Bài làm
Nếu mùa xuân là một hội tụ của cái đẹp, căng tràn nhựa sống
vào buổi bình minh với những chồi non lộc biếc, tiếng chim ca vui về làm tổ,
với những nàng xuân dịu dàng hát câu quan họ…,
thì mùa thu lại là mùa quyến rũ lòng người bởi nét đẹp của buổi chiều với sắc
lá vàng bay và hương vườn quen thuộc,
nhẹ nhàng, thướt tha, đằm thắm… Cùng với mùa xuân, mùa thu đã trở
thành đề tài truyền thống của thơ ca. Thu đi qua lăng kính tâm hồn người nghệ
sĩ và là món quà vô giá mà thiên nhiên ban tặng cho con người, là chất men để
lòng người đắm say mê mải. Khác với các thi nhân khi viết về mùa thu thường là
độ giữa thu hay cuối thu, nhà thơ Hữu Thỉnh góp một tiếng thu giao mùa. Truyền
thống và sáng tạo là sự kết hợp hài hoà trong thơ Hữu Chỉnh. Cùng đi với “Sang
thu”, ta sẽ thấy rõ điều đó.
Với tâm hồn tinh tế, nhạy cảm, Hữu
Thỉnh đã phát hiện ra những biến chuyển rất nhẹ nhàng của đất trời khi mùa thu
đến mà nếu như với những bộn bề công việc, người ta rất khó có thể nhận ra. Với
bài thơ “Sang thu” (1977), Hữu Thỉnh
đã góp vào nền thơ hiện đại Việt Nam một bức tranh thu với những mới mẻ, sáng
tạo, đầy ắp hơi thở của sự sống.
Khổ thơ thứ nhất là những dự cảm mùa thu đã về :
Bỗng
nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương
chùng chình qua ngõ
Hình
như thu đã về
Trong biết bao nhiêu hương vị thân thuộc của làng quê, Hữu
Thỉnh giật mình thảng thốt khi nhận ra cái làn hương ngây ngất ngọt ngào của
trái ổi đầu mùa. Hương ổi thân thương qua như chính mùi vị của vườn, làng quê
nơi đồng bằng bắc Bộ yêu thương hương ổi là tín hiệu đặc trưng của mùa thu.
Phải chăng lúc này đây thu đã sang ? Nhưng tại sao sứ giả của mùa thu trong thơ
Hữu Thỉnh lại là làn hương ngọt ngào của trái ổi đầu mùa mà không phải là hương
hoa thiên lí như trong bài thơ Nguyễn Bính Mùi hoa thiên lý thoảng hương đưa
(Chiều thu).
Hay hương cốm trong bài thơ “Đất nước”
Sáng
mát trong như sáng năm x ưa
Gió
thổi mùa thu hương cốm mới
Tôi nhớ những ngày thu đã
xa
(Nguyễn
Đình Thi)
Hương ổi có nét gì đặc biệt đến thế, phải chăng mùi hương ấy
là nét riêng của làng quê Bắc Bộ, phải chăng nó gọi về trong tâm trí tác giả
bao nhiêu kỉ niệm êm đềm cùng bạn bè treo cây hái ổi của một thời tuổi trẻ đã
qua ? Chẳng thế mà hương ổi không phải chỉ một lần xuất hiện trong thơ ông :
Hẹn
mùa thu ổi chín
Đón
mùa khô bước vào
(Hương
vườn)
Từ bỗng như được gieo lên trong niềm ngỡ ngàng ngạc nhiên.
Từ bao giờ nhỉ, thu về ? Tất cả đến với tác giả nhẹ nhàng, mà đột ngột quá, thu
về với đất trời quê hương, với lòng người mà không hề báo trước. Để rồi trong
phút giây ngỡ ngàng, nhà thơ mới chợt nhận ta hương ổi :
Phả vào
trong gió se
Động từ “phả” sử dụng trong câu thơ mang đầy ý nghĩa. Liệu
có thể thay thế từ ngữ ấy bằng một số từ khác như “thoảng, toả, lan…” thôi cũng đã mang lại cho hương ổi một sức mạnh vô
hình nào đó để có thể tràn ngập trong
không gian, có sức lan toả về mặt cảm xúc. Động từ “Phả” nhờ nghệ thuật ẩn dụ
chuyển đổi cảm giác đã đem đến cho bức tranh giao mùa một sức sống mạnh mẽ đến
kì lạ.
Hương ổi từ đó mà lan toả mãi trong
không gian và rồi được cuốn trong gió se là cơn gió heo may khô lạnh đầu mùa.
Gió se tràn về xua tan đi bao oi bức nóng nực của mùa hè, đem lại cho con người
cảm giác thoải mái dễ chịu.
Trong cái dư vị ngây ngất của
trái ổi đầu mùa, nhà thơ nhận thấy :
Sương
chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về
Hai câu thơ mang âm hưởng thật nhẹ nhàng. Màn sương qua từ
láy gợi hình “chùng chình” được nhân hoá như vẻ duyên dáng của nàng thiếu nữ
đôi mươi. Màn sương ấy hiện ra trong mờ mờ ảo ảo như sắc màu cổ tích khiến cho
cảnh vật nơi làng quê ngõ xóm trở thành một thế giới thần kì tuyệt diệu. Ta
cũng đã từng bắt gặp hình ảnh màn sương trong Đây mùa thu tới của nhà thơ Xuân Diệu :
Thỉnh
thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ
Non
xa khởi sự nhạt sương mờ …
Và câu thơ Hình như thu đã về đã kết lại dòng xúc cảm
bất ngờ đột ngột của nhà thơ. Tất cả những tín hiệu ở trên cuối cùng rồi cũng
đi đến một nghi vấn : thu đã về ? Từ “Hình như” diễn tả sự ngỡ ngàng thảng
thốt, thu đến với đất trời thật rồi sao ?
Từ điểm nhìn cận cảnh, cùng sự quan
sát tinh tế, cảm nhận dấu hiệu thiên nhiên bằng khiếu giác (hương ổi), xúc giác
(gió se) và thị giác (màn sương), nhà thơ Hữu Thỉnh đã chứng tỏ một hồn thơ
tinh tế nhạy cảm khi cẩm nhận tiết giao mùa nơi làng quê thanh bình.
Nếu
như khổ thơ thứ nhất là cảm xúc đột ngột, ngỡ ngàng khi nhận ra thu đang về với
đất trời thì đến khổ thơ thứ hai, nhà
thơ đã nhìn rộng hơn trong việc quan sát cảnh vật thiên nhiên :
Sông
đựoc lúc dềnh dàng
Chim
bắt đầu vội vã
Có
đám mây mùa hạ
Vắt
nữa mình sang thu
Từ khung cảnh chật hẹp nơi làng quê, nhà thơ đã dần hé mở
thêm cho không gian cả chiều cao, chiều rộng, lẫn chiều sâu. Đoạn thơ là bức
tranh thiên nhiên đất trời lúc sang thu.
Đầu tiên, nhà thơ quan sát sự vật ở tầng thấp :
Sông được lúc dềnh dàng
Chất
liệu thực ra thật rõ. Cái “dềnh dàng” của dòng sông là phút hiếm hoi sau lúc
gập ngềnh leo thác nhọc nhằn rồi lại ồ ạt xối xả dưới những cơn mưa rào mùa hạ.
Từ “đựơc lúc" diễn tả cái hiếm hoi thưa thớt.
Từ láy gợi hình “dềnh dàng” chỉ sự chuyển động chậm chạp. Đã
lâu lắm rồi con sông mới có dịp nghỉ ngơi thanh thản như thế.
Tuy nhiên, dòng sông trở nên chậm chạp hơn khi thu sang,
không không đồng nghĩa với sự vật nào cũng như vậy. Ta hãy đọc câu thơ tiếp
theo : Chim bắt đầu vội vã.
Cón gió heo may lãnh lẽo đầu mùa tràn
về khiến đàn chim phải bắt đầu vội vã bay về phương nam tránh rét. Phép đối và
nghệ thuật tương phản giữa hai câu thơ (dềnh dàng><vội vã) đã được tác
giả gửi gắm vào đó một triết lý : cuộc đời không có giây phút nào phẳng lặng êm
đềm, sự sống vẫn chuyển không ngừng, chính vì thế con người phải biết cách
chuẩn bị đầy đủ để ứng phó và theo kịp mạch chảy của dòng đời.
Và ở hai câu thơ tiếp theo, không gian
đất trời lại tiếp tục được mở thêm một tầng mới :
Có đám mây mùa hạ
Vắt
nửa mình sang thu
Đám mây mùa hạ là hình ảnh độc đáo, thể hiện trí liên tưởng phong phú của
tác giả. Dường như đám mây mùa thu còn vương nắng hạ nên nhà thơ mới có liên
tưởng sáng tạo đến thế.
Trong khoảnh khắc giao mùa, đám mây trên bầu trời cao đã trở
thành ranh giới giữa mùa hạ với mùa thu. Từ “vắt ” mang hiệu quả diễn đạt rất
lớn. Nó làm cho đám mây kia có khả năng nối liền giửa hai mùa thiên nhiên hay
nói đúng hơn là mùa hạ và mùa thu đang chênh vênh giữa một đám mây. Từ cái giây
phút giao mùa vô hình trừu tượng, tác giả đã biến thành sự vật hữu hình cụ thể
để người đọc cảm nhận rõ hơn về tín hiệu
của mùa thu.
Trong bài thơ “Chiều sông thương", Hữu Thỉnh cũng đã có
những ý thơ tưong tự :
Đám
mây trên Việt Yên
Rủ bóng
về bố hạ
Cùng
viết về mùa thu ở làng quê, Nguyễn Khuyến – nhà thơ của quê hương làng cảnh
Việt Nam cũng đã từng viết :
Sóng
biếc theo làn hơi gợn tí
Lá
vàng trước gió khẽ đưa vèo
Tầng
mây lơ lững trời xanh ngắt
Ngõ
trúc quanh co khách vắng teo
(Thu điếu)
Có lẽ cũng như Nguyễn Khuyến, mùa thu và làn quê như một
phần máu thịt trong con người Hữu Thỉnh. Ông đã viết rất nhiều về mùa thu :
Đi suốt cả ngày thu
Vẫn
chưa về tới ngõ
Dùng dằng câu quan họ
Chiều
tím bờ sông thưong
(Chiều sông thương)
Ta hãy đọc khổ thơ cuối cùng :
Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã
vơi dần cơn mưa
Sấm
cũng bớt bất ngờ
Trên
hàng cây đứng tuổi
Nắng cuối hạ vẫn còn nhưng độ nóng, độ chói không còn gay
gắt. Cơn mưa nhẹ hạt hơn so với trận mưa rào xối xả những ngày hè đã qua. Sấm
bất thình lình nổi trận lôi đình, hàng cây như già dặn hơn.
Đó là những gì mà nhà thơ Hữu Thỉnh cảm nhận được về các
hiện tượng thiên nhiên khi thu sang.
Nhưng “nắng, mưa, sấm” làm sao có thế cân, đo ấy thế mà Hữu
Thỉnh với các từ ngữ “Vẫn còn bao nhiêu, vơi, bớt” mang tính chất giảm nghĩa,
nhà thơ đã biến chúng thành các vật có trọng lượng thực sự để đối chiếu so sánh
với mùa hè.
Từ sự hiện thực quan sát thiên nhiên ta có thể phát hiện ra
đựoc một triết lí mà nhà thơ muốn gửi gắm. "Nắng, mưa, sấm" là những
hình ảnh ẩn dụ cho sự khắc nghiệt và biến chuyển của cuộc đời, "hàng cây
đứng tuổi” chỉ những con người từng trải. Cả đoạn mang ý nghĩa : con người từng
trải luôn vững vàng trước những biến đổi cuộc đời. Phải chăng nhà thơ đang gợi
chúng ta nhớ về truyền thống cao đẹp của người dân Việt nam và những trải
nghiệm ở đời qua thử thách, qua hai cuộc kháng chiến thần thánh chống Pháp và chống Mĩ của dân
tộc, đó là hành trang để thế hệ trẻ hôm nay bước vào đời.
Đọc Sang thu, ta không chỉ cảm nhận được những khoảnh khắc giao mùa
tuyệt vời của mùa thu nơi làng quê Bắc Bộ mà còn thấy được tâm hồn tinh tế nhạy
cảm, tấm lòng yêu thiên nhiên cùng biết bao học triết lí, kinh nghiệm sâu sa ;
chúng ta ở đời đâu phải luôn chủ động và tự tin để có thể vượt qua mọi thử
thách, sóng gió của cuộc đời Sang thu
của Hữu Thỉnh không còn tính chất cổ điển, ước lệ tượng trưng như thơ Nguyễn
Khuyến, Xuân Diệu mà sẽ sống mãi trong
lòng người đọc với những nét mới mẻ sáng tạo của một tiếng thu đầy ắp hơi sự
sống.