Trong cuộc đời, ai cũng có cho riêng mình
những kỉ niệm thời ấu thơ hồn nhiên trong sáng. Những kỉ niệm ấy là thiêng
liêng và thân thiết nhất. Nó có sức mạnh phi thường nâng đỡ con người suốt hành
trình dài và rộng của cuộc đời. Tôi nhận thức sâu sắc điều đó nhờ văn bản “Bếp
lửa” của Bằng Việt. Hình ảnh người bà, bếp lửa và tình bà cháu in đậm trong tâm
trí tôi. Và sự ám ảnh đó theo tôi vào giấc ngủ …
Thời gian trôi, tôi là một sinh viên ngành
luật tại Maxcơva. Tôi có người bạn rất thân thiết tên là Việt Bằng.Việt Bằng rất
nổi tiếng trong giới sinh viên du học tại Liên Xô. Anh làm thơ rất hay. Tôi đã
đọc và rất thích bài thơ “Bếp lửa” của anh.
Nhân dịp tết cổ truyền ở quê nhà, nhóm sinh
viên xa nhà chúng tôi tổ chức nấu bánh chưng, bánh tét. Bên ánh lửa bập bùng
tôi được nghe câu chuyện về tuổi thơ của anh Việt Bằng. Anh kể trong nỗi xúc động
về tuổi thơ và nỗi nhớ nhung về người bà giấu yêu của mình.
Bằng
giọng chậm rãi bùi ngùi, đôi mắt như đắm chìm trong quá khứ, Anh tâm sự:
-
Các bạn ơi! Thời gian trôi qua hơn hai mươi năm rồi. nhưng mỗi lần nhìn bếp lửa
tôi lại nhớ về bếp lửa, quê hương, bếp lửa tuổi thơ. Hồi ức bếp lửa làm bớt cái
lạnh lẽo của mùa đông xa quê, nỗi nhớ quê, cha mẹ. Ở trời Tây này, tuyết thường
rơi trắng xoá. cái lạnh ở nơi đây làm tôi liên tưởng đến bếp lửa của quê nhà chờn
vờn trong sương sớm. Bếp lửa toả sáng bập bùng, in bóng bà tôi trên vách bếp. Bếp
lửa luôn vương vấn hình ảnh bà nội tôi tần tảo sớm hôm. Dáng bà cong lưng thổi
bếp, thổi mãi cho đến khi bếp cháy và tỏa luồng hơi ấm nồng nàn. Hơi ấm của
tình thương, của niềm tin và hi vọng. Ôi hình ảnh bếp lửa vẫn lung linh trong
kí ức của dù trải qua bao mưa nắng thời gian. Tôi nghĩ rằng chính sự quần tụ
quanh bếp lửa của gia đình Việt là ấn tượng thiêng liêng mà tôi không bao giờ
quên được.
Nói
đến đây anh đừng lại và chìm trong suy tư. Tôi không muốn phá vỡ mạch suy nghĩ
của anh nhưng trí tò mò của tôi đã thắng. tôi vội hỏi:
-
Hồi nhỏ anh sống với bà à? Chắc có nhiều kỉ niệm lắm?
- Tuổi thơ của tôi được sống bên bà, cùng bà
nhóm lửa là tuổi thơ với nhiều gian khổ, thiếu thốn, nhọc nhằn. Hồi quê hương
tôi khổ lắm, chiến tranh mà! Năm 1945 cả nước đang lâm vào cảnh đói khủng khiếp
khiến hơn hai triệu người chết, gia đình tôi cũng không ngoại lệ. Bố tôi còn
con ngựa để đánh là may mắn lắm. Cả xã hội đói mòn đói mỏi. Trong những năm đói
khổ đó, tôi và bà gắn bó với nhau. Bà không bao giờ để tôi đói hay thiếu bữa ăn
nào. Bà mót từng củ khoai, lượm từng củ sắn để có cái ăn cho tôi. Bà như bà tiên, xua tan đi cái không khí ghê
rợn đầy tử khí của năm đó. Tôi nhớ mãi cái” mùi khói “. Hơn hai mươi năm rồi,
khói vẫn làm cay mắt tôi. Cái “cay “của những kỉ niêm đói khổ, càng “cay“ tôi
càng nhớ bà và thương bà hơn.
Tôi
lặng đi, không dám cất lời hỏi tiếp. Thời gian trôi trong thinh lặng. Một lúc
sau, đè nén xúc động, Việt Bằng kể tiếp: Cả quãng đời tuổi thơ tôi sống cùng
bà. Trong tám năm ấy, đất nước có chiến tranh, hai bà cháu phải đi tản cư còn bố
mẹ tôi thì đi công tác. Chỉ có tôi và bà, bà phải xoay sở nuôi thân mình và
nuôi cả cháu. Thời gian ấy, tuy đói khổ với tôi lại là niềm hạnh phúc vô bờ. Suốt
tám năm ròng, tôi ở cùng bà, sớm sớm chiều chiều cùng bà nhóm lửa. Bà kể cho
chúng tôi nghe những ngày lưu lạc ở Huế. Trong khói bếp, chập chờn mở ảo, bà
như bà tiên hiện ra từ trong những câu chuyện bà kể. Đối với tôi, bà là cha, là
mẹ. Trong những năm sống, cùng bà, bà chăm lo tôi từng miếng ăn, từng giấc ngủ
và bà còn là người thầy đầu tiên của tôi. Tôi lớn lên trong sự chăm sóc, dạy bảo
của bà. Bà dạy tôi cách sống, cách làm người và những bài học đó đi theo tôi suốt
cuộc đời. Là hành trang tôi luôn mang theo bên người. Bây giờ nghĩ lại, tôi đi
xa rồi bà ở với ai, ai cùng bà nhóm lửa ai cùng bà chia sẻ những ngày ở Huế? Mỗi
lần nghe tiếng chim tu hú kêu, lòng tôi trỗi dậy những hoài niệm nhớ mong, muốn
được ở gần bà, sợ phải xa bà. Đang kể bỗng Việt Bằng dừng lại, nhìn mông lung rồi
đột ngột cất tiếng ngâm thơ:
“Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa.”
Tôi
lặng người và cảm thông cho nỗi lòng của anh, cảm thông với nỗi nhớ bà của đứa
cháu nơi xứ người. Tim tôi thổn thức, lòng dâng trào cảm xúc. Hình như nơi quê
nhà tôi cũng có ngươi bà đang mong chờ tôi về. Đang miên man trong suy nghĩ của
mình, tôi nghe tiếng Việt Bằng kể tiếp:
-
Chiến tranh khốc liệt vô cùng. Nó gây ra bao đau khổ. Bà cháu tôi cũng là một nạn
nhân của chiến tranh. Gia đình tôi bị chia cắt, bố mẹ tôi công tác bận không về,
nhà cửa bị đốt trụi … Nhưng cuộc sống càng khó khăn, cảnh ngộ càng ngặt nghèo
thì bà càng thêm vững vàng. Nhớ năm đó túp lều tranh của bà cháu tôi bị đốt. Không
còn chốn nương thân. Bà dẫn dắt tôi qua hết mọi khó khăn. Bà cấm tôi kể này, kể
nọ trong bức thư viết cho bố. Bà không muốn bố tôi đang bận việc nước, lo lắng
cho nhà. Lời dặn của bà giản dị nhưng chứa biết bao tình cảm. Ôi, bà ơi! hồi ấy
đầu óc non nớt của cháu đâu thấu hiểu tấm lòng hi sinh vì nước của bà . Tấm
lòng của bà cao cả chan chứa yêu thương.
Kể
đến đây đôi mắt Việt Bằng đã nhòa loẹt. Tôi cũng bồi hồi xúc động lẫn khâm phục
ngươi phụ nữ anh hùng.
-Bà
của anh thật tuyệt vời! Bây giờ bà của anh còn không? Làm gì?
Đè nén xúc động, Việt Bằng cười rất tươi, vội
vã trả lời:
-Còn
… Bà tôi rất còn khỏe và vẫn dậy sớm nhóm bếp nấu nước, nấu cơm. Nhắc đến bà,
tôi không quên được hình ảnh của bà với bếp. Hình ảnh bà tôi mái tóc bạc phơ,
thân hình còm cỏi luôn đi đôi với bếp lửa rực hồng. Bếp lửa do tay bà nhóm lên
toả hơi ấm khắp căn lều nhỏ và suởi ấm lòng tôi, khơi dây ở tôi những tâm tình
của thời thơ dại. Bà và bếp lửa, hai hình ảnh ấy thực sự đã ghi dấu ấn lên cuộc
đời tôi. Bây giờ cuộc sống đã thay đổi qua nhiều, bếp lửa truyền thống đã không
còn hữu dụng nữa. Nhưng tôi mãi không bao giờ quên được hai hình ảnh đó. Bếp lửa
là tình bà nồng ấm, bếp lửa là tay bà chăm chút, bếp lửa gắn với những khó khăn
gian khổ của đời bà. Ngày ngày bà nhóm lên bếp lửa cũng là nhóm lên niềm vui, sự
sống, niềm yêu thương chăm chút dành cho tôi và mọi người. Bà không những là
người nhóm lửa, giữ lửa, mà còn là người truyền lửa, truyền niềm tin, sự sống
cho tôi. Bà là người phụ nữ Việt Nam muôn thuở với vẻ đẹp tần tảo, nhẫn nại và
đầy yêu thương. Giờ đây tôi đã trưởng thành. Tôi có những niềm vui mới, tình cảm
mới, bến bờ mới. Tổ quốc đã chấp cánh cho tôi bay vào bầu trời thênh thang của
tri thức khoa học, nhưng tôi không thể nào quên hình ảnh bà gắn với hình ảnh bếp
lửa mà bà tôi ấp iu nhen lên mỗi sớm, mỗi chiều ở nơi quê nhà.
Lắng
nghe Việt Bằng thộ lộ tâm sự, tôi bồi hồi xúc động về hình ảnh người bà thiêng
liêng cao cả. Để đất nước được hòa bình, những người bà, người mẹ đã âm thầm hi
sinh. Trong tôi dâng tràn lên một niềm tin cao đẹp đất nước ngày càng phát triển
khi còn những người mẹ, người bà như thế. Câu truyện của Việt Bằng gợi tôi nhớ
về quê hương, gia đình và càng thấm thía hơn tình cảm gia đình, ông bà, cha mẹ.
Quê hương là bến bờ hạnh phúc sưởi ấm tâm hồn những đứa con xa xứ như chúng tôi
Qúa nửa đêm, giờ đã sang giờ giao thừa ở
Việt Nam, bếp lửa đã tàn, chúng tôi chia nhau về phòng để kịp gởi lời chúc xuân
tốt đẹp về Việt Nam. Viết xong lời chúc, Tôi lên giường đi ngủ.
- Reng! Reng! Reng!
Tiếng
chuông báo thức vang lên. Giời tôi mới nhận ra mình đã có một giấc mơ thật đẹp.
Nhưng sao tôi vẫn cảm nhận được cái lạnh của nước Nga.Cái lạnh nhưng lại ấm áp
tình cảm gia đình. Những gì là thân thiết nhât của tuổi thơ mỗi người đều có sức
toả sáng, nâng đỡ con người trong suốt hành trình dài rộng của cuộc đời phải
không các bạn? Tình yêu thương, lòng biết ơn trong gia đình chính là cội nguồn
của tình yêu quê hương đất nước, con người. Tôi thầm hứa mình phải biết yêu quý
và bảo vệ hạnh phúc mình đang có.