Những
câu thơ sau đây nói với em điều gì ?
“Ngưòi
đồng mình yêu lắm con ơi
...
Con đường cho những tấm lòng.
( ... )
Người đồng mình thương lắm con ơi
...
Còn quê hương thì làm phong tục
(Y Phương - Nói với con, Ngữ văn 9 - Tập 2)
“Quê hương là gì hở mẹ
Mà ai đi xa cũng nhớ nhiều
Quê hương là gì hở mẹ
Mà
ai cũng quí cũng yêu”.
Ai cũng có một quê hương, nơi đầu tiên đón
nhận tiếng khóc của ta và chào đón ta vừa lúc lọt lòng. Nghĩ về quê hương,
trong mỗi người lại gợi lên một hình ảnh riêng nhất, đẹp nhất xen lẫn một niềm
xúc cảm chân thành lẫn tự hào. Bởi thế, dù đã có rất nhiều người luôn nghĩ về quê hương mình, làm thơ về quê hương nhưng
quê hương trong Nói với con của Y Phương vẫn mang lại cho ta niềm xúc động sâu
lắng:
“Ngưòi đồng mình yêu lắm con ơi
Đan lở cài nan hoa
Vách nhà ken câu hát
Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng.
( ... )
Người
đồng mình thương lắm con ơi
Cao
đo nỗi buồn
Xa
nuôi chí lớn
Dẫu
làm sao thì cha vẫn muốn
Sống
trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống
trong thung không chê thung nghèo đói
Sống
như sông như suối
Lên
thác xuống ghềnh
Không
lo cực nhọc
Người
đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng
mấy ai nhỏ bé đâu con
Người
đồng mình tự đục đã kê cao quê hương
Còn
quê hương thì làm phong tục
(Y Phương - Nói với con, Ngữ văn 9 - Tập 2)
Có lẽ, ai cũng thế, những gì người ta thường
gợi để nhớ về quê hương là những gì chân chất, mộc mạc, giản dị nhất. Nếu Đỗ
Trung Quân gắn quê hương với hình ảnh “chùm khế ngọt”, “đường đi học”, là “con
diều biếc” ... Thì người cha đã chỉ cho con :
“Người đồng mình yêu lắm con ơi
Đan lờ
cài nan hoa
Vách
nhà ken câu hát
Rừng
cho hoa
Con
đường cho những tấm lòng”.
Con được trưởng thành trong cuộc sống lao
động, trong thiên nhiên thơ mộng và nghĩa tình của quê hương. Đó là một vùng
quê núi rừng còn chưa phát triển. Nhưng con người thì vô cùng đáng quý, đất đai
giàu truyền thống văn hoá và nhất nữa, đấy là mảnh đất nuôi dưỡng tâm hồn, tâm
lòng chất phác thiện lương. Người cha đã có cách lí giải rất cụ thể của người
dân tộc khiến người con có thể hiểu được: Người đồng mình đáng yêu như thế nào.
Họ sống rất đẹp. Cuộc sống lao động cần
cù và tươi vui của “người đồng mình” được gợi lên qua các hình ảnh đẹp: “Đan lờ
cài nan hoa. Vách nhà ken câu hát”. Các động từ “cài, ken” được dùng rất gợi
cảm vừa miêu tả cụ thể công việc lao động của người miền núi, vừa nói lên sự
gắn bó, quấn quýt. Cuộc sống lao động ấy, sinh hoạt gia đình đầy niềm vui ấy
được đặt trong cả một quê hương giàu đẹp, nghĩa tình. Rừng núi quê hương thật
thơ mộng và nghĩa tình. “Rừng cho hoa” là cho cái đẹp, một chữ “hoa” đủ nói lên
vẻ thơ mộng của rừng núi quê hương. “Con đường
cho những tấm lòng” là cho nghĩa tình, tâm hồn và lối sống. Rừng núi đâu
chỉ là thiên nhiên, cây, đá mà còn là
tình người, là những tấm lòng yêu thương gắn bó bên nhau Quê hương trong Nói
với con có gì riêng nhưng cũng có cái gì đó rất chung..
Trong cái ngọt ngào kỉ niệm gia đình và quê
hương, người cha đã tha thiết nói với con về những phẩm chất cao đẹp của con
người quê hương qua cách nói rất khác lạ mà cũng rất hay:
Người
đồng mình thương lắm con ơi
Cao
đo nỗi buồn
Xa
nuôi chí lớn
Dẫu
làm sao thì cha vẫn muốn
Sống
trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống
trong thung không chê thung nghèo đói
Sống
như sông như suối
Lên
thác xuống ghềnh
Không
lo cực nhọc
Tổ hợp từ “người đồng mình” được lặp lại ba
lần đã gây ấn tượng không phai mờ về con người quê hương. Lời gọi con thật tha
thiết, lời nhắn nhủ thật chân thành: “Người
đồng mình thương lắm con ơi!”. Đoạn
thơ bắt đầu bằng cảm xúc “thương lắm con ơi”, đó là tình cảm yêu thương, yêu
thương một cách xót xa. Người đồng mình thương lắm nhưng cũng lớn lao
đầy khí phách trong cả nỗi buồn và chí hướng. Người cha đã lần lượt ngợi ca những phẩm chất dễ thương của “người đồng
mình”với cách nói vừa rất cụ thể của người dân miền núi: “Cao đo
nỗi buồn. Xa nuôi chí lớn” vừa mang sức khái quát: Lấy sự từng trải
để đo chiều cao, lấy chí lớn để đánh giá độ xa. Câu thơ bốn chữ, nhưng đăng đối
như tục ngữ, đúc kết một thái độ, một phương châm sứng xử cao quý. Các từ ngữ “
cao đo” hay “ xa nuôi” đã thể hiện một bản lĩnh sống đẹp của dân tộc Tày, của
con người Việt Nam. Chính giọng điệu của đoạn thơ đã gieo vào lòng người những
cảm xúc về những lời căn dặn đầy thân thương, chân thành, tha thiết. Dù hoàn
cảnh sống có thế nào thì con người luôn phải vượt lên hoàn cảnh để mà sống.
“Nỗi buồn” sẽ làm cho con người ta biết sống chịu đựng, ý chí sẽ rèn luyện cho
con người ta luôn nỗ lực vươn tới, đi lên. “Cao đo nỗi buồn / Xa nuôi chí lớn”
là những câu thơ có ý nghĩa như một lời động viên, là động lực mà người cha
muốn truyền cho con, làm cho con luôn vững bước, đi xa hơn cùng với những quyết
định trong cuộc sống của mình và luôn giữ bên mình một niềm tin vào cuộc sống.
Sống ở đời sẽ không tránh được nỗi buồn, người biết sống cũng phải là người
luôn “nuôi chí lớn” để làm cho cuộc đời, cuộc sống một điều gì có ý nghĩa. Đó
cũng là kì vọng về tầm kích của con trong bước đường đời gian nan.
Nhưng có lẽ, điều in sâu đậm nhất trong lòng
mỗi đứa con (và người đọc chúng ta) là những lời dặn dò, khuyên bảo của người
cha. Đứa con trước cha, trước quê hương luôn mãi là một hình ảnh yêu thương, bé
bỏng nhất và lúc nào cũng cần được chở che, dạy dỗ. Bài học của cha luôn là
động lực giúp con khôn lớn, cứng cỏi trước cuộc sống.
Dẫu làm sao thì cha
vẫn muốn
Sống trên đá không
chê đá gập ghềnh
Sống trong thung
không chê thung nghèo đói
Sống như sông như
suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc
Ngưòi đồng mình thô
sơ da thịt
Chẳng
mấy ai bé nhỏ đâu con”.
Nhuyễn vào lời thơ là những hình ảnh ẩn dụ,
so sánh, những thành ngữ dân gian. Điệp ngữ “ sống” vang lên ba lần đã khẳng
định một tâm thế, một bản lĩnh, một dáng đứng … đều mà cha “vẫn muốn”, cha mong
con, hy vọng ở con. Lời thơ giản dị mà chắc nịch, lay động thấm thía vào lòng
người.Những hình ảnh cụ thể của thiên nhiên như : “sông, suối, thác, ghềnh” đã
được người cha dùng với tính chất biểu trưng cho khó khăn, gian khổ vá sức mạnh
vượt khó khăn gian khổ của những con người của quê hương.Người đồng mình không sợ gian khổ, nghèo đói.
Sự chấp nhận gian khổ ấy thể hiện trong điệp ngữ “không chê”, “không lo” và cách nói tha thiết: “vẫn muốn”. Và ông đã tự ví “người đồng mình”mạnh mẽ, hồn nhiên như
sông như suối qua các hình ảnh cụ thể
“đá, thung, những thác những ghềnh
…, dù có lên thác, xuống ghềnh vẫn không nhụt chí khí. Cặp từ trái nghĩa “lên, xuống” đã làm mạnh thêm sự diễn đạt
này. Dù quê hương vất vả, nhọc nhằn, dù
“người đồng mình” có thể có nỗi đau buồn rất lớn nhưng những người con của quê
hương không bao giờ quay lưng lại với nơi mình đã từng chôn rau, cắt rốn, cha
mẹ đã từng cáy xới vun trồng. Và phải chăng chính cuộc sống nhọc nhằn đầy nỗi
khổ đau ấy lại khiến cho “chí lớn” thêm lên, thêm mãnh liệt? Quê hương dẫu là
vùng rừng núi hoang sơ còn nhiều gian nan, khổ cưc, đói nghèo nhưng con người
- “người đồng mình” đã tự khẳng định
bằng sức sống, nghị lực, ý chí, và niềm tin, là chân dung dũng sĩ :
Người đồng mình thô
sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé
đâu con
“ Người đồng mình”
môc mạc nhưng giàu chí khí và nghị lực. Họ có thề “thô sơ da thịt” nhưng “
không hề nhỏ bé” vầ tâm hồn, về khí phách. Từ đó để khẳng định và ngợi ca tinh
thần cần cù, chịu khó trong lao động, sống giản dị, chất phác, không hề “ nhỏ
bé” tầm thường trước thiên hạ. Họ mong ước xây
dựng quê hương ngày cang tươi đẹp. Chính những con người ấy bằng sự lao động
cần cù đả tạo nên những truyền thống, phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc và
quê hương:
“Người đồng mình tự
đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì
làm phong tục.”
Đó là những con người tự đục đá kê cao quê hương,
lao động cần cù không lùi bước trước khó khăn. Tất cả những điều đó đó khiến họ
giữ vững bản sắc văn hoá của dân tộc. Việc “ đục đá” là khó, là đòi hỏi nghị lực,
nhưng người quê hương ta đã làm,vẫn làm dể làm rạng rỡ quê hương. Chính những
đức tính tốt đẹp cùng với sự lao động cần cù, nhẫn nại hàng ngày đã tạo nên sức
mạnh để làm nên quê hương với truyền thống với phong tục tập quán tốt đẹp. Họ yêu quê hương, lấy quê hương làm chỗ dựa tâm
hồn
Người cha đã tâm sự với con về tất cả những gì tốt đẹp nhất của người quê
hương, nơi con đang sinh sống, cái nôi đang nuôi con khôn lớn, trưởng thành. Gửi
trong những lời tự hào không dấu giếm đó, người cha ước mong, hy vọng người con
phải tiếp nối, phát huy truyền thống để tiếp tục sống có tình có nghĩa, thuỷ
chung với quê hương đồng thời muốn con biết yêu quý, tự hào với truyền thống
của quê hương.
Với lời thơ trong sáng, giản dị, hình ảnh thơ
gần gũi quen thuộc và đặc biệt giọng thơ chắc nịch nhưng thiết tha khiến “Nói
với con” vừa ân tình vừa nghĩa lí giúp cho ta bài học làm người không quên xứ
sở, nguồn gốc. Bởi đó là nguồn sức mạnh của ta.