Thứ Tư, 26 tháng 2, 2020

Phân tích vẻ đẹp của Vũ Nương.



“Chuyện người con gái Nam Xương” là câu chuyện về số phận oan nghiệt của một người phụ nữ có nhan sắc, có đức hạnh dưới chế độ phong kiến, chỉ vì một lời nói ngây thơ của con trẻ mà bị nghi ngờ và bị đẩy đến bước đường cùng, phải kết liễu cuộc đời mình để chứng minh tấm lòng trong sạch. Đó là số phận, hình ảnh của Vũ Nương – một nhân vật chịu nhiều oan nghiệt.
Nhà văn Nguyễn Dữ qua việc xây dựng truyện hết sức độc đáo, với sự kết hợp của các yếu tố tự sự, trữ tình và kì ảo. Qua đó, vẻ đẹp của nàng Vũ Nương cũng toát lên rõ nét. Nàng là hiện thân tiêu biểu cho số phận những người phụ nữ xưa… Một người phụ nữ thủy chung son sắt, thùy mị dịu hiền, hết lòng vì gia đình nhà chồng – đó có lẽ là những đức tính đáng trân trọng của Vũ Nương. Nhưng Vũ Nương càng đẹp chúng ta càng xót thương cho nàng cũng như thân phận những người phụ nữ xưa…
Nguyễn Dữ đã thật tài tình khi xây dựng hình ảnh người phụ nữ mà cụ thể ở đây là Vũ Nương. Ông đã đặt nhân vật vào tình huống khác nhau để thể hiện rõ được phẩm chất của người phụ nữ thương chồng, yêu con, hiếu thảo với cha mẹ chồng đồng thời cũng hết mực thủy chung son sắc. Trong cuộc sống vợ chồng bình thường, nàng đã giữ gìn khuôn phép, không khi nào để vợ chồng phải đến thất hòa mặc dù Trương Sinh là người chồng có tính hay ghen tuông.
Khi Vũ Nương tiễn chồng đi lính thật là một cảnh làm cho mọi người phải xúc động. Thông thường thì khi chồng đi lính nhiều người mong chồng có được công danh vẻ vang mang về để vinh hiển với mọi người. Nhưng còn đối với Vũ Nương thì lại không như vậy. Nàng chẳng mong Trương Sinh vinh hiển với tước trọng quyền cao mà chỉ cầu chồng được binh yên trở về. Nàng còn cảm thông với những vất vả, gian lao mà chồng mình sẽ phải chịu đựng. Nàng nói đến nỗi nhớ nhung khắc khoải của mình, bằng những lời rất ân cần, đằm thắm tình cảm.
Khi xa chồng. Vũ Nương lại là một người vợ thủy chung, yêu chồng tha thiết, nỗi buồn nhớ cứ dài theo năm tháng, lúc thì tựa “bướm lượn đầy vườn”, có khi lại như “mây che kín núi”. Tác giả đã dùng hình ảnh ước lệ tượng trưng, mượn cảnh vật thiên nhiên để diễn tả sự trôi chảy của thời gian. Nàng vừa là người con dâu hiếu thảo lại vừa là người mẹ hiền. Nàng một mình vừa nuôi con nhỏ, vừa tận tụy chăm sóc mẹ chồng lúc đau ốm. Nàng lo thuốc thang, cầu khấn phật trời…. Không chỉ vậy, Vũ Nương lúc nào cũng ân cần, dịu dàng, lấy lời ngon ý ngọt khéo léo khuyên mẹ gắng dưỡng sức để chờ Trương Sinh quay trở về. Vì thế cho nên trước khi mẹ chồng nhắm mắt, bà đã nói với Vũ Nương rằng Vũ Nương là người con dâu tốt và khi Trương Sinh trở về ắt sẽ không phụ lòng tốt của nàng. Rồi nàng cũng hết sức thương xót mẹ và lo ma chay tế lễ như lo cho cha mẹ ruột của mình. Tình cảnh ấy dường như không phải chỉ riêng của Vũ Nương mà còn là số phận chung của biết bao nhiêu người chinh phụ xa chồng. Trong “Chinh phụ ngâm”, khi người chồng ra đi, người vợ ở nhà cũng lo toan mọi chuyện “Dạy con đèn sách, thiếp làm hiếu nam”. Từ đó, ta càng thấy cảm thông, thấu hiểu và yêu thương hơn những người phụ nữ phải chịu số phận làm chinh phụ, ngày ngày đều chỉ biết ngóng trông và mong cầu bình yên cho người chồng của mình.
Tưởng rằng khi Trương Sinh trở về thì Vũ Nương sẽ được đền đáp, được sống ngập tràn trong niềm vui và hạnh phúc, tưởng như nàng có thể chia sẻ bớt gánh nặng cuộc sống cho chồng. Nhưng không, ai có thể ngờ nàng lại phải chịu một nỗi oan khuất không tài nào thanh minh nổi, mặc dù nàng đã hết lời phân trần tấm lòng son sắt thủy chung của mình cho chồng hiểu. Nàng nói đến thân phận mình nghèo được nương nhờ nơi giàu có, nàng trân trọng tình nghĩa vợ chồng bao năm và khẳng định tấm lòng thủy chung trong trắng, cầu xin chồng đừng nghi oan. Như vậy đã chứng tỏ nàng đã tìm mọi cách nhằm hết sức cứu vãn, mong hàn gắn cái hạnh phúc gia đình đang có nguy cơ tan vỡ. Sau nữa nàng nói lên nỗi đau đớn, thất vọng khi không hiểu vì sao bị đối xử bất công, không có quyền được tự bảo vệ, ngay cả khi có họ hàng, anh em đến nói giúp. Hạnh phúc gia đình – niềm khát khao của cả cuộc đời nàng đã tan vỡ, mong manh biết dường nào. Tất cả những nỗi đau khổ chờ chồng trước đây không còn có thể làm lại được nữa. Số phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến sao mà đau thương, đoạn trường đến thế!
Thất vọng đến tột cùng, cuộc hôn nhân đã đến độ không thể nào cứu vãn được, Vũ Nương đành phải mượn dòng nước quê hương để giải nỗi oan cho mình. Những lời than trước khi vĩnh viễn cuộc đời đầy đau khổ của mình nhưng cũng đầy luyến tiếc, như một lời nguyền xin thần sông chứng giám nỗi oan khuất và tiết sạch giá trong của nàng. Người đọc nhận thấy tình tiết được sắp xếp đầy kịch tính: Vũ Nương bị đẩy đến bước đường cùng, nàng đã mất tất cả, đành phải chấp nhận số phận sau mọi cố gắng không thành. Hành động tự trầm mình của nàng là một hành động quyết liệt cuối cùng để bảo toàn danh dự, có nỗi tuyệt vọng đắng cay, nhưng cũng có sự chỉ đạo của lí trí. Đây không phải là hành động bột phát trong cơn nóng giận. Bởi Vũ Nương vốn là một người phụ nữ xinh đẹp nết na thùy mị, hiền thục,lại đảm đang tháo phát, thờ kính mẹ chồng rất mực hiếu thảo, một lòng một dạ chung thủy với chồng, hết lòng vun đắp cho hạnh phúc gia đình. Một con người như thế đáng ra phải được hạnh phúc trọn vẹn, vậy mà lại phải chết một cách oan uổng, đau đớn. Vậy nguyên nhân nào dẫn tới kết quả đáng buồn ấy?
Có phải chăng vì cuộc hôn nhân giữa Trương Sinh và Vũ Nương không bình đẳng? Chính sự cách bức về thân phận nghèo khó của Vũ Nương đã cộng thêm cái thế cho Trương Sinh bên cạnh cái thế của một người chồng, người đàn ông gia trưởng trong chế độ phong kiến. Hay đó là những lời nói ngây thơ của đứa trẻ, chứa đầy những dữ kiện nghi ngờ làm cho Trương Sinh một người chồng hay có tinh đa nghi ghen tuông, hồ đồ và độc đoán kia trở thành kẻ thô bạo, vũ phu và bức tử vợ mình trong sự mù quáng. Hay kẻ giết người lại hoàn toàn vô can trong vụ án?
Bi kịch của nàng chính là lời tố cáo cái xã hội phong kiến xem trọng quyền uy của kẻ giàu và của đàn ông trong gia đình. Đồng thời, qua đó Nguyễn Dữ cũng bày tỏ niềm thương cảm của mình đối với số phận oan nghiệt của người phụ nữ. Người phụ nữ bất hạnh ở đây không những không được bênh vực, che chở mà còn bị đối xử một cách bất công, vô lí, chỉ vì lời nói ngây thơ của đứa trẻ miệng còn hơi sữa và vì sự hồ đồ, vũ phu của người chồng ghen tuông mà phải kết thúc cuộc đời mình.
Phần cuối truyện đầy những chi tiết mang đậm tính chất hoang đường. Nào là Phan Lang nằm mộng thấy người con gái áo xanh đến kêu xin tha mạng, rồi Phan Lang được biếu một con rùa mai xanh nhưng không giết thịt mà đem thả con rùa xuống sông. Nào là Phan Lang bị chết đuối, xác giạt vào động rùa ở hải đảo. Linh Phi vợ vua biển Nam Hải lấy khăn dấu mà lau, lấy thuốc thần mà đổ. Phan Lang sống lại. Linh Phi mở tiệc ở gác Triêu Dương để thết đãi Phan Lang, ân nhân cứu sống mình ngày xưa.  Tình tiết Phan Lang gặp Vũ Nương tại bữa tiệc của Linh Phi. Vũ Nương khóc khi nghe Phan Lang nhắc lại nhà cửa, phần mộ của tiền nhân. Tình tiết Vũ Nương gửi Phan Lang chiếc hoa tai vàng và dặn chồng lập đàn tràng ở bến Hoàng Giang. Hình ảnh Vũ Nương ngồi kiệu hoa, phía sau có năm mươi chiếc xe cờ tán võng lọng rực rỡ đầy sông, lúc ẩn, lúc hiện… là những chi tiết hoang đường, nhưng đã tô đậm nỗi đau của người phụ nữ bạc mệnh và có giá trị tố cáo lễ giáo phong kiến vô nhân đạo đương thời.
Khi gặp lại Phan Lang dưới thủy cung, Vũ Nương vẫn rất tự trọng và mong muốn được giải oan mà nhờ Phan Lang gửi lời đến Trương Sinh. Để rồi đến khi hiện về bên dòng Hoàng Giang, nửa câu trách móc Trương Sinh, nàng cũng không hề thốt ra mà lại còn cảm tạ vì đã giúp nàng lập đàn giải oan. Câu nói của hồn Vũ Nương giữa dòng sông vọng vào: “Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng thể trở về nhân gian được nữa” nghe sao đầy xót xa, thương cảm mà cũng thật vị tha, bao dung. Và rồi, hình bóng nàng dần dần biến mất. Nhưng Vũ Nương vẫn mãi là người phụ nữ yêu chồng, thương con, người phụ nữ hiếu thảo, thủy chung và cũng là người phụ nữ phải chịu số phận bất hạnh, oan khiên. Chính chi tiết này đã làm cho giá trị nhân đạo của truyện thêm phần bi thiết. Nỗi ân tình của Vũ Nương đã được minh oan và giải tỏa nhưng âm dương đã đôi đường cách trở, nàng chẳng thể trở lại dương gian, chẳng bao giờ còn được làm vợ, làm mẹ nữa… Bé Đản mãi mãi là đứa con mồ côi mẹ!
Đến đây, người đọc như nghe thấy vọng lại những lời thơ của Nguyễn Du về thân phận của kiếp hồng nhan bạc mệnh:
“Trăm năm trong cõi người ta
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau
Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.”
Ta cũng có thể thấy bi kịch của Vũ Nương không phải là hiện tượng cá biệt mà là bi kịch chung của người phụ nữ thời phong kiến. Vì người phụ nữ luôn phải chịu số phận lận đận, long đong:
“Thân em vừa trắng lại vừa tròn
Bảy nổi ba chìm với nước non
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son.” (“Bánh trôi nước” – Hồ Xuân Hương)
Vì những cuộc chiến tranh phi nghĩa cứ diễn ra liên miên, mặc nhân dân thống khổ, lầm than, mặc bao bi kịch vẫn cứ tiếp diễn và đè nặng lên thân phận người phụ nữ:
“Chàng thì đi cõi xa mưa gió
Thiếp thì về buồng cũ chiếu chăn
Đoái trông theo đã cách ngăn
Tuôn màu mây biếc trải ngàn núi xanh
Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu
Ngàn dâu xanh ngắt một màu
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai.” ( “Chinh phụ ngâm”)
Và có lẽ đau đớn nhất là tiếng khóc nhân đạo cho số kiếp bạc mệnh của những phận hồng nhan được Nguyễn Du thống thiết cất lên:
“Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.”
Nguyễn Dữ đã rất thành công trong việc xây dựng hình tượng nhân vật Vũ Nương để khắc họa vẻ đẹp và cuộc đời của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Tác giả đã tô điểm rất nhiều vẻ đẹp từ ngoại hình đến nhân cách cho nhân vật. Lời văn có sự kết hợp giữa văn phong cổ điển và tình cảm nhân đạo chân thành của Nguyễn Dữ. Không chỉ vậy, tác giả còn khéo léo đan xen những chi tiết hiện thực và kỳ ảo nhằm làm tăng giá trị nhân đạo cho tác phẩm. Nhờ đó mà cuộc đời Vũ Nương trở thành minh chứng cho bao kiếp tài hoa bạc mệnh trong xã hội cũ và rồi trở thành hình ảnh tổng quát cho người phụ nữ Việt Nam đương thời. Chẳng vì vậy mà nhà nghiên cứu Vũ Khâm Lân đã đánh giá “Truyền kỳ mạn lục” của Nguyễn Dữ là một áng “thiên cổ kỳ bút”.
Tóm lại, Vũ Nương là một người con gái công dung ngôn hạnh mà bạc mệnh. Nguyễn Dữ đã kể lại cuộc đời oan khổ của nàng với bao tình xót thương sâu sắc. Tuy mang yếu tố hoang đường, nhưng áng văn “Chuyện người con gái Nam Xương” vẫn giàu giá trị nhân đạo. Nhân vật Vũ Nương là một điển hình cho bi kịch của người phụ nữ trong gia đình và xã hội phong kiến. Người đọc càng thêm xúc động khi nhớ lại vần thơ của vua Lê Thánh Tông trong bài “Lại bài viếng Vũ Thị”:
“Chứng quả đã đôi vầng nhật nguyệt,
Giải oan chẳng lọ mấy đàn tràng.”

Nguồn: Sưu tầm