“Cha là bóng cả ngã che con
Là suối tình thương không bao giờ vơi
cạn.” (Ca dao)
Quả thật, nếu tình mẫu tử ngọt ngào,
bao la như biển khơi, ôm ấp và vỗ về thì tình phụ tử càng thiêng liêng và cao cả
gấp bội. Đề tài về tình cảm gia đình, cụ thể là về tình phụ tử luôn chiếm một vị
trí quan trọng và ý nghĩa đối với bản thân người sáng tác lẫn độc giả. Trong
văn học Việt Nam hiện đại, nhà văn Nguyễn Quang Sáng đã thể hiện thành công
tình phụ tử cao cả, đặt nó trong thời khắc bùng nổ của chiến tranh và từ đó biết
bao cảm xúc được cất lên thành lời, làm lay động biết bao bạn đọc. Tác phẩm ấy
đi theo cùng tháng năm có tên: Chiếc Lược Ngà của nhà văn Nguyễn Quang Sáng.
Nhân vật bé Thu trong truyện ngắn này sẽ giúp người đọc cảm nhận rõ nét về tình
phụ nữ thiêng liêng cao cả biết bao…
Có lẽ vì sinh ra, lớn lên và hoạt động
chủ yếu ở chiến trường miền Nam nên các tác phẩm của Nguyễn Quang Sáng hầu như
chỉ viết về cuộc sống và con người Nam Bộ trong hai cuộc kháng chiến cũng như
sau hoà bình. Đặc biệt, một truyện ngắn xúc động và giản dị về tình cảm gia
đình được in vào sách giáo khoa và đã trải qua bao lần kiến giải, tiếp nhận từ
các bạn đọc trẻ tuổi đó chính là truyện ngắn “Chiếc lược ngà”. Có thể nói, “Chiếc
lược ngà” là một lát cắt nho nhỏ của đời sống, nó viết về tình phụ tử sâu nặng
của cha con ông Sáu sau chiến tranh. Đây là một truyện ngắn giản dị nhưng chứa
đầy sức bất ngờ như ta thường thấy ở văn của Nguyễn Quang Sáng. Đoạn trích
trong sách giáo khoa đã cho thấy một khoảnh khắc nhỏ mà trong đó có sự cao cả
thiêng liêng về tình phụ tử. Nhân vật bé Thu thì nhân vật này đã để lại trong
lòng mỗi chúng ta những dấu ấn sâu sắc. Hình ảnh bé Thu và ông Sáu đã khắc họa
rõ nét về tình phụ tử thiêng liêng và sâu nặng, bất biến và vĩnh hằng.
Ông Sáu – một người xa nhà đi kháng
chiến trong thời gian tám năm, bé Thu – con của ông luôn từng ngày nhớ về ba của
mình. Trong một dịp về thăm nhà, thăm con, Bé Thu không nhận ra ba của mình,
trái lại đã đối xử lạnh nhạt, có lúc vô lễ với ba. Đứa bé ấy tìm đủ mọi cách để
không gọi ông Sáu là ba. Điều đó làm ông Sáu đau lòng, nhưng ông vẫn yêu thương
con bằng tình cha con ruột thịt. Sau vài ngày ngắn ngủi sum họp gia đình, ông
Sáu phải ra đi. Đến lúc ấy thì bỗng nhiên bé Thu bỗng thay đổi thái độ. Em ôm
chặt lấy cha không muốn cha con phải xa nhau. Mọi người ngỡ ngàng sửng sốt. Thì
ra mấy ngày trước do nhìn thấy trên mặt ông Sáu có vết sẹo lớn, bé Thu thấy ông
không giống cha chụp chung ảnh với mẹ. Nhờ bà ngoại giảng giải, Thu đã hiểu ra
mọi chuyện, em cất tiếng gọi “Ba…ba!..” và hẹn “Ba mua cho con một
cây lược nghe!”. Ở khu căn cứ, ông Sáu dồn hết tình cảm yêu quý nhớ con vào
việc làm một chiếc lược bằng ngà voi để mang về tặng cô con gái bé bỏng. Nhưng
trong một cuộc chiến đấu ông đã ngã xuống. Trước lúc nhắm mắt ông còn kịp trao
cây lược cho người bạn, gửi về tận tay cho con.
Truyện được viết theo lời kể qua cái
nhìn của ông Ba – nhân vật xưng tôi. Tuy đây là một đề tài khá phổ biến trong
văn chương nhưng giá trị nhân văn của truyện không trở nên nhàm chán mà trở nên
sâu sắc hơn cả. Đọng lại trong lòng người đọc ấn tượng nhất chính là nhân vật
bé Thu, một cô bé hồn nhiên, bướng bỉnh nhưng lại vô cùng yêu thương cha.
Điều mà người đọc cảm nhận được ở
nhân vật này chính là một người con yêu thương cha sâu sắc và mãnh liệt được thể
hiện trong giây phút em gặp cha. Tình yêu thương vô bờ bến ấy được cô bé cất giữ
trong trái tim bé nhỏ của mình. Khoảng thời gian khi ông Sáu đi kháng chiến thì
bé Thu lúc ấy chỉ mới tròn một tuổi. Nỗi nhớ cha chỉ được lưu giữ lại qua tấm ảnh
trắng đen nhỏ bé mà em có được.
Chính vì thế, đang lúc chơi đùa gần
nhà, nhìn thấy một người đàn ông tự nhiên chạy đến gần nó, bé Thu trong giây
phút gặp “người lạ” thì em hoảng sợ, “bỏ chạy và kêu thét lên”.
Hành động đó cho thấy tài năng miêu tả diễn biến tâm lí con người của nhà văn
Nguyễn Quang Sáng thật tinh tế. Hành động của bé Thu ta không trách được bởi lẽ
đó là phản xạ tự nhiên của một đứa bé khi gặp một người xa lạ, bé Thu không hề
biết người đàn ông đang đứng gần bên nó chính là người cha trong tấm ảnh, người
cha mà nó mong nhớ bao ngày. Lúc này đây, người cha hiện thời khác hẳn với người
cha mà nó hình dung qua ảnh bởi vết sẹo dài trên khuôn mặt. Vết sẹo ấy vô tình
làm khuôn mặt ông Sáu trông rất đáng sợ và dữ tợn. Hẳn là người đọc cũng sẽ đồng
cảm với bé Thu bởi em chỉ là một đứa trẻ chỉ bảy, tám tuổi. Đối với một đứa bé
như thế, em chưa hiểu sự khốc liệt của đời sống chiến tranh thời ấy. Bé Thu
nghĩ về cha nó đẹp, phải lành lặn, khỏe mạnh như trong bức ảnh. Ngay phút đầu tiên,
bé Thu đã không công nhận ông Sáu là cha. Bởi trong tâm hồn của em chỉ là nỗi
ám ảnh về quá khứ, cảm giác sợ hãi dường như vây quanh em mà ngay cả chính em
cũng không hề mong muốn.
Hơn nữa, khi tìm hiểu nhân vật bé
Thu, ta thấy tình yêu thương cha da diết và mãnh liệt được bộc lộ khi bé Thu
kiên quyết bảo vệ tình thương mà nó dành cho cha “trong bức ảnh” dù chỉ
ba ngày ngắn ngủi ở gần ông Sáu. Phản ứng đầu tiên của con bé là một thái độ
kiên quyết không gọi ông Sáu là “ba”, con bé chỉ muốn dành tiếng “ba” cho người
cha trong bức ảnh kia. Ông Sáu càng chờ đợi, càng hi vọng thì càng thất vọng.
Người đọc không thể rời mắt khỏi trang giấy bởi các tình tiết truyện đan xen với
nhau, hồi hộp theo dõi sự chuyển biến trong nhận thức và hành động của bé Thu khi
nó trông nồi cơm giúp mẹ. Người đọc tưởng rằng, khó khăn hay một việc nào quá sức,
bé Thu sẽ kêu một tiếng “ba” để nhờ ông Sáu “chắt nước” khi nấu cơm nhưng đằng
này, trái lại con bé chọn cách nói trổng. Lời nói cộc lốc, lạnh lùng làm sao: “Cơm
sôi rồi, chắt nước dùm cái”. Lời nói này khiến ta nghĩ đây là một cô bé thiếu
lễ phép khi nói chuyện với người lớn, nhưng cách cư xử ấy có lí do khiến chúng
ta thông cảm. Đó là bé Thu bướng bỉnh, muốn dành riêng tiếng “ba” thiêng liêng cho một người
cha duy nhất mà thôi. Nếu với người khác, trong tình huống khác, tiếng “ba” thật
bình thường nhưng đối với một cô bé thiếu thốn tình cảm quan tâm, chăm sóc của
người cha thì tiếng “ba” đó thật thiêng liêng và cao quý hơn cả. Tiếng gọi đó,
tình cảm đó, nó đã ấp ủ suốt tám năm trời mà chưa có dịp gọi “ba”. Kế đến, hành
động của bé Thu lấy vá múc từng vá nước đổ ra ngoài, khi mà ông Sáu phớt lờ đi
lời nói trổng đã cho thấy tính cách mạnh mẽ, bướng bỉnh của cô bé này. Bé Thu
cũng nhanh tay, thông minh khi sử dụng cách khác, đúng như lời nhận xét của
nhân vật Ba: “Con bé đáo để thật”. Sự bướng bỉnh và ương ngạnh của bé
Thu ngày càng tiếp tục khi nó hất văng cái trứng cá ra khỏi chén cơm. Hành động
đó như muốn từ chối, phủ nhận hết sự quan tâm, chăm sóc của ông Sáu trong những
ngày qua. Quả là:
“Tấm lòng cha một đời con đâu hiểu
Bởi tình cha luôn lắng dịu ngọt
ngào.” (Ca dao)
Điều đó càng khiến cho người đọc vừa
giận, vừa thương bé Thu. Giận vì bé Thu cứng đầu, cố chấp và bướng bỉnh đến mức
ương ngạnh và có hành vi thiếu lễ phép với ông Sáu. Thương vì bé Thu thiếu thốn
tình cảm của cha từ nhỏ nhưng vẫn giữ trọn một tình thương sâu sắc nhất dành
cho người cha duy nhất trong tấm ảnh. Em đã kiên quyết đến mức cố chấp để bảo vệ
tình yêu trong sáng mà bấy lâu nay Thu vẫn tin tưởng và trân trọng. Có lẽ, đó
cũng là một nét đẹp đáng quý trong tâm hồn của em. Độc giả có thể nhìn thấy rõ
tài năng tự sự kết hợp với miêu tả tâm lí nhân vật của nhà văn. Ông dường như nắm
rõ và thấu hiểu từng giây phút chuyển biến trong tâm lí trẻ thơ thể hiện qua những
hành động và thái độ của bé Thu. Mặc dù cho người cha sau ngần ấy tám năm trời
đau khổ khi con không nhận ra mình thì bé Thu vẫn tỏ ra một mực kiên quyết,
phân chia ranh giới giữa nó và ông Sáu. Người đọc cảm thấy thật tội nghiệp cho
cả hai cha con.
Cuối cùng, tình yêu cha mãnh liệt và
sâu sắc được thể hiện và bộc lộ khi bé Thu chia tay với cha. Nghe lời giải
thích của ngoại về “vết thẹo” trên khuôn mặt của cha do bị ảnh hưởng từ chiến
tranh đã khiến bé Thu không ngủ được. Cả đêm, bé Thu nằm trằn trọc, thao thức,
trở mình qua lại. Rõ ràng, bé Thu không phải thuộc kiểu một người thiếu suy
nghĩ, vô tư, hồn nhiên mà trái lại chín chắn như người lớn.
Có vẻ như, cô bé đang hối hận về việc
đối xử tệ với cha mình trong những ngày qua. Giờ đây, ngoài việc hối hận, có lẽ
bé Thu còn cảm thấy tiếc nuối khi nó không gặp cha, không còn được cha quan
tâm, chăm sóc. Thời gian quá ngắn ngủi, bao yêu thương và sự quan tâm của ông
Sáu dành cho Thu từng ngày ấy em không nhận lấy để rồi khi đến thời khắc gần
chia tay, cô bé ấy mới thấy quý giá và tiếc nuối vô cùng. Chắc hẳn, sau lời vỗ
về và giải thích từ phía ngoại, bé Thu hiểu ra và mong trời mau sáng, để em chạy
về nhà mình thật nhanh, để có thể ôm lấy cha lần cuối, để rồi em được gọi tiếng
“ba” sau ngần ấy năm qua.
Mạch truyện vẫn cứ chảy trôi, không hề
bị gián đoạn mà cứ lần lượt đẩy tâm thế người đọc từ phía hồi hộp này đến hồi hộp
khác. Đỉnh điểm của cảm xúc con người vỡ tung khi nhà văn mô tả giây phút bịn rịn,
chia tay của ông Sáu với hàng xóm, cảnh chia tay của ông với đứa con gái yêu
duy nhất của mình.
Lúc ông Sáu lên đường trở lại chiến
khu, “đôi mắt bé Thu không còn ngơ ngác lạ lùng…ánh mắt xa xăm, mông lung”
như đang chờ đợi, đang muốn bộc lộ tình cảm dữ dội, mãnh liệt. Bé Thu trong
giây phút: “Nó bỗng cất tiếng gọi ba… tiếng kêu như xé…xé ruột gan mọi người”.
Dường như ngay lúc đó, nó muốn cho ba hiểu là nó yêu thương ba biết nhường nào.
Bé Thu muốn cho ông Sáu hiểu nó rất thương cha và đó cũng chính là lời xin lỗi
muộn màng, sự cảm thông chia sẻ nỗi đau, nỗi tổn thương mà cha nó phải gánh chịu
suốt tám năm và cả ba ngày ngắn ngủi vừa qua. Giờ đây, bé Thu yêu luôn cả những
gì đáng sợ trên khuôn mặt cha của nó. Rời khỏi vòng tay cha với lời nhắn nhủ
trong nước mắt về một cây lược làm quà tặng mà nó mong nhận được, nhưng thực chất,
con bé chỉ hi vọng một ngày không xa, đất nước được thống nhất, ba nó trở về và
gia đình lại được sum họp. Cứ tưởng cái viễn cảnh gia đình hạnh phúc sẽ không
còn xa nữa nhưng cả bé Thu lẫn ông Sáu đều không biết rằng đó là lần gặp mặt cuối
cùng của cha và con bởi trong chiến tranh không thể nói trước được điều gì.
Cô bé quả thật đã để lại ấn tượng
trong lòng người đọc không chỉ ở tình yêu thương cha sâu sắc mà còn là sự thông
minh, lém lỉnh có phần hơi bướng bỉnh. Chính vì điều đó đã tạo nên một cô giao
liên gan dạ, dũng cảm, tiếp nối con đường cách mạng mà ba em đã đi.
Từ việc phân tích nhân vật bé Thu nói
riêng hay tìm hiểu về tác phẩm nói chung, ta càng cảm phục và trân trọng trước
tình cảm của cha con ông Sáu, càng thấm thía hơn tình phụ tử thiêng liêng, bất
diệt trong chiến tranh. Truyện có giá trị mạnh mẽ trong việc tố cáo tội ác của
chiến tranh. Nó đã gieo rắc bao đau thương khiến gia đình li tán, con xa cha,
chồng xa vợ. Chiến tranh và tội ác chính là kẻ thù của nhân loại. Tình huống
truyện được nhà văn xây dựng độc đáo và ngôi kể chứng nhân qua nhân vật Ba càng
góp phần tạo nên sức hấp dẫn cho truyện.
Nói tóm lại, nhân vật bé Thu trong
tác phẩm Chiếc lược ngà của nhà văn Nguyễn Quang Sáng là một nhân vật thú vị, gần
gũi và có những nét tính cách riêng: vừa ngây thơ, vừa giàu tình cảm nhưng cũng
kiên quyết mạnh mẽ. Bên cạnh hình ảnh ông Sáu thì hình ảnh bé Thu được tác giả
miêu tả sâu sắc và chân thật. Hai nhân vật này song hành cùng nhau làm cho câu
chuyện về tình phụ tử thêm đẹp và ý nghĩa. Truyện ngắn đã khiến người đọc cảm
thấy yêu hơn và trân quý hơn những giây phút bên gia đình, bởi lẽ thời gian lướt
trôi vội vã nhưng đời người thì hữu hạn biết bao…
Nguồn: Sưu tầm