Có những tác phẩm đọc xong, gấp sách lại là ta
quên ngay, cho đến lúc xem lại ta mới chợt nhớ là mình đã đọc rồi. Nhưng cũng
có những cuốn sách như dòng sông chảy qua tâm hồn ta để lại những ấn tượng chạm
khắc trong tâm khảm.“Bài thơ về tiểu đội xe không kính” là một tác phẩm như
thế.
Bài thơ đã sáng tạo một hình ảnh độc đáo: những
chiếc xe không kính, qua đó làm nổi bật hình ảnh những người lính lái xe ở
tuyến Trường Sơn với tư thế hiên ngang ,
dũng cảm, trẻ trung, sôi nổi :
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật , bom rung kính vỡ đi rồi
Ung dung buồng lái ta ngồi,
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa như ùa vào buồng lái
Hình ảnh những chiếc xe trần trụi, xây xước , móp
méo, không kính, không đèn mà vẫn băng băng trên đường ra tiền tuyến, chở quân
, chở súng đạn , lương thực hướng về miền Nam là hình ảnh thực và thường gặp
trong những năm tháng chống Mĩ gian lao và hào hùng . Hình ảnh những chiếc xe không
kính được miêu tả cụ thể, chi tiết rất thực.
Lẽ thường, để đảm bảo an toàn cho tính mạng con người, cho hàng hoá nhất là
trong địa hình hiểm trở Trường Sơn thì xe phải có kính mới đúng. Ấy thế mà
chuyện “xe không kính” lại là môt thực tế, những chiếc xe “không kính” rồi
“không đèn”, “không mui” ấy vẫn chạy băng ra tiền tuyến. Hình ảnh ấy, lần đầu
tiên và cũng là duy nhất cho đến nay khơi dậy cảm hứng thơ của Phạm Tiến Duật.
Không có
kính không phải vì xe không có kính
Bom giật , bom rung kính vỡ đi rồi
Lời thơ tự nhiên đến mức buộc người ta phải tin
ngay vào sự phân bua của các chàng trai lái xe dũng cảm. Thật ra có thể nói một
cách đơn giản : Xe không có kính vì bom giật , bom rung . Nhưng nhà thơ lại
chọn cách nói như là muốn tranh cãi với ai . Gịong điệu ngang tàng, lí sự với
cấu trúc không có...không phải vì không có...Giọng này phù hợp với tính cách
ngang tàng dũng cảm , đầy nghị lực, tính tếu nhộn của những lái xe Trường Sơn .
Cách giải thích này cũng gợi lên cái ác liệt của chiến tranh , người lính luôn
cận kề với hiểm nguy , với cái chết nhưng coi đó như chuyện bình thường.Chất
thơ của câu thơ này hiện ra chính trong vẻ tự nhiên đến mức khó ngờ của ngôn
từ. Câu thơ rất gần với văn xuôi lại có giọng thản nhiên, ngang tàng trong đó
ngày càng gây ra sự chú ý về vẻ đẹp khác lạ của nó. Hình ảnh “bom giật, bom
rung” vừa giúp ta hình dung được một vùng đất từng được mệnh danh là “túi bom”
của dịch vừa giúp ta thấy được sự khốc liệt của chiến tranh và đó chính là
nguyên nhân để những chiếc xe vận tải không có kính. Bom đạn ác liệt của chiến
tranh đã tàn phá làm những chiếc xe ban đầu vốn tốt, mới trở thành hư hỏng.
Không tô vẽ, không cường điệu mà tả thực, nhưng chính cái thực đã làm người suy
nghĩ, hình dung mức độ ác liệt của chiến tranh, bom đạn giặc Mỹ.
Mục
đích miêu tả những chiếc xe không kính là nhằm ca ngợi những chiến sĩ lái xe
Trường Sơn – chủ nhân những chiếc xe không kính. Những người lính lái xe điều
khiển những chiếc xe không kính kì lạ trong tư thế ung dung, hiên ngang , bình tĩnh, tự tin.
Đó là những con người trẻ trung, tư thế ung dung, coi thường gian khổ,
hy sinh. Trong buồng lái không kính chắn gió, họ có cảm giác mạnh mẽ khi phải
đối mặt trực tiếp với thiên nhiên bên ngoài. Những cảm giác ấy được nhà thơ ghi
nhận tinh tế sống động qua những hình ảnh thơ nhân hoá, so sánh và điệp ngữ :
Ung
dung buồng lái ta ngồi
Nhìn
đất, nhìn trời, nhìn thẳng.
Nhìn
thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy
sao trời và đột ngột cánh chim
Như
sa như ùa vào buồng lái.
Những câu
thơ tả thực, chính xác đến từng chi tiết. Không có kính chắn gió, bảo hiểm, xe
lại chạy nhanh nên người lái phải đối mặt với bao khó khăn nguy hiểm: nào là
“:gió vào xoa mắt đắng”, nào là “con đường chạy thẳng vào tim”, rồi “sao trời”,
rồi “cánh chim” đột ngột, bất ngờ như sa, như ùa- rơi rụng, va đập, quăng ném....
vào buồng lái, vào mặt mũi, thân mình. Dường như chính nhà thơ cũng đang cầm
lái, hay ngồi trong buồng lái của những chiếc xe không kính nên câu chữ mới
sinh động và cụ thể, đầy ấn tượng, gợi cảm giác chân thực đến thế. Những câu
thơ nhịp điệu nhanh mà vẫn nhịp nhàng đều đặn khiến người đọc liên tưởng đến
nhịp bánh xe trên đường ra trận. Cảm giác, ấn tượng căng thẳng, đầy thử thách. Song người
chiến sĩ không run sợ, hoảng hốt, trái lại tư thế các anh vấn hiên ngang, tinh
thần các anh vẫn vững vàng.... “ung dung.... nhìn thẳng. Hai câu thơ “ung
dung.... thẳng” đã nhấn mạnh tư thế ngồi lái tuyệt đẹp của người chiến sĩ trên
những chiếc xe không kính. Đảo ngữ “ung dung” với điệp từ “nhìn” cho ta thấy
cái tư thế ung dung, thong thả, khoan thai, bình tĩnh, tự tin của người làm
chủ, chiến thắng hoàn cảnh. Bầu không khí căng thẳng với “Bom giật, bom rung”,
vậy mà họ vẫn nhìn thẳng, cái nhìn hướng về phía trước của một con người luôn
coi thường hiểm nguy. Nhịp thơ 2/2/2 với những dấu phẩy ngắt khiến âm điệu câu
thơ trở nên chậm rãi, như diễn tả thái độ thản nhiên đàng hoàng. Với tư thế ấy,
họ đã biến những nguy hiểm trở ngại trên đường thành niềm vui thích. Chỉ có
những người lính lái xe với kinh nghiệm chiến trường dày dạn, từng trải mới có
được thái độ, tư thế như vậy.
Tác giả đã diễn tả một cách cụ thể và gợi cảm
những ấn tượng, cảm giác của người lái xe trên chiếc xe không kính. Với tư thế
“nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng” Các anh nhìn thấy từ
"gió","con đường" đến cả "sao trời", "cánh
chim". Thế giới bên ngoài ùa vào buồng lái với tốc độ chóng mặt tạo những
cảm giác đột ngột cho người lái. Hình ảnh "những cánh chim sa, ùa vào
buồng lái" thật sinh động, gợi cảm.Điệp từ “nhìn” có tác dụng khẳng định tư thế , thái độ của ngời
lính..Qua khung cửa xe không còn kính chắn gió, người lính lái xe tiếp xúc trực
tiếp với thế giới bên ngoài “nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng-Nhìn thấy con đường
chạy thẳng vào tim” . Câu thơ diễn tả được cảm giác về tốc độ trên chiếc xe
đang lao nhanh không có kính chắn gió nên mới thấy đắng mắt, cay mắt, khi gió
thổi thốc vào mặt . Qua khung cửa đã không có kính, không chỉ mặt đất mà cả bầu
trời với sao trời, cánh chim cũng như ùa vào buồng lái. Nhà thơ diễn tả chính
xác các cảm giác mạnh và đột ngột của người ngồi trong buồng lái, khiến người đọc
có thể hình dung được rõ ràng những ấn tượng, cảm giác ấy như chính mình đang ở
trên chiếc xe không kính . Hình ảnh "con đường chạy thẳng vào tim"
gợi liên tưởng về con đường ra mặt trận, con đường chiến đấu, con đường cách
mạng.
Vậy đấy, hai khổ thơ tả thực
những khó khăn gian khổ mà những người chiến sĩ lái xe Trường Sơn đã trải qua. Trong khó khăn, các anh vẫn ung dung,
hiên ngang bình tĩnh nêu cao tinh thần trách nhiệm, quyết tâm gan góc chuyển
hàng ra tiền tuyến. Không có kính chắn gió, bảo hiểm, đoàn xe vẫn lăn bánh bình
thường. Lời thơ nhẹ nhõm, trôi chảy như những chiếc xe vun vút chạy trên đường.
Người lái xe trong bài thơ là những người chiến sĩ
trẻ trung. Các anh rất trẻ trung, hồn nhiên, tâm hồn gần gũi với thiên nhiên.
Khó khăn gian khổ các anh coi thường. Xe hư hỏng không có kính, không có đèn,
không có mui xe, thùng xe có xước, nhưng xe vẫn chạy vì Miền Nam phía trước.
Tất cả vì tiền tuyến, vì mặt trận, đó là khẩu hiệu của họ. Và những chiếc xe
mang đầy thương tích vẫn lăn bánh ra mặt trận. Có thể nói những người lái xe,
người làm chủ phương tiện là yếu tố quyết định làm nên thắng lợi trên mặt trận
vận tải và cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước.