Bài thơ Đồng chí, Chính Hữu sáng tác vào đầu
năm 1948. Được xếp vào hàng những bài thơ tiêu biểu nhất, thành công nhất của
thơ ca Việt Nam những ngày đầu chống thực dân Pháp. Bài thơ đã khắc hoạ thành
công hình ảnh chân thực giản dị mà cao đẹp của anh bộ đội cụ Hồ trong những năm
hết sức khó khăn gian khổ của cuộc kháng chiến. Và điều đặc biệt là Đồng chí đã
nói một cách rất giản dị mà sâu sắc về tình đồng chí, đồng đội thắm thiết của những người lính vốn xuất thân từ nông
dân. Một chủ đề hết sức mới mẻ của thi ca lúc bấy giờ. Đoạn thơ sau đây là sự thể hiện cụ thể tình
đồng chí - tình người cao đẹp ấy :
...
Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Căn
nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng
nước gốc đa nhớ người ra lính
Anh
với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt
run người vừng trán ướt mồ hôi
Áo
anh rách vai
Quần
tôi có nhiều mảnh vá
Miệng
cười buốt giá
Chân
không giày
Thương
nhau tay nắm lấy bàn tay.
Có lẽ từ đồng chí xuất hiện phổ biến
ở nước ta từ khi phong trào chống thực dân Pháp do giai cấp vô sản lãnh
đạo.Nghĩa của từ đồng chí, theo Từ điển
tiếng Việt giải thích là Người cùng chí
hướng chính trị, trong quan hệ với nhau. Nhưng ở bài Đồng chí, dường như mối quan
hệ giữa "anh" và "tôi" không khô khan, không mang sắc thái lý trí như cách hiểu
trên. Ở đây, tình người sâu nặng chính là hạt nhân của tình đồng chí. Đồng chí
đó là sự cảm thông sâu xa những tâm tư, nỗi lòng thầm kín của nhau:
... Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Căn
nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng
nước gốc đa nhớ người ra lính.
Đó
là tình tri kỷ, hiểu bạn như hiểu mình và còn vì mình là người trong cuộc,
người cùng cảnh ngộ. Với người nông dân, ruộng nương, căn nhà là cả cơ nghiệp,
là ước mơ ngàn đời của họ; họ luôn gắn bó, giữ gìn và chắt bóp cho những gì
mình có. Vậy mà họ đã gác lại tất cả để ra đi đánh giặc. Lời thơ như là lời tâm
sự, tâm tình, "tôi" không nói về quê hương và hoàn cảnh riêng của
"tôi" mà nói với "anh" về quê "anh" về gia đình
"anh". Là đồng đội, là "đôi tri kỷ", "tôi" biết
"anh" ra đi để lại sau lưng mình biết bao sự níu kéo : ruộng nương
phải gửi bạn, nhà cửa mặc kệ gió lay, và biết bao người thân chờ mong thương
nhớ. Câu thơ “Gian nhà không, mặc kệ gió
lung lay” hết sức tạo hình và biểu cảm. Để cả cơ nghiệp của mình hoang trống mà
ra đi biết người thân ở lại trống trải nhưng cũng “mặc kệ” thì đó quả là sự hy
sinh lớn lao và đó cũng là quyết ra đi mà không dửng dưng vô tình. Các anh hiểu
rõ lòng nhau và còn hiểu rõ nỗi niềm người thân của nhau ở hậu phương: “Giếng
nước gốc đa nhớ người ra lính”, “Giếng nước”, “gốc đa” là hình ảnh hoán dụ gợi
về quê hương, về người thân nơi hậu phương của người lính. Như vậy, câu thơ nói
quê hương nhớ người lính mà thực chất là người lính nhớ nhà, nỗi nhớ hai chiều
ngày càng da diết. Vậy là người lính đã chia sẻ với nhau mọi tâm tư, nỗi niềm,
chia sẻ cả những chuyện thầm kín, riêng tư nhất. Họ cùng sống với nhau trong kỷ
niệm, trong nỗi nhớ và vượt lên trên nỗi nhớ.Như vậy, trước khi trở thành đồng
chí thực sự, họ đã có sự đồng cảm sâu sắc; trước khi hợp tác với nhau họ đã rất
hiểu về nhau. Hiểu nhau là biểu hiện đầu tiên của tình người.
Và
những người lính cách mạng càng hiểu nhau nhau hơn, gắn bó với nhau hơn bởi
trong những tháng ngày bên nhau chiến đấu họ cùng nếm trải biết bao gian nan,
vất vả. Cái vất vả đối với cuộc đời chiến trận thì không bao giờ hiếm.
Đó là chuyện ốm đau, bệnh tật :
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt
run người vừng trán ướt mồ hôi
Đó là sự thiếu thốn về những trang
phục tối thiểu :
Áo
anh rách vai
Quần
tôi có nhiều mảnh vá
Miệng
cười buốt giá
Chân
không giày
Người
ta nói thơ Chính Hữu cô đọng hàm xúc. Đây là những ví dụ thật sinh động. Những
hình ảnh thơ được đưa ra rất chân thực nhưng cô đọng và gợi cảm biết bao. Chỉ
cần mấy câu ngắn nhưng hình ảnh anh bộ đội thời chống Pháp hiện lên tất cả. Dường như ai cũng phải trải
qua những trận sốt rét khủng khiếp, thuốc thang thì thiếu thốn. Rồi các anh
"vệ túm" quần áo vá, chân đất lội suối trèo non. Chỉ có điều sự thiếu
thốn giảm đi rất nhiều, và con người có thể vượt qua tất cả bởi vì giữa những
người đồng chí có cái ấm áp của tình người. Cái tình được bồi đắp từ cuộc sống
đồng cam cộng khổ. "Áo anh", "quần tôi", phép đối được sử
dụng không phải cho sự đối lập mà nhấn mạnh về cái hoà đồng muôn người như một
trong hàng ngũ những người lính cách mạng. Tác giả đã xây dựng những cặp câu
sóng đôi, đối ứng nhau (trong từng cặp câu và từng câu). Đáng chú ý là người
lính bao giờ cũng nhìn bạn, nói về bạn trước khi nói về mình, chữ “anh” bao giờ
cũng xuất hiện trước chữ “tôi”. Cách nói ấy phải chăng thể hiện nét đẹp trong
tình cảm thương người như thể thương thân, trọng người hơn trọng mình. Chính
tình đồng đội đội làm ấm lòng những người lính để họ vẫn cười trong buốt giá và
vượt lên trên buốt giá. Chỉ có nơi nào gian khó chia chung như vậy, mới tìm
thấy cái thực sự của tình người.
Có lẽ nói được cái cốt lõi, cái điều
sâu thẳm nhất của tình đồng chí cách mạng - tình người cao đẹp là câu thơ :
Thương nhau
tay nắm lấy bàn tay
Một nửa câu nói về chất keo sơn gắn bó con
người : thương nhau, nửa kia là hành động cụ thể : tay nắm lấy bàn tay. Không
lời nói hoa mỹ, không lý lẽ, giải trình, chỉ có tình thương yêu giữa những
người đồng đội mới là sự liên kết chặt chẽ nhất cho tình đồng chí cách mạng. Họ
quên mình đi để động viên nhau, truyền cho nhau hơi ấm: “Thương nhau tay nắm
lấy bàn tay”. Đây là một cử chỉ rất cảm động chứa chan tình cảm chân thành. Nó
không phải cái bắt tay thông thường mà là hai bàn tay tự tìm đến với nhau
truyền cho nhau hơi ấm để vượt lên buốt giá, những bàn tay như biết nói. Và đó
không phải sự gắn bó bất chợt mà là sự gắn bó trong chiến đấu, đồng cam cộng
khổ khiến tình đồng chí thêm sâu dày để đi tới chiều cao: cùng sống chết cho lý
tưởng. Trong suốt cuộc kháng chiến trường kỳ đầy gian lao vất vả ấy, tình cảm
đồng chí đã đi vào chiều sâu của sự sống và tâm hồn người chiến sĩ để trở thành
những kỷ niệm không bao giờ quên. Câu thơ không chỉ nói lên tình cảm gắn bó sâu
nặng của những người lính mà còn thể hiện sức mạnh của tình cảm ấy.
Hình ảnh những bàn tay nắm lấy nhau chặt chẽ
kia nói lên tất cả. Đó là sức mạnh vô địch mà kẻ thù phải khiếp sợ, đó là cái
tình người thực tế nhất, đẹp đẽ nhất, đáng quí nhất của quân đội ta.
Bài
thơ “Đồng chí” không rực rỡ chiến công mà rực rỡ tình đồng đội ấm nồng khiến họ
có thể sống và làm nên bao chiến công hiển hách.