Cũng như mùa xuân, mùa thu đã trở thành đề tài muôn
thuở của thi ca Việt Nam. Có rất nhiều nhà thơ viết về mùa thu Việt Nam và mỗi
người đều có một cảm nhận riêng, mang đậm dấu ấn cá nhân của mình. Với Nguyễn
Khuyến mùa thu là bầu trời thu xanh ngắt, ngõ trúc quanh co… Với Xuân Diệu mùa
thu là dáng liễu buồn, là màu áo mơ phai… Với Lưu Trọng Lư mùa thu là “Con nai
vàng ngơ ngác/đạp trên lá vàng khô”. Và Hữu Thỉnh, một nhà thơ trưởng thành
trong thời kì chống Mĩ đã góp vào tuyển tập những bài thơ thu Việt Nam một ấn
tượng mới mẻ về mùa thu qua bài thơ “Sang thu”. Bài thơ đã đem lại cho người đọc
cảm xúc nhẹ nhàng, bâng khuâng trước sự biến chuyển nhẹ nhàng của đất trời lúc
giao mùa hạ - thu ở vùng đồng bằng Bắc Bộ qua sự cảm nhận tinh tế của tác giả.
Bài thơ chỉ có 12 câu thơ năm chữ nhưng đã miêu tả một
cách tinh tế sự biến chuyển nhẹ nhàng, giao cảm của đất trời lúc giao mùa hạ
thu. Nếu như trong thơ của Xuân Diệu, tín hiệu bắt đầu là màu sắc “mơ phai” của
lá vàng:
“Đây mùa thu tới, mùa thu tới
Với áo mơ phai dệt lá vàng.”
Thì tín hiệu bắt đầu mùa thu trong bài thơ “Sang thu”
của Hữu Thỉnh lại là hương ổi chín trong làn gió se se lạnh:
“Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se”
Sự biến đổi của đất trời lúc sang thu được nhà thơ
phát hiện ra nhờ tín hiệu của sự chuyển mùa là làn gió se nhè nhẹ mang theo
hương ổi chín lan vào không gian, một mùi hương đặc biệt của mùa thu ở nông
thôn Việt Nam. Hữu Thỉnh đã mang đến cho người đọc một cảm giác bất ngờ ngay
dòng thơ đầu tiên. “Bỗng” là bất chợt có pha chút ngỡ ngàng. Một mùi hương vốn
dĩ quen thuộc mà có lúc nào đó bị bỏ quên đã bắt đầu trở về khi chớm sang thu để
người đọc có cảm giác tưởng lạ mà quen. Hương vị thân thuộc của làng quê.
Từ “phả” có nghĩa là bốc mạnh và tỏa ra thành luồng,
nhà thơ không tả mà chỉ gợi cho người đọc sự liên tưởng về màu vàng và hương
thơm lừng tỏa ra từ những trái ổi chín nơi vườn quê Bắc Bộ. Làn gió se, nhẹ,
khô và hơi lạnh của mùa thu càng làm cho hương ổi thêm nồng nàn. Mùi hương ổi
chín vốn quen thuộc với người Việt nam nhưng lại xa lạ với thơ ca đã được tác
giả đưa vào thơ hết sức tự nhiên. Và cũng từ đây một loạt hình ảnh quen mà lạ
đã xuất hiện trong bài thơ để tạo nên một bức tranh mùa thu đẹp đẽ, trong sáng
kì lạ. Sự kết hợp hài hòa giữa “động” và “tĩnh”, “mạnh” và “nhẹ” tạo cho câu
thơ nhiều cung bậc như cảm xúc của nhà thơ lúc giao mùa.
Sau làn gió se lạnh mang theo hương ổi chín là làn
sương mỏng giăng mắc, nhẹ nhàng, chuyển động chầm chậm nơi đường thôn ngõ xóm
“Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về.”
Hai chữ “chùng chình” đã diễn tả rất nên thơ bước đi
chầm chậm khi trở về của mùa thu. Và rõ ràng sự có mặt của hương ổi chín và làn
sương mỏng đã khiến tác giả ngỡ ngàng, bâng khuâng khi nhận ra mùa thu đã về. Nếu
như từ “bỗng” bộc lộ cảm xúc ngạc nhiên của tác giả khi mùa thu về thì từ “hình
như” lại thể hiện sự phỏng đoán một cách mơ hồ của tác giả. Và để cảm nhận được
bức tranh đẹp đẽ đó, tác giả đã huy động tất cả các giác quan và cả sự rung động
tinh tế của mình.
“Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã.”
Nét độc đáo của bài thơ sự chuyển đổi tầm nhìn từ
trong vườn ra ngoài ngõ rồi mở rộng ra không gian bao la bên ngoài với sông với
bầu trời bao la và khép lại sự nghiền ngẫm giá trị sống trong cõi đời. Tất cả
các sự vật được tác giả lựa chọn để miêu tả cảnh đất trời sang thu đều ở trạng
thái ngập ngừng. Dòng sông dường như cố ý trôi một cách chậm chạp, thanh thản,
nhẹ nhàng gợi lên vẻ đẹp êm dịu của bức tranh mùa thu. Những cánh chim đã bắt đầu
vội vã bởi vì mùa thu đã về, nó phải gấp gáp làm tổ, tha mồi chuẩn bị cho mùa
đông rét mướt hoặc bay về phương Nam tránh rét. Hai tốc độ trái chiều nhau giữa
chậm và nhanh của hai hình ảnh trên là quy luật tự nhiên không đồng đều ở thời
điểm giao thoa của muôn loài, muôn vật những đồng thời cũng diễn tả tâm trạng
con người trước đổi thay của cuộc sống.
Nét chấm phá độc đáo trong bức tranh thơ gợi nhiều suy
tưởng cho người đọc có lẽ ở hai câu thơ sau:
“Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu.”
Mùa hạ, mùa thu là hai đầu bến và đám mây là nhịp cầu
ô thước vắt qua. Nhịp cầu duyên dáng nối hai bờ thời gian. Đây là một hình ảnh
thơ đầy sáng tạo và thú vị của Hữu Thỉnh. Nhà thơ đã lấy không gian để miêu tả
thời gian. Do đó câu thơ diễn tả cảm giác lúc giao mùa tinh tế, sống động hơn
và hình ảnh hơn. Ẩn sau hình ảnh thơ ấy,
nếu tinh tế người đọc sẽ cảm nhận một thoáng bâng khuâng trong tâm trạng nhà
thơ. Âm điệu hai câu thơ có phần trầm lắng trong cảm xúc nhè nhẹ mà sâu lắng.
Bài thơ viết năm 1977, hai năm sau chiến tranh chống Mỹ kết thúc. Là một người
lính trở về cuộc sống đời thường, cảm nhận giây phút chuyển mùa ấy, có thể bất
giác Hữu Thỉnh nghĩ về những đồng đội của mình đã an nghỉ mãi mãi giữa tuổi
thanh xuân mang theo cả những ước mơ khát vọng cháy bỏng “đám mây mùa hạ” cống
hiến cho quê hương, Tổ quốc. Có chút gì đó nuối tiếc, có chút gì đó vấn vương,
hồi tưởng như đám mây hạ nhè nhẹ trôi qua bầu trời rồi ngập ngừng nên câu thơ
“vắt nửa mình sang thu” không chỉ miêu tả hình ảnh thiên nhiên vào thu mà còn lắng
đọng lòng người nỗi ưu tư, trăn trở.
Nắng, mưa, sấm, chớp là những hiện tượng thiên nhiên cũng
được nhà thơ nhắc đến trong thời điểm giao mùa này.
“Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi.”
Mùa thu đến nhưng mùa hạ chưa đi nên vẫn còn bao nhiêu
nắng. Cái nắng cuối hạ vẫn còn nồng, còn sáng nhưng cũng đã bắt đầu nhạt dần.
Và trong thời điểm giao mùa này, những cơn mưa rào mùa hạ thường hay ào ạt, bất
ngờ cũng vơi dần đi. Theo đó, những tiếng sấm bất ngờ thường gắn với cơn mưa
mùa hạ cũng ít đi và nó không còn làm cho những hàng cây xanh cổ thụ giật mình
nữa. Những thi liệu như "nắng, sấm, mưa" là những hình ảnh đặc trưng
của mùa hạ nhưng độ gay gắt của mùa hạ đang chuyển hóa thành dịu êm. Đây là dấu
hiệu của mùa thu và sự phân hóa giữa hai bờ ranh giới hạ - thu cũng thật là
mong manh. Người ta chỉ có thể xác định được bằng sự nhạy cảm của giác quan.
Làm sao có thể đong đếm đầy vơi, nhiều ít, mau thưa? Người ta chỉ có thể ước lượng
trong hồn mình mà thôi.
Âm điệu khổ thơ trở nên trầm lắng suy tư. Có “đầy” thì
có “vơi”, có “còn” thì có “hết”, có “nắng” thì có “mưa”. Đó là quy luật của tự
nhiên, của cuộc đời. Chính vì thế con người phải tiếp nhận một cách an nhiên.
Trong hai câu cuối của bài thơ, hình ảnh hàng cây đứng tuổi giống như một chứng
nhân đang quan sát và lắng nghe sự chuyển mình của vạn vật xung quanh nó và
hình ảnh này cũng là những suy ngẫm mà tác giả muốn gởi gắm trong bài thơ. Tiếng
sấm chính là những vang động bất thường của ngoại cảnh, hàng cây đứng tuổi là
hình ảnh những người đã từng trải. Khi con người đã từng trải, đã đi qua mùa
going bão thì cũng vững vàng hơn trước những tác động bất thường của ngoại cảnh,
của cuộc đời. Có đặt hai câu thơ trong hoàn cảnh đất nước ta những năm đầy khó
khăn thử thách thì mới thấy hết được ý nghĩa của hai câu kết. Nó khẳng định bản
lĩnh cứng cỏi sẵn sàng đương đầu với mọi khó khăn thử thách trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc của dân tộc ta.
Tóm lại, bằng các hình ảnh giàu sức biểu cảm và sự cảm
nhận tinh tế, bài thơ "Sang thu" đã miêu tả thành công sự biến chuyển
nhẹ nhàng mà rõ rệt của đất trời lúc cuối hạ sang đầu thu và qua hình ảnh thiên
nhiên nhà thơ đã gửi gắm những suy ngẫm của mình về cuộc đời. Bài thơ
"Sang thu" đã tôn thêm vẻ đẹp cho đất nước quê hương trong tiết trời
thu và khiến cho ta thêm yêu quý đất trời quê hương mình.
Thạc sĩ Hồ Thị Giáng Thu
(Giáo viên trường THCS Phan Bội Châu, quận Tân Phú)