“Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng là một truyện ngắn cảm động viết
về đề tài tình phụ tử. Nhân vật ông Sáu trong tác phẩm – một người lính yêu nước,
dũng cảm, một người cha yêu thương con hết mực – đã để lại trong lòng tôi niềm
xúc động sâu sắc. Thế rồi một hôm khi vừa khép lại trang truyện, đi ngủ tôi mơ
màng thấy mình được nói chuyện cùng nhân vật ông Sáu. Đây quả thực là một giấc
mơ không thể nào quên được.
Trong mơ, tôi thấy mình đang ở một doanh
trại nhỏ trong rừng. Doanh trại có mấy chục chiếc lán đứng cạnh nhau. Trong lán
có người không cần phải mắc võng, cũng chẳng trải ni lông, nằm vật xuống đất, lấy
bòng làm gối, ngáy pho pho. Còn tôi, vì nhiều nỗi, cứ lơ mơ.Mất một lúc tôi mới
nhận ra mình đã trở thành một người lính và vừa trở về sau một trận đánh, chuẩn
bị cho bữa cơm chiều. Ngoài trời mưa tầm tã. Chiếc lán tôi ở dột lỗ chỗ. Sau bữa
cơm chiều, anh em bộ đội lại quây quần
bên nhau nghỉ ngơi, đàn hát và kể chuyện gia đình. Đó thực sự là những phút
giây quý giá trong đời lính chúng tôi. Hôm nay như thường lệ, một chiến sĩ đem
câu chuyện ra tâm sự. Trước lúc kể, anh
lôi từ trong áo ra chiếc lược làm bằng ngà. Nhìn anh với vết thẹo dài chạy dài
ngang má và nhìn cay lược trên tay anh, tôi ngẩn ra vì kịp nhận ra mình đã trở
thành đồng đội của ông Sáu trong truyện Chiếc lược ngà. Trong lúc tôi ngẩn ngơ
thì bên tai vang lên tiếng trầm ấm của anh Sáu.
Các bạn! Mỗi lần nhìn thây cây lược ngà ấy
là mỗi lần nỗi nhớ bé Thu trong tôi bỗng dâng lên mãnh liệt, cồn cào gan ruột.Tôi
kể cho các bạn nghe, hi vọng sẽ khuây khoả phần nào…Các bạn biết không Tôi
thoát li đi kháng chiến đầu năm 1946, sau khi tỉnh nhà bị chiếm. Lúc đó đứa con
gái đầu lòng của tôi– và cũng là đứa con duy nhất của tôi, chưa đầy một tuổi.
Tôi chỉ thấy con qua tấm ảnh nhỏ thôi. Dù đã xa con gần tám năm nhưng không
ngày nào là tôi không nghĩ đến cái ngày gia đình được đoàn tụ. Tám năm sau, tôi
mới có dịp trở về thăm nhà, thăm con. Lòng tôi vui sướng khôn tả nghĩ đến cái cảnh
đứa con gái yêu quí của mình chạy lại ôm tôi vào lòng và được nó gọi một tiếng
ba thì hạnh phúc biết bao.
Trên đường về, cái tình người cha cứ nôn
nao trong người tôi. Xuồng vào bến, thấy một đứa bé độ tám tuổi tóc cắt ngang
vai, mặc quần đen, áo bà ba đỏ đang chơi nhà chòi dưới bóng cây xoài trước sân
nhà, đoán biết là con, tôi không thể chờ xuồng cặp lại bến, tôi nhún chân nhảy
thót lên, xô chiếc xuồng tạt ra. Tôi bước vội vàng với những bước dài, rồi dừng
lại kêu to:
- Thu! Con.
Tôi vừa bước, vừa khom người đưa tay đón
chờ con. Nghe gọi, con bé giật mình, tròn mắt nhìn. Nó ngơ ngác, lạ lùng. Hai
tay vẫn đưa về phía trước, tôi chầm chậm bước tới, giọng lặp bặp run run:
- Ba đây con!
- Ba đây con!
Con bé thấy lạ quá, nó chớp mắt ngơ ngác
nhìn tôi, mặt nó bỗng tái đi, rồi vụt chạy và kêu thét lên: “Má! Má!”. Tôi đứng
sững lại đó, nhìn theo con, Có lẽ, lúc ấy trông thật đáng thương và hai tay tôi
buông xuống như bị gãy.
Giọng kể của anh Sáu trầm xuống.Anh như
chìm đắm vào kí ức.Chúng tôi cũng im lặng. Dường như tâm sự của anh Sáu đang xâm
chiếm cả không gian. Giọng anh tiếp tục vang:
Vì đường xa, tôi ở nhà được có ba ngày.
Trong ba ngày ngắn ngủi đó, con bé không kịp nhận ra tôi là cha. Ðêm nó không
cho tôi ngủ với vợ. Con bé tính khí thật không vừa, nó tuột xuống giường, đứng
dưới đất chồm lên, nắm tay tôi kéo ra. Kéo không được, nó kê miệng cắn. Cho đến
ngày đi, tay tôi vẫn còn hằn sâu những dấu răng của con. Suốt ngày tôi chẳng đi
đâu xa, lúc nào cũng vỗ về con. Nhưng càng vỗ về con bé càng đẩy ra. Tôi mong
được nghe một tiếng "ba" của con bé, nhưng con bé chẳng bao giờ chịu
gọi. Nghe mẹ nó bảo gọi ba vào ăn cơm thì nó bảo lại:
- Thì má cứ kêu đi.
Mẹ nó đâm nổi giận, quơ đũa bếp dọa đánh,
nó phải gọi nhưng lại nói trổng:
- Vô ăn cơm!
Tôi vẫn ngồi im, giả vờ không nghe, chờ
nó gọi "ba vô ăn cơm". Con bé cứ đứng trong bếp nói vọng ra:
- Cơm chín rồi! - Tôi cũng không
quay lại.
Con bé bực quá, quay lại mẹ và bảo:
- Con kêu rồi mà người ta không nghe.
Tôi quay lại nhìn con vừa khe khẽ lắc đầu
vừa cười. Tôi cảm thấy mình như người xa lạ, trong lòng buồn bã đầy hụt hẫng.
Trái tim tôi nhói lên đau đớn. Đứa con gái tôi mong ngóng, tôi đợi chờ lại
không chấp nhận người cha này ư? Trong lòng tôi cứ dấy lên một nỗi lòng chẳng
nguôi ngoai.
Bữa sau, đang nấu cơm thì mẹ nó chạy đi
mua thức ăn. Mẹ nó dặn, ở nhà có gì cần thì gọi ba giúp cho. Nó khôngnói không
rằng, cứ lui cui dưới bếp. Nghe nồi cơm sôi, nó giở nắp, lấy đũa bếp sơ qua – nồi
cơm hơi to, nhắm khôngthể nhắc xuống để chắt nước được, đến lúc đó nó mới nhìn
lên tôi. Nó nhìn dáo dác một lúc rồi kêu lên:
- Cơm sôi rồi, chắt nước dùm cái!
– Nó lại nói trổng.
Tôi ngồi im.
Thấy vậy,nó lại kêu lên:
- Cơm sôi rồi, nhão bây giờ!
Tôi cứ vẫn ngồi im. Lúc đó nồi cơm sôi
lên sùng sục. Nó hơi sợ, nó nhìn xuống, vẻ nghĩ ngợi, nhắc không nổi, nó lại
nhìn lên. Tiếng cơm sôi như thúc giục nó. Nó nhăn nhó muốn khóc. Nó nhìn nồi
cơm, rồi nhìn lên tôi. Thấy nó luýnh quýnh tôivừa tôi nghiệp vừa buồn cười,
nghĩ chắc thế nào nó cũng chịu thua. Nó loay hoay rồi nhón gót lấy cái vá múc
ra từng vá nước, miệng lẩm bẩm điều gì khôngrõ. Con bé đáo để lắm.
Trong bữa cơm đó, tôi gắp
một cái trứng cá to vàng để vào chén nó. Nó liền lấy đũa xoi vào chén, để đó rồi
bất thần hất cái trứng ra, cơm văng tung toé cả mâm. Giận quá và không kịp suy
nghĩ, tôi vung tay đánh vào mông nó và hét lên:
- Sao mầy cứng đầu quá
vậy, hả?
Nó ngồi im, đầu cúi gằm
xuống. Nghĩ thế nào nó cầm đũa, gắp lại cái trứng cá bỏ vào chén, rồi lặng lẽ đứng
dậy, bước ra khỏi mâm. Xuống bến, nó nhảy xuống xuồng, mở lòi tói cố làm cho
dây lòi tói khua rổn rảng, khua thật to, rồi lấy dầm bơi qua sông. Nó sang qua
nhà ngoại, mét với ngoại và khóc ở bên ấy. Chiều đó, mẹ nó sang dỗ dành mấy nó
cũng không về. Ngày mai tôi phải đi, đó là đêm cuối cùng của hai vợ chồng tôi, vợ
tôi cũng không muốn bắt nó về.
Kể đến đây,gương mặt anh đỏ ửng lên, anh
Sáu như cố kìm nén cảm xúc trong ông. Tôi có thể cảm nhận được nỗi dằn vặt hiện
lên trong đôi mắt ông. Hành động đánh con của ông đáng được cảm thông.Đó là biểu
hiện của tình yêu con bị đồn nén quá sức chịu đựng.Tình yêu, nỗi đau vì không
được con đón nhận, đã hóa thành cơn giận. Khao khát, nôn nóng ao ước được hưởng
hạnh phúc giản dị là nghe con gọi một tiếng ba khiến ông không kìm chế được giận
dữ. Tôi vừa suy nghĩ vừa nghe anh kể tiếp:
Sáng hôm sau, bà con
bên nội, bên ngoại đến rất đông. Cả con bé cũng theo ngoại nó về. Tôi phải lo
tiếp khách, tôi như khôngc hú ý đến con nữa. Đến lúc chia tay, mang ba lô lên
vai, sau khi bắt tay hết mọi người, tô imới đưa mắt nhìn con, thấy nó đứng
trong góc nhà. Tôi cũng muốn ôm con, hôn con, nhưng sợ nó giẫy lên lại bỏ chạy,
nên tôi chỉ đứng nhìn nó. Tôi nhìn trìu mến lẫn buồn rầu. Tôi thấy đôi mắt mênh
mông của con bé bỗng xôn xao.
- Thôi! Ba đi nghe
con! – Tôi khe khẽ nói.
Không ai ngờ nó bỗng
kêu thét lên:
- Ba...a...a...ba!
Trời con bé gọi tôi là
ba, nó đang gọi tôi là ba, tôi có nghe nhầm không chứ. Không, tiếng ba của nó
thật rõ, xé tan không gian im lặng, tiếng ba đầy nghẹn ngào như bóp chặt trái
tim tôi. Nó vừa kêu vừa chạy xô tới, nhanh như một con sóc, nó chạy thót lên và
dang hai tay ôm chặt lấy cổ tôi. Nó vừa ôm chặt lấy cổ tôi vừa nói trong tiếng
khóc:
- Ba! Không cho ba đi
nữa! Ba ở nhà với con!
Tôi bế nó lên. Nó hôn tôi
cùng khắp. Nó hôn tóc, hôn cổ, hôn vai và hôn cả vết thẹo dài bên má của tôi nữa.
Không ghìm được xúc động và không muốn cho con thấy mình khóc, tôi một tay ôm
con, một tay rút khăn lau nước mắt, rồi hôn lên mái tóc con. Nghẹn
ngào, tôi nói với con bé và cũng tự trấn an mình:
- Ba đi rồi ba về với
con.
- Không!
– Con bé hét lên, hai tay nó siết chặt lấy cổ, chắc nó nghĩ hai tay không thể
giữ được tôi, nó dang cả hai chân rồi câu chặt lấy tôi, và đôi vai nhỏ bé của
nó run run. Nó sợ tôi đi mất, tôi cũng sợ, sợ phải xa con. Tôi muốn gần bên con
thêm vài ngày nữa để trao cho con những yêu thương cất giấu từ bấy lâu trong
lòng nhưng vì nhiệm vụ cấp bách chiến trường không cho phép tôi được làm thế
Mọi người xúm lại vỗ về
nó, mẹ nó bảo:
- Thu! Để ba đi con.
Thống nhất rồi ba con về.
Bà ngoại nó vừa vuốt
tóc nó vừa dỗ:
- Cháu của ngoại giỏi
lắm mà! Cháu để ba cháu đi rồi ba sẽ mua về cho cháu một cây lược.
Con bé ôm chầm tôi một
lần nữa rồi mếu máo:
- Ba về! Ba mua cho
con một cây lược nghe ba! – Nó nói trong tiếng
nấc, vừa nói vừa từ từ tuột xuống.
Tôi có thể cảm nhận được niềm vui cũng như
xót xa trong giọng kể của anh. Người chiến sĩ dũng cảm ngoài chiến trường cũng
là người cha yếu đuối, mềm lòng, trước tấm lòng của con gái bé bỏng. Có điều,
phút giây cha con trùng phùng cảm động quá ngắn ngủi, ngắn đến mức hạnh phúc
làm cha của ông, hạnh phúc được ôm ấp, vỗ về con của ông chỉ được tính bằng một
khoảnh khắc duy nhất trong đời.
Sau đó hai tôi trở lại miền Ðông. Tôi là
cán bộ đoàn thể, chúng tôi không đi tập kết. Những đêm rừng, nằm trên võng, mắt
chỉ thấy tấm ni lông nóc, lúc nhớ con tôi cứ ân hận sao mình lại đánh con. Nỗi
khổ tâm ấy cứ giày vò tôi. Nghe bác Ba kể lại tôi mới biết thì ra nó không nhận
ra tôi vì vết thẹo dài, khác với ảnh má nó đã cho nó xem. Rồi ngoại đã giải
thích và nó đã hiểu. Thì ra nó không hề quên tôi, không hề quên người cha này
chỉ là vì chút trẻ con ngây dại, vì vết thẹo chiến tranh khiến nó không nhận ra
tôi mà thôi.
Nỗi khổ đó cứ giầy vò tôi - một hôm, tôi
bỗng ngồi bật dậy:
- Phải rồi! Ở rừng này, người ta thỉnh
thoảng có bắn voi, mình phải làm một cây lược bằng ngà cho con bé mới được.
Và tôi ao ước có một khúc ngà, một khúc
ngà voi. Thật may mắn, sau đó không lâu, vì thiếu thức ăn, anh em bộ đội nghĩ đến
chuyện đi săn, đi săn bằng tên thuốc chớ không phải bằng súng. Lúc đó rừng vẫn
còn phải giữ im lặng. Thật ra thì chúng tôi không đi săn voi, nhưng tình cờ lại
gặp nó. Anh em định thả nó, nhưng tôi quyết định bắn.
Tôi hãy còn nhớ buổi chiều hôm đó - buổi
chiều sau một ngày mưa rừng, giọt mưa còn đọng trên lá, rừng sáng lấp lánh. Từ
con đường mòn chạy lẫn trong rừng sâu, tôi hớt hải chạy về, tay cầm khúc ngà
đưa lên khoe với bác Ba, bạn của tôi. Tôi vui như một đưa trẻ được quà. Miếng ngà voi này dùng để làm cho con bé chiếc lược
chắc có lẽ nó sẽ thích lắm.
Sau đó tôi lấy vỏ đạn
hai mươi li của Mĩ, đập mỏng làm thành một cây cưa nhỏ, cưa khúc ngà thành từng
miếng nhỏ. Những lúc rỗi, tôi cưa từng chiếc răng lược, thận trọng, tỉ mỉ và cố
công như người thợ bạc. Một ngày, tôi cưa được một vài răng. Không bao lâu sau,
cây lược được hoàn thành. Cây lược dài độ hơn một tấc, bề ngang độ ba phân rưỡi,
cây lược cho con gái tôi, cây lược dùng để chải mái tóc dài, cây lược chỉ có một
hàng răng thưa. Trên sóng lưng lược, dùng tất cả niềm
thương nỗi nhớ tôi nắn nót tẩn mẩn khắc từng nét một hàng chữ nhỏ: “Yêu nhớ
tặng Thu con của ba”. Cây lược ngà ấy chưa chải được mái tóc của con, nhưng
nó như gỡ rối được phần nào tâm trạng của tôi. Những đêm nhớ con, tôi ít nhớ đến
nỗi hối hận đánh con, nhớ con, tôi lấy cây lược ra ngắm nghía rồi mài lên tóc
cho cây lược thêm bóng, thêm mượt. Có cây lược, tôi càng mong gặp lại con. Chiếc
lược cho tôi thêm ý chí vượt qua mọi gian lao, hiểm nguy, chiến đấu và chiến thắng
để sớm ngày được trở về đoàn tụ cùng con.
Tất cả chúng tôi chìm đắm và lắng nghe từng lời kể của anh Sáu.
Giọng anh vui và tràn đầy nhiệt huyết. Tôi vui vì anh đã có thể thực hiện được
lời hứa với con.
Câu chuyện của anh kết thúc cũng là lúc chúng tôi tản ra về
lán trại của mình nghỉ ngơi. Tôi thiếp đi nhưng vẫn nghe văng vẳng lời kể cuối
của anh: “Thu à ! Nhất định ba sẽ về, sẽ trao tận tay con cây lược. Khi nào
đất nước thống nhất, ba sẽ vể ở hẳn bên con, sẽ bù đắp những thiếu thốn tình cảm
trong bao năm xa cách. Chờ ba con nhé !”
Tôi mở mắt và bừng tỉnh. Thì ra là một giấc
mơ, một giấc mơ dài và đẹp quá! Dù biết rằng ông Sáu đã mãi mãi nằm lại nơi cánh
rừng miền Đông đó nhưng tôi tin rằng tình phụ tử là giá trị bất diệt mà chiến
tranh không thể hủy hoại được. Cả khi đối mặt với cái chết, ông vẫn chỉ nghĩ,
nhớ tới con.
Đọc thiên truyện, tôi đã có lần rơi lệ vì
cảm động. Và còn vì thấy trong đó thấp thoáng dâu đây bóng dáng bản thân, của
người cha thân yêu của mình nữa. Tình phụ tử đó chính là một trong những thứ
tình cảm thiêng liêng nhẩt trong cõi đời này. Và bởi thế, đọc “Chiếc lược ngà” tôi
càng trân trọng hơn những người thân yêu ruột thịt quanh mình, trân trọng hơn
những tình cảm sâu sắc tôi đang được nhận. Và hơn hết, đọc thiên truyện ngấn
này, tôi nguyện sống yêu thương, sẻ chia và sống xứng đáng với những dâng sinh
thành của bản thân.
Không chỉ gợi những tình cảm trong sáng,
cao quý, “Chiếc lươc ngà” còn mang đến cho người đọc những bài học nhân sinh đầy
nhân ái. Và vì thế, đây thực sự là một thiên truyện hay trong hành trang của những
người Việt trẻ!