Thật
đúng như nhà văn I-li-a Ê-ran-bua nói: “Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu đồng
quê trở nên lòng yêu Tổ quốc”. Quả thật, ông Hai trong truyện ngắn “Làng” là
hình ảnh đẹp của những người nông dân bình thường nhưng giàu lòng yêu nước
trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp trước đây (1946-1954). Ông Hai là
hình tượng người nông dân trong cuộc kháng chiến chống Pháp với những tình cảm
chân thực và thắm đượm tình yêu quê hương, đất nước. Và từ khi được học tác phẩm
“Làng” tôi thường mơ ước được gặp ông để tìm hiểu rõ hơn điều gì đã xảy ra với
ông. Điều đó đã thành sự thật cách nay chưa lâu. Tôi không thể quên được giây
phút phút đó.
Không
gian mờ ảo đưa tôi đi. Khi tôi mở mắt ra thì thấy mình ở trong một ngôi làng
trung du nhỏ. Cái làng này chỉ có chừng vài mươi nóc nhà. Tôi mơ màng đi trên con đường đất thẳng giữa
làng. Tôi thấy, những tốp người đứng ngồi lố nhố cả ở dưới mấy gốc đa sù sì,
cành lá rườm rà ken vào nhau, rải xuống mặt đường và bãi cỏ một vùng bóng mát rộng.
Tiếng quạt, tiếng thở, tiếng trẻ con khóc, cùng với tiếng cười nói râm ran một
góc đường. Dưới chân đồi, những thửa ruộng lúa xanh mượt, uốn quanh co dưới trời
nắng, lấp loáng như một khúc sông. Có mấy bóng cò trắng bay dật dờ…. Tôi giật
mình. Tôi thấy cảnh này vừa lạ vừa quen. Hình như tôi đã gặp đâu đó rồi thì phải
nhưng tôi không nhớ được. Bỗng tôi nhìn thấy ông lão ngồi trong một cái quán gần đấy. Hút thuốc
lào, uống chè tươi nóng, ông chóp chép cái miệng như có bao nhiêu ý nghĩ vui
thích chen chúc trong đầu óc. Tôi mạnh dạn đi lại gần. Bây giờ tôi mới nhìn rõ
đó là ông lão người mảnh khảnh, đầu chít khăn, dáng điệu gọn gàng. Tôi đoán ông
độ trên dưới sáu mươi.
- Chào ông? Ông có biết đây là đâu không? Tôi
hỏi.
- Cháu không biết mình ở nơi tản cư à! Bố mẹ
cháu đâu?
-
Cháu không biết tại sao cháu ở đây? Ông giúp cháu về nhà nhé?
Ông
Hai đặt bát nước xuống chõng nói: Thôi cháu theo ông về nhà, để ông báo chính
quyền tìm người nhà cho cháu. Ông Hai trả tiền nước, đứng dậy, chèm chẹp miệng
một tiếng, vươn vai nói to: về nào…
Tôi
theo ông về nhà. Trên đường đi ông giới thiệu mình là người làng chợ Dầu và mọi
người thường gọi tôi là ông Hai Thu.Lúc đó tôi mới nhận ra mình đang nói chuyện
với người mình mơ gặp bấy lâu. Tôi đang bâng khuâng không biết điều này thưc
hay mơ đây thì đã về tới nhà. Vào nhà ông rót nước và hỏi chuyện tôi.Ông hỏi
tôi từ đâu tới, vì sao lạc cha mẹ…Tôi chỉ trả lời ậm ờ cho qua chuyện. Tôi đánh
trống lảng hỏi sang chuyện khác:
- Cháu nghe nói làng chợ Dầu anh hùng lắm! Ông
có thể kể cho cháu nghe về nó không?
Như
bắt được mạch, ông Hai kể trong say sưa. Ông nói chuyện về làng một cách say mê
và náo nức lạ thường. Hai con mắt ông sáng hẳn lên, cái mặt biến chuyển, hoạt động.
Ông khoe làng ông có cái phòng thông tin tuyên truyền sáng sủa rộng rãi nhất
vùng, chòi phát thanh thì cao bằng ngọn tre, chiều chiều loa gọi cả làng đều
nghe thấy. Ông khoe làng ông nhà ngói san sát, sầm uất như tỉnh. Đường trong
làng toàn lát đá xanh, trời mưa trời gió tha hồ đi khắp đầu làng cuối xóm, bùn
không dính đến gót chân. Tháng năm ngày mười phơi rơm, phơi thóc thì tốt thượng
hạng, không có lấy một hạt thóc đất.
Dù
đã đọc những điều này trong truyện nhưng tôi vẫn cảm thấy xúc động. Tôi nhìn
ông Hai say sưa kể tiếp: Kháng chiến bùng nổ ông muốn ở lại làng cùng anh em bộ
đội và dân quân kháng chiến. Nhưng vì hoàn cảnh gia đình nên ông phải cùng gia
đình đi tản cư. Ở nơi tản cư ông rất nhớ làng và thường có hay khoe về làng
mình. Hôm nào ông cũng ra phòng thông tin để nghe tin tức kháng chiến. Ruột gan
ông cứ múa hết cả lên khi nghe được bao nhiêu tin hay - toàn tin quân ta giết
được địch.
Nói
đến đây ông dừng lại, trầm ngâm suy nghĩ. Tôi vội hỏi:
-
Chuyện gì xảy ra vậy ông? Sao ông dừng lại không kể tiếp?
Ông
Hai nhìn tôi với cặp mắt đầy suy tư
- Từ từ chứ! Chờ ông uống miếng nước đã. Nói
xong ông lấy ly nước uống một ngụm. Uống xong ông kể tiếp: Hốm ấy đang trong
tâm trạng náo nức thì ông nghe được tin làng chợ Dầu của ông theo Tây làm Việt
gian. Lúc đó cổ họng ông nghẹn ắng lại, da mặt tê rân rân. Ông lặng đi, tưởng
như không thở được. Một lúc lâu ông mới dặn è è, nuốt một cái gì vướng ở cổ,
ông hỏi lại về cái tin ấy thì người ta đã khẳng định một cách chắc chắn. Ông vờ
vờ đứng lảng ra chỗ khác rồi đi thẳng về nhà.
Nghe ông kể tôi có thể cảm nhận được tâm
trang ông lúc đó. Có gì đau đớn, tủi nhục cho ông Hai bằng khi nghe một người
đàn bà tản cư từ dưới xuôi lên nói: “Cả làng chúng nó (làng Dầu) việt gian theo
Tây”, “Việt gian từ thằng chủ tịch mà đi cơ ông à!”, Niềm tự hào bao lâu bỗng
chốc tan tành, sụp đổ. Giá không yêu nơi sinh trưởng của mình, ông đâu cảm thấy
đau đớn và nhục nhã đến thế. Ông Hai vẫn đang kể:
-
Về đến nhà, ông nằm vật ra giường nhìn lũ con mà thấy tủi thân, nước mắt ông cứ
ràn ra. Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Chúng nó cũng bị người
ta rẻ rúng hắt hủi đấy ư? Ông ngờ ngợ chả nhẽ bọn ở làng lại đốn đến thế ư rồi
ông tự kiểm điểm trong óc thấy họ đều là những người có tinh thần yêu nước, yêu
kháng chiến chẳng nhẽ lại đi làm cái điều nhục nhã ấy? Nhưng không có lửa làm
sao có khói. Ông cảm thấy tủi nhục. Chiều hôm ấy vợ ông về cũng có vẻ khác.
Trong nhà có cái sự im lặng thật là khó chịu. Mãi đến khuya vợ ông mới hỏi ông
về cái tin ấy. Ông im lặng rồi gắt lên vậy là bà ấy im bặt. Ba bốn ngày hôm sau
ông không dám bước chân ra ngoài chỉ ở trong gian nhà trật trội để nghe ngóng
tin tức. Lúc nào ông cũng nơm nớp lo sợ, hễ nghe đến chuyện ấy là ông lại giật
mình. Ông căm ghét bọn phản bội làng, phản bội Tổ quốc. Nỗi đau đớn và nhục nhã
và lo sợ của ông lên tới cao độ khi nghe tin nhân dân địa phương có người làng
Dầu tản cư đến là họ tẩy chay dân làng ông, “đến đâu có người chợ Dầu người ta
cũng đuổi như đuổi hủi”, ngay mụ chủ nhà cũng đã đuổi khéo vợ chồng, con cái
ông ra khỏi nhà. Trước tình cảnh ấy, ông bế tắc nhưng ông nhất định không chịu
trở về làng: “Về làng là bỏ kháng chiến, bỏ Cụ Hồ”. Cũng không thể đi đâu, ở
đâu, người ta cũng đuổi người làng chợ Dầu của ông. Trong tâm trạng đau đớn tủi
hờn, ông tâm sự với thằng con út. Sau khi tâm sự xong, nỗi khổ của ông với đi
phần nào.
Tôi
lặng đi trong xúc động. Thật thương cho ông Hai. Không hiểu sao nước mắt đã
nhòe trên mặt tôi. Ông Hai lấy tay quệt nước mắt cho tôi cười nói: Coi cháu
kìa! Mau nước mắt quá! Nghe ông nói tôi chỉ biết cười ngượng. Vội hỏi cho đỡ
ngượng:
- Vậy tin làng chơ dầu theo tây được cải
chính khi nào?
Nghe
tôi hỏi ông Hai ngẩn người ra. Tôi biết mình đã lỡ lời. Nhưng một thoáng im lặng
trôi qua, ông nói với giọng xúc động:
- Một hôm khoảng ba giờ chiều, có người đàn
ông đến nhà ông chơi. Ông ấy rủ ông đi theo ông ấy, đến sẩm tối ông mới về. Lúc
ây ông rất vui. Đến bực cửa ông đã bô bô khoe rằng Tây nó đốt nhà mình rồi, ông
chủ tịch làng ông vừa mới lên cải chính, ông ấy cho biết cái tin làng ông theo
Tây làm Việt gian là sai. Nỗi vui mừng của ông thật vô bờ bến. Ông hào phóng
mua quà cho các con, ông muốn san sẻ niềm vui sướng ấy cho mọi người trong đó
có cả mụ chủ nhà từng gieo cho ông nhiều nỗi bực dọc, căm tức. Cứ thế ông lật đật
đi khoe khắp nơi, tối hôm ấy ông còn sang gian bác Thứ nói chuyện về làng của
mình.
Nói
xong ông đưa tay quyệt nước mắt đã rơi khi nhắc đến kỉ niệm đó. Tôi cảm thấy
mình thật nhỏ bé khi nghĩ đến ông. Ông Hai đã gắn tình yêu đắm say làng mạc của
mình với tình yêu đất nước. Điều này làm nên con người vĩ đại trong ông. Cũng
chính vì thế mà làng Dầu của ông có như thế nào đi nữa, ông vẫn một lòng, một dạ
ủng hộ kháng chiến, ủng hộ Cụ Hồ.Đang trầm ngâm với suy nghĩ của mình tôi nghe
tiếng gọi
- Ông Hai ơi ngoài ủy ban có tin về làng chợ Dầu
kìa?
Nghe
tiếng gọi ông Hai nhanh chóng bảo tôi nghỉ ngơi còn ông sẽ chay ra ủy ban báo
cáo về trường hợp của tôi. Nhìn dáng tất bật của ông mà tôi trào dâng niềm yêu
thương.
Reng!
Reng! Tiếng chuông báo thức vang lên. Giờ tôi mới nhận ra minh đã có một giấc
mơ thật đẹp. Ông Hai đã giúp hiểu thêm về vẻ đẹp tâm hồn của người nông dân Việt
Nam thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược: Yêu làng, yêu nước và gắn
bó với kháng chiến. Có lẽ vì thế mà tác phẩm “Làng ” xứng đáng là một trong những
truyện ngắn xuất sắc của văn học Việt Nam hiện đại.