Nếu
biển khơi có sóng nổ sóng chìm khi dịu êm lặng lẽ lúc cuộn sóng trào dâng thì
cuộc đời cũng có bao tình huống bất ngờ xảy ra,nhất là trong hoàn cảnh chiến
tranh ác liệt để thử thách tình cảm con người.Truyện ngắn “Chiếc Lược Ngà” (1966)
của Nguyễn Quang Sáng cũng được xây dựng nên từ một tình huống éo le như thế để
khắc sâu tình cha con thiêng liêng sâu nặng.Vang vọng suốt câu chuyện, suốt
những quãng đời, suốt những cuộc đời ấy chỉ là một tiếng kêu, một tiếng kêu
bình dị và thiêng liêng nhất trong cuộc đời mỗt con người: “Ba”
Truyện xoay quanh một kỉ vật đơn sơ mà
vô giá ấy là chiếc lược ngà. Nhưng suốt cả câu chuyện, suốt những quãng đời,
suốt cả cuộc đời ấy chỉ có một tiếng kêu, một tiếng kêu bình dị và thiêng liêng
bậc nhất cõi đời này: tiếng cha!. Câu chuyện “Chiếc lược ngà” đã kể lại thật
cảm động về cuộc gặp gỡ và những tình cảm của cha con ông Sáu. Hình ảnh ông Sáu
đã để lại trong lòng người đọc nỗi cảm thông, yêu mến và những ấn tượng sâu
sắc.
Cũng
như bao người khác ông Sáu đi theo tiếng gọi của quê hương đã lên đường chiến
đấu, để lại người vợ và đứa con thân yêu. Sự xa cách càng làm dâng lên trong ông
nỗi nhớ nhung tha thiết đứa con gái mà khi ông đi nó chưa đầy một tuổi. Nỗi nhớ
ấy đã trở thành niềm khao khát, mơ ước cháy bỏng trong lòng ông. Chính vì vậy
mỗi lần vợ lên thăm là một lần ông hỏi “Sao không cho con bé lên cùng ?’’.
Không gặp được con ông đành ngắm con qua ảnh vậy … Mặc dầu tấm ảnh đó đã rách
nát, cũ kĩ lắm rồi, nhưng ông luôn giữ gìn nó vô cùng cẩn thận, coi nó như một
báu vật. Và tám năm trời là những năm tháng dài đằng đẳng ấy cũng làm tăng lên
trong lòng ông Sáu nỗi nhớ nhung, mong chờ, ông Sáu ao ước gặp con.Thế rồi niềm
ao ước ấy đã trở thành hiện thực. Ông Sáu được nghỉ phép. Ngày về thăm con,
trên xuồng mà ông Sáu cứ nôn nao cả người. Ông đang nghĩ tới đứa con, nghĩ tới
giây phút hai cha con gặp nhau như thế nào. Những điều ấy choáng hết tâm trí
khiến ông không còn biết mình đang ngồi trên xuồng với người bạn. Khi xuồng vừa
cập bến, ông Sáu đã nhón chân nhảy thót lên bờ, ông dang hai tay chờ đó con và
sải những bước dài đến gần con. Tưởng rằng con bé sẽ chạy tới nhào vào lòng ông
nhưng không ngờ bỗng nó hét lên “má…má” và bỏ chạy. Tại sao Thu lại có những
hành động như vậy ? Nó yêu ba nó lắm cơ mà ? Nó mong ba về từng ngày từng giờ.
Vậy mà tất cả đều lật ngược với nó. Ba nó thật đây, sao nó không nhận ? Hành
động của con bé khiến ông sững sờ. Bao yêu thương, mong chờ mà ông dồn nén bấy
lâu dường như tan biến hết chỉ còn lại trong ông là nỗi đau khổ vô bờ.
Nỗi đau ấy còn dày
vò ông trong suốt ba ngày ở nhà. Ba ngày ở nhà ông Sáu không đi đâu xa mà chỉ
quanh quẩn ở nhà chơi với con. Ông muốn dùng lời nói, hành động của mình để bù
đắp những mất mát về tình cảm cho con bé. Dường như ông muốn bằng những cử chỉ
và lời nói yêu thương tràn đầy âu yếm, ông sẽ xoa dịu đi những nghi ngờ, xoá
tan những lạnh lùng của con bé đối với ông. Ông muốn ôm con mà nói rằng: “Ba
yêu con nhiều lắm Thu à!” và có lẽ chắc ông cũng mong đứa con gái của mình có
thể chạy sà vào lòng mà rằng “Con cũng yêu bố nhiều lắm ạ!” thế nhưng không…
những gì ông từng mơ ước, từng suy nghĩ, giờ chỉ như giấc mơ không thật bởi
chính thái độ của Thu đối với ba nó. Thu cương quyết không nhận ông Sáu là cha
mặc dù anh đã tìm mọi cách để gần gũi,vỗ về cô bé. Có những lúc, lâm vào thế
bí, nó cũng chỉ nói trổng: “Vô ăn cơm”, “cơm sôi rồi,chắt nước giùm cái” , “cơm
sôi rồi, nhão bây giờ”... Điều ấy làm cho người cha, người bạn của cha và cả
người đọc phải đau lòng. Còn gì đau khổ bằng người cha giàu lòng thương yêu con
mà lại bị chính đứa con ấy chối bỏ!
Dưòng như sự lạnh
lùng và bướng bỉnh của bé Thu đã làm tổn thương những tình cảm đang trào dâng
tha thiết nhất trong lòng ông. Vì quá yêu thương con nên ông Sáu không cầm nổi
cảm xúc của mình. Trong bữa cơm, cưng con, ông gắp cho nó cái trứng cá nhưng
bất ngờ nó hất tung cái trứng ra khỏi chén cơm. Giận quá, ông đã vung tay đánh
và quát nó. Có lẽ việc đánh con bé là nằm ngoài những mong muốn của ông. Tất cả
cũng chỉ là do ông quá yêu thương con. Có thể coi việc bé Thu hết cái trứng ra
khỏi chén như một ngoài nổ làm bùng lên những tình cảm mà lâu nay ông dồn nén
và chất chứa trong lòng. Song sự ương ngạnh, bướng bỉnh của Thu không hoàn toàn
đáng trách bởi em còn quá nhỏ để hiểu được sự éo le, khắc nghiệt trong hoàn
cảnh xa cách của chiến tranh và những người lớn trong gia đình cũng chưa kịp
chuẩn bị cho em đón nhận những khả năng bất thường đó. Em không nhận ông Sáu là
cha vì ông có vết thẹo dài trên má không giống bức hình chụp chung với má mà em
biết. Điều đó chứng tỏ tình cảm của Thu dành cho ba thật sâu sắc.- Em chỉ bộc
lộ tình yêu sâu sắc của mình với ba khi biết chắc đó là ba .
Lúc ra đi, chân ông
ngập ngừng không muốn bứơc. Hẳn rằng ông Sáu muốn ôm con, hôn con nhưng sợ nó
lại giẫy đạp và bỏ chạy nên ông chỉ đứng đấy nhìn nó với cặp mắt trìu mến xen
lẫn buồn rầu. Trong ánh mắt của ông, chất chứa bao yêu thưong mà ông muốn trao
gởi tới con . “Thôi ba đi nghe con”. Rồi bỗng nó chạy đến kêu thất thanh
“Ba…a….a…ba!”. Tiếng kêu như tiếng xé, xé sự im lặng và xé cả ruột gan mọi
người, nghe thật xót xa. Tiếng kêu bật lên sau bao năm kìm nén, chờ đợi khắc
khoải. Đó cũng là cái tiếng ba mà ông Sáu đã chờ đợi suốt tám năm trời xa con,
đã chờ đợi suốt mấy ngày về bên con, ông đã tưởng chẳng thể còn được nghe thì
bất ngờ nó thét lên. Nó vỡ ra còn lòng người đọc thì nghẹn lại. Người cha không
cầm nổi nước mắt vì bất ngờ, vì sung sướng, vì thương yêu và vì cả sự éo le của
tình cảm nữa. Giọt nước mắt của ông là giọt nước mắt của vui sướng, hạnh phúc.
Và không muốn cho con thấy mình khóc, ông Sáu một tay ôm con một tay rút khăn
lau nước mắt rồi hôn lên mái tóc con…Thế là con bé đã gọi ông bằng ba. Ai có
thể ngờ được một người lính đã dày đạn nơi chiến trường và quen với cái chết
cận kề lại là người vô cùng mềm yểu trong tình cảm cha con. Sau bao năm tháng
mong chờ, đau khổ, ông Sáu đã được đón nhận một niềm vui vô bờ. Bây giờ ông có
thể ra đi với một yên tâm lớn rằng ở quê nhà có một đứa con gái thân yêu luôn
chờ đợi ông, từng giây từng phút mong ông quay về.
Tình cảm của ông
Sáu dành cho bé Thu trở nên mãnh liệt hơn, cao cả, thiêng liêng và cảm động hơn
bao giờ hết là việc ông tự tay làm chiếc lược ngà cho con gái. “Ba về! Ba mua
cho con một cái lược nghe ba!”, đó là mong ước đơn sơ của đứa con gái bé bỏng
trong giây phút cha con từ biệt. Nhưng đối với người cha ấy, đó là mong ước đầu
tiên và cũng là duy nhất cho nên nó cứ thôi thúc trong lòng. Kiếm cho con cây
lược trở thành bổn phận của người cha, thành tiếng gọi cầu khẩn của tình phụ tử
trong lòng. Ông bật dậy như bỗng loé lên một sáng kiến lớn: làm lược cho con
bằng ngà voi. Có lẽ không đơn thuần vì ở rừng rú chiến khu, ông không thể mua
được cây lược nên làm lược từ ngà voi là một cách khắc phục khó khăn. Mà cao
hơn thế, sâu hơn thế, ngà voi là thứ quí hiếm - chiếc lược cho con của ông phải
được làm bằng thứ quý gí ấy. Và ông không muốn mua, mà muốn tự tay mình làm ra.
Ông sẽ đặt và trong đấy tất cả tình cha con của mình. Kiếm được ngà voi, mặt ông
“hớn hở như một đứa trẻ được quà”. Vậy đấy, khi người ta hoá thành con trẻ lại
chính là lúc người ta đang hiện lên cái tư cách người cha cao quý của mình. Rồi
ông “ngồi cưa từng chiếc răng lược, thận trọng tỉ mỉ và khổ công như người thợ bạc
”, “gò lưng tẩn mẩn khắc từng chữ: “Yêu nhớ tặng Thu con của ba”. Ông thường
xuyên “lấy cây lược ra ngắm nghía rồi mài lên tóc cho cây lược thêm bóng thêm
mượt”. Lòng yêu con đã biến người chiến sĩ trở thành một nghệ nhân - nghệ nhân
chỉ sáng tạo ra một tác phẩm duy nhất trong đời cho nên chiếc lược ngà đã kết
tinh trong nó tình phụ tử mộc mạc mà đằm thắm sâu xa, đơn sơ mà kỳ diệu làm
sao!
Nhưng ngày ấy đã
vĩnh viễn không bao giờ đến nữa. Ông không kịp đưa chiếc lược ngà đến tận tay
cho con thì người cha ấy đã hi sinh trong một trận đánh lớn của giặc. Nhưng
“hình như chỉ có tình cha con là không thể chết được”. Không còn đủ sức trăn
trối điều gì, tất cả tàn lực cuối cùng chỉ còn cho ông làm được một việc “đưa
tay vào túi, móc cây lược” đưa cho người bạn chiến đấu thân thiết và cứ nhìn
bạn hồi lâu. Nhưng đó là điều trăn trối không lời, nó rõ ràng là thiêng liêng
hơn cả một lời di chúc, bởi đó là sự uỷ thác, là ước nguyện cuối cùng của người
bạn thân, ước nguyện của tình phụ tử! Bắt đầu từ giây phút ấy, chiếc lược ngà
của tình phụ tử đã biến người đồng đội thành một người cha - người cha thứ hai
của cô bé Thu.
Tuy anh Sáu đã hi
sinh nhưng câu chuyện về hai cha con anh sẽ còn sống mãi. Hình ảnh chiếc lược
ngà với dòng chữ sẽ mãi là kỉ vật, là nhân chứng về nỗi đau, bi kịch của chiến
tranh. Cảm ơn nhà văn Nguyễn Quang Sáng đã khắc hoạ rõ nét tâm hồn, tình cảm
của anh Sáu và bé Thu. Truyện dẫn người đọc dõi theo số phận và lòng quả cảm,
dõi theo tâm tình của cha con một người chiến sĩ diễn ra hàng chục năm trời đi
qua hai cuộc chiến tranh. Người còn, người mất nhưng kỉ vật, gạch nối giữa cái
mất mát và sự tồn tại của chiếc lược ngà vẫn còn đây. Đây là minh chứng đối với
chúng ta “cái mất mát lớn nhất mà thiên truyện ngắn đề cập đến là người đã
khuất, là tổ ấm gia đình không còn tồn tại trọn vẹn trong thực tại. Đó là tội
ác, là những đau thương, mất mát của chiến tranh xâm lược mà các thế hệ bạo tàn
gây ra cho chúng ta.
Chiến tranh là
hiện thực đau xót của nhân loại,nhưng từ chính trong gian khổ khốc liệt,có
những thứ tình cảm đẹp vẫn nảy nở: tình đồng chí,tình yêu đôi lứa,tình cảm gia
đình,và cả tình của một người cha với con gái.Truyện ngắn “Chiếc lược ngà” là
một áng văn bất hủ ca ngợi tình phụ tử giản dị mà thiêng liêng,với những con
người giàu tình cảm và đẹp đẽ. Qua cuộc đời nhân vật, từ cô bé Thu đến ông Sáu,
ông Ba, Nguyễn Quang Sáng như muốn nói rẳng trong cuộc kháng chiến gian khổ
chống ngoại xâm vừa qua của dân tộc ta, tình nghĩa con người Việt Nam, nhất là
tình cha con, đồng đội, sự gắn bó thế hệ già với thế hệ trẻ, người chết và
người sống… mãi mãi bất diệt. Như chiếc lược ngà ba tặng lại không bao giờ có
thể mất, tình cha con của bé Thu cũng sẽ mãi mãi bất diệt!