vang soi bóng
kinh thành Phú Xuân, gắn liền với tên tuổi người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ –
Quang Trung: “Sông Hương đã sống những thế kỷ vinh quang với nhiệm vụ lịch sử
của nó”. Dòng sông như “người dũng sĩ trấn giữ biên thuỳ đã nhiều lần chiến đấu
oanh liệt bảo vệ biên giới phía Nam của Tổ quốc Đại Việt rồi vẻ vang soi bóng
kinh thành Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ… Trong những ngày Cách mạng
tháng Tám với những chiến công rung chuyển, những ngày nổi dậy tổng tiến công
thần tốc tết Mậu Thân 1968, và qua hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và
đế quốc Mỹ đầy thử thách và vinh quang của dân tộc, sông Hương đã “Cùng sống những
giây phút hào hùng của hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ để cuối cùng
trở về sống cuộc sống bình thường, làm người con gái dịu dàng của đất nước”.
Với lịch sử sông Hương đã là một chứng nhân, điều đó đã khiến thành phố Huế
mang một sức hấp dẫn lớn về vẻ đẹp văn hoá mang tầm quốc gia và quốc tế.
Hoàng Phủ Ngọc Tường đã
đưa người đọc xuôi theo dòng sông thơm mát để trở về lịch sử còn khuất nẻo, để
khám phá vị trí âu đời của thành Châu Hoá đứng uy nghiêm soi bóng trên sông
Hương. Nó chính là một ải Chi Lăng ở phía Nam Tổ quốc đã bao lần làm quân thù
khiếp sợ. Lịch sử đã gọi nó là “Vạn lý trường thành của phương Nam”.
Với vốn ngôn ngữ phong
phú, luôn biến ảo, giàu hình ảnh và cảm xúc cùng với việc sử dụng nhiều biện
pháp tu từ đắt địa, như so sánh, ẩn dụ, hoán dụ, nhân hóa, tượng trưng… Hoàng
Phủ Ngọc tường đã nâng bút ký Ai đã đặt tên cho dòng sông? thành
một bài “thơ văn xuôi” giàu tính họa, tính nhạc và nhiều giá trị khảo cứu khác.
3. Tác động:
Từ thuở sơ khai, con người
đã gắn liền với thiên nhiên, nương náu trong vòng tay che chở và hưởng trọn nguồn
tài nguyên dồi dào của Mẹ Trái Đất. Con người và thiên nhiên là một thể thống
nhất. Việc sống hài hòa với thiên nhiên là điều cần thiết để đảm bảo sự phát
triển bền vững cho chính bản thân, cho thế hệ mai sau và cho hành tinh Trái Đất.
Mỗi hành động nhỏ bé của mỗi cá nhân đều góp phần tạo nên sự thay đổi to lớn,
hướng đến một tương lai bền vững cho Trái Đất và cho thế hệ mai sau.
Con người cần phải biết
cảm ơn tự nhiên, tôn trọng quy luật tự nhiên, trân trọng vẻ đẹp tự nhiên. Cần
hiểu rõ và tuân thủ các quy luật tự nhiên, không can thiệp hay phá vỡ trật tự
sinh thái; biết ơn những gì thiên nhiên ban tặng, sử dụng tài nguyên một cách hợp
lý và tiết kiệm;luôn giữ gìn vệ sinh môi trường, bảo vệ cảnh quan thiên nhiên,
không xả rác bừa bãi hay phá hoại các di tích tự nhiên. Tham gia các chiến dịch
dọn dẹp vệ sinh môi trường, tuyên truyền nâng cao ý thức cộng đồng, hỗ trợ các
tổ chức bảo vệ môi trường: Giảm thiểu, tái sử dụng và tái chế rác thải. Ưu tiên
sử dụng các sản phẩm thân thiện với môi trường, hạn chế rác thải nhựa; Hạn chế
sử dụng nước lãng phí, thu gom và tái sử dụng nước mưa, không xả rác thải hoặc
hóa chất độc hại xuống nguồn nước; Tham gia các hoạt động trồng cây gây rừng,
phủ xanh đồi núi trọc, bảo vệ hệ sinh thái đa dạng.