Trong
cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc vĩ đại, hình ảnh người lính mãi mãi là hình ảnh
cao quý nhất, đẹp đẽ nhất. Hình tượng người lính đã đi vào lòng người và văn
chương với tư thế, tình cảm và phẩm chất cao đẹp. Một trong những tác phẩm ra
đời sớm nhất, tiêu biểu và thành công nhất viết về tình cảm của những người
lính Cụ Hồ là “Đồng chí” của Chính Hữu. Bằng những rung động mới mẻ và sâu
lắng, bằng chính sự trải nghiệm của người trong cuộc, qua bài thơ “Đồng chí”,
Chính Hữu đã diễn tả thật sâu sắc tình đồng chí gắn bó thiêng liêng của anh bộ
đội thời kháng chiến.
...
Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Căn
nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng
nước gốc đa nhớ người ra lính
Anh
với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt
run người vừng trán ướt mồ hôi
Áo anh rách vai
Quần
tôi có nhiều mảnh vá
Miệng
cười buốt giá
Chân không giày
Thương
nhau tay nắm lấy bàn tay.
Đêm nay rừng hoang
sương muối
Đứng cạnh bên nhau
chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.
Tình đồng chí trong bài thơ là tình cảm cao đẹp và thiêng
liêng của những con người gắn bó keo sơn trong cuộc chiến đấu vĩ đại vì một lý
tưởng chung. Đó là mối tình có cơ sở hết sức vững chắc: sự đồng cảm của những
người chiến sĩ vốn xuất thân từ những người nông dân hiền lành chân thật gắn bó
với ruộng đồng. Tình cảm ấy được hình thành trên cơ sở tình yêu Tổ Quốc, cùng
chung lí tưởng và mục đích chiến đấu. Hoàn cảnh chiến đấu gian khổ và ác liệt
lại tôi luyện thử thách làm cho mối tình đồng chí đồng đội của những người lính
càng gắn bó, keo sơn. Mối tình thiêng liêng sâu nặng, bền chặt đó đã tạo nên
nguồn sức mạnh to lớn để những người lính “áo rách vai”, “chân không giầy” vượt
lên mọi gian nguy để đi tới và làm nên thắng trận để viết lên những bản anh
hùng ca Việt Bắc, Biên giới, Hoà Bình, Tây Bắc…. tô thắm thêm trang sử chống
Pháp hào hùng của dân tộc.
Chính Hữu không
chỉ dừng lại ở việc biểu hiện những xúc cảm về quá trình hình thành tình
đồng chí, nhà thơ còn nói với chúng ta về những biểu hiện cao đẹp của nó.Trước
hết, đồng chí là sự thấu hiểu và chia sẻ những tâm tư, nỗi lòng của nhau.
“Ruộng
nương anh gửi bạn thân cày
Gian
nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng
nước gốc đa nhớ người ra lính”
Họ
là những người lính gác tình riêng ra đi vì nghĩa lớn, để lại sau lưng mảnh
trời quê hương với những băn khoăn, trăn trở. Từ những câu thơ nói về gia cảnh,
về cảnh ngộ, ta bắt gặp một sự thay đổi lớn lao trong quan niệm của người chiến
sĩ: “Ruộng nương” đã tạm gửi cho “bạn thân cày”, “gian nhà không” giờ để “mặc
kệ gió lung lay”. Lên đường đi chiến đấu, người lính chấp nhận sự hi sinh, tạm
gạt sang một bên những tính toán riêng tư. Hai chữ “mặc kệ” đã nói lên được cái
kiên quyết dứt khoát mạnh mẽ của người
ra đi khi lí tưởng đã rõ ràng, khi mục đích đã lựa chọn. Song dù dứt khoát, mạnh mẽ ra đi nhưng những
người lính nông dân hiền lành chân thật ấy vẫn nặng lòng với quê hương. Chính
thái độ gồng mình lên ấy lại cho ta hiểu rằng những người lính càng cố gắng
kiềm chế tình cảm bao nhiêu thì tình cảm ấy càng trở nên bỏng cháy bấy nhiêu.
Nếu không đã chẳng thể cảm nhận được tính nhớ nhung của hậu phương: “giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”. Hình
ảnh thơ hoán dụ mang tính nhân hoá này
càng tô đậm sự gắn bó yêu thương của người lính đối với quê nhà, nó giúp người
lính diễn tả một cách hồn nhiên và tinh tế tâm hồn mình. Giếng nước gốc đa kia
nhớ người ra lính hay chính tấm lòng người ra lính không nguôi nhớ quê hương và
đã tạo cho giếng nước gốc đa một tâm hồn? Quả thực giữa người chiến sĩ và quê
hương anh đã có một mối giao cảm vô cùng sâu sắc đậm đà. Tác giả đã gợi nên hai
tâm tình như đang soi rọi vào nhau đến
tận cùng. Ba câu thơ với hình ảnh: ruộng nương, gian nhà, giếng nước, gốc đa,
hình ảnh nào cũng thân thương, cũng ăm ắp một tình quê, một nỗi nhớ thương vơi
đầy. Nhắc tới nỗi nhớ da diết này, Chính Hữu đã nói đến sự hi sinh không mấy dễ
dàng của người lính. Tâm tư ấy, nỗi nhớ nhung ấy của “anh” và cũng là của “tôi”, là đồng chí họ
thấu hiểu và chia sẻ cùng nhau. Tình đồng chí đã được tiếp thêm sức mạnh bởi tình
yêu quê hương đất nước ấy.
Tình đồng chí còn là sự đồng cam cộng khổ, sự sẻ chia
những gian lao thiếu thốn của cuộc đời người lính:
Anh
với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt
run người vầng trán ướt mồ hôi
Áo
anh rách vai
Quần
tôi có vài mảnh vá
Là
người lính, các anh đã từng trải qua những cơn sốt rét nơi rừng sâu trong hoàn
cảnh thiếu thuốc men, lại thêm trang phục phong phanh giữa mùa đông lạnh giá:
“áo rách vai, quần tôi vài mảnh vá, chân không giày…” Tất cả những khó khăn
gian khổ được tái hiện bằng những chi tiết hết sức thật, không một chút tô vẽ.
Ngày đầu của cuộc kháng chiến, quân đội Cụ Hồ mới được thành lập, thiếu thốn đủ
đường, quần áo rách bươm phải buộc túm lại nên người lính vệ quốc còn được gọi
là “vệ túm”. Đọc những câu thơ này, ta vừa không khỏi chạnh lòng khi thấu hiểu
nhưng gian nan vất vả mà thế hệ cha ông đã từng trải qua vừa trào dâng một niềm
kính phục ý chí và bản lĩnh vững vàng của những người lính vệ quốc.
Cùng hướng về một lí tưởng, cùng nếm trải sự khắc nghiệt
của chiến tranh, người lính chia sẻ cho nhau tình thương yêu ở mức tột cùng.
Chi tiết “miệng cười buốt giá” đã ấm lên, sáng lên tình đồng đội và tinh thân
lạc quan của người chiến sĩ. Rồi đến cái cử chỉ “thương nhau tay nắm lấy bàn
tay” đã thể hiện được tình thương yêu đồng đội sâu sắc. Cách biểu lộ tình
thương yêu không ồn ào mà thấm thía. Trong buốt giá gian lao, những bàn tay tìm
đến để truyền cho nhau hơi ấm, truyền cho nhau niềm tin, truyền cho nhau sức mạnh
để vượt qua tất cả, đẩy lùi gian khổ. Những cái nắm tay ấy đã thay cho mọi lời
nói. Câu thơ ấm áp trong ngọn lửa tình cảm thân thương! Nhà thơ đã phát hiện
rất tinh cái sức mạnh tinh thần ẩn sâu trong trái tim người lính. Sức mạnh tinh
thần ấy, trên cơ sở cảm thông và thấu hiểu sâu sắc lẫn nhau đã tạo nên chiều
sâu và sự bền vững của thứ tình cảm thầm lặng nhưng rất đỗi thiêng liêng này.
Bài
thơ kết bằng bức tranh đẹp về tình đồng
chí:
Đêm
nay rừng hoang sương muối
Đứng
cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu
súng trăng treo.
Ba
câu thơ tả một đêm phục kích giặc. Nền bức tranh là đêm – “rừng hoang sương
muối”gợi ra một cảnh tượng âm u, hoang vắng và lạnh lẽo. Không chỉ cái giá, cái
rét cứ theo đuổi mà còn bao nguy hiểm đang rình rập người chiến sĩ.
Nổi
bật trên nền hiện thực khắc nghiệt ấy là những người lính đứng cạnh bên nhau
chờ giặc tới trong cái nơi mà sự sống và cái chết chỉ trong gang tấc. Từ “chờ” cũng đã nói rõ cái tư thế, cái tinh
thần chủ động đánh giặc của họ. Rõ ràng khi những người lính đứng cạnh bên nhau
vững chãi, truyền cho nhau hơi ấm thì tình đồng chí đã trở thành ngọn lửa sưởi
ấm họ để họ có sức mạnh vượt qua cái cái gian khổ, ác liệt, giá rét ấy… Tầm vóc
của những người lính bỗng trở nên lớn lao anh hùng.
Câu
thơ cuối là một hình ảnh đẹp được nhận ra từ những đêm hành quân phục kích giặc của chính người lính. Đêm khuya, trăng
trên vòm trời cao đã sà xuống thấp dần, ở vào một vị trí và tầm nhìn nào đó,
vầng trăng như treo trên đầu mũi súng của người chiến sĩ đang phục kích chờ
giặc.Rõ ràng, tình cảm đồng chí ấm áp, thiêng liêng đã mang đến cho người lính
nét lãng mạn, cảm hứng thi sĩ trong hiện thực đầy khắc nghiệt qua hình ảnh “Đầu
súng trăng treo”.Trong hoàn cảnh hết sức gian khổ khốc liệt: đêm đông giá lạnh,
rừng hoang sương muối, cái chết cận kề, tâm hồn nhậy cảm của người chiến sĩ vẫn
tìm thấy chất thơ bay bổng trong vẻ đẹp bất ngờ của trăng. Bốn chữ “Đầu súng
trăng treo”chia làm hai vế làm nhịp thơ
đột ngột thay đổi, dồn nén, như nhịp lắc của một cái gì đó chông chênh, trong
bát ngát…gây sự chú ý cho người đọc. Từ “treo” đã tạo nên một mối quan hệ bất
ngờ độc đáo, nối hai sự vật ở cách xa nhau - mặt đất và bầu trời, gợi những
liên tưởng thú vị, bất ngờ. “Súng” là biểu tượng của chiến đấu, “trăng” là biểu
tượng của cái đẹp, cho niềm vui lạc quan, cho sự bình yên của cuộc sống. Súng
và trăng là hư và thực, là chiến sĩ và thi sĩ, là “một cặp đồng chí” tô đậm vẻ
đẹp của những cặp đồng chí đang đứng cạnh bên nhau. Chính tình đồng chí đã làm
cho người chiến sĩ cảm thấy cuộc đời vẫn đẹp, vẫn thơ mộng, tạo cho họ sức mạnh
chiến đấu và chiến thắng.
Hiếm
thấy một hình tượng thơ nào vừa đẹp vừa mang đầy ý nghĩa như “Đầu súng trăng
treo”. Đây là một sáng tạo đầy bất ngờ góp phần nâng cao giá trị bài thơ, tạo
được những dư vang sâu lắng trong lòng người
đọc.
Bài
thơ “Đồng chí” vừa mang vẻ đẹp giản dị lại vừa mang vẻ đẹp cao cả thiêng liêng,
thơ mộng. Cấu trúc song hành và đối xứng xuyên suốt bài thơ làm hiện lên hai
gương mặt người chiến sĩ rất trẻ như đang thủ thỉ, tâm tình, làm nổi bật chủ đề
tư tưởng: Tình đồng chí gắn bó keo sơn. Chân dung người lính vệ quốc trong
những ngày đầu kháng chiến chống Pháp hiện lên thật đẹp đẽ qua những vần thơ
mộc mạc, chân tình mà gợi nhiều suy tưởng. Với những đặc điểm đó, bài thơ xứng
đáng là một trong những tác phẩm thi ca xuất sắc về đề tài người lính và chiến
tranh cách mạng của văn học Việt Nam.