Thứ Tư, 16 tháng 6, 2021

Sự hy sinh thầm lặng, mục đích lí tưởng chiến đấu và tình nghĩa thiêng liêng của anh bộ đội Cụ Hồ( Đồng chí- Chính Hữu)

 

Cảm nhận về Sự hy sinh thầm lặng, mục đích lí tưởng chiến đấu và tình nghĩa thiêng liêng của anh bộ đội Cụ Hồ qua đoạn thơ:

Ruộng nương anh gửi bạn thân cày

Gian nhà không mặc kệ gió lung lay

Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.

[…]

Đêm nay rừng hoang sương muối

Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới

Đầu súng trăng treo.

(Đồng chí, Chính Hữu)

Từ đó, liên hệ với một tác phẩm khác hoặc thực tế cuộc sống hiện nay để làm nổi bật thông điệp mà em chọn.

Bài làm

Lịch sử nước ta đã đi qua biết bao thăng trầm biến cố. Mỗi lần biến động là mỗi lần dân ta sít gần lại nhau hơn, cùng nhau vì mục đích cao cả chung. Đó là những năm tháng hào hùng, khí thế của dân tộc ta trong cuộc chiến đấu tranh chống Pháp, chống Mĩ vĩ đại. Có rất nhiều bài thơ hay khai thác chân thực cái đẹp, chất thơ của đời sống kháng chiến và bài thơ Đồng chí của Chính Hữu là một trong số đó. Bài thơ đã ghi dấu ấn sâu đậm trong lòng độc giả, trở thành thi phẩm tiêu biểu về người lính Cụ Hồ những năm 1948 thời kỳ chống Pháp. Bài thơ Đồng chí ca ngợi tình đồng đội gian khổ có nhau, vào sinh ra tử có nhau của các anh bộ đội Cụ Hồ, những người nông dân yêu nước đi bộ đội đánh giặc trong nhữg năm đầu gian khổ thời chín năm kháng chiến chống Pháp. Với giọng thủ thỉ tâm tình, ngôn ngữ giản dị, một cách tự nhiên Chính hữu đã khắc họa rõ nét sự hy sinh thầm lặng, mục đích lí tưởng chiến đấu và tình nghĩa thiêng liêng của anh bộ đội Cụ Hồ trong đoạn thơ:

Ruộng nương anh gửi bạn thân cày

Gian nhà không mặc kệ gió lung lay

Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.

[…]

Đêm nay rừng hoang sương muối

Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới

Đầu súng trăng treo.

Bài thơ Đồng chí được biết đến như một khúc ca về tình đồng đội giữa những người lính trong kháng chiến. Bài thơ Đồng chía đã xây dựng một bức tượng đài bất diệt về hình ảnh người lính trong kháng chiến chống Pháp, họ mang vẻ đẹp giản dị, mộc mạc, cùng chung lí tưởng chiến đấu và cùng sẻ chia gian khó trong những ngày tháng chiến đấu hào hùng của dân tộc. Trong những năm đầu kháng chiến chống thực dân Pháp, quân dân ta thiếu thốn đủ thứ về đạn dược, vũ khí, nơi ăn chốn ở. Cuộc sống túng hàn nay càng thêm khắc nghiệt. Những người lính Cụ Hồ thời ấy, họ xuất thân chủ yếu từ những làng quê nghèo khó, nghe theo tiếng gọi của Tổ quốc mà lên đường chiến đấu. Bởi vậy, họ - những con người nông dân mặc áo lính ấy mang vào cuộc chiến đấu những gì rất thân thuộc, bình dị, chân thực mà quyết liệt, quả cảm nhất.

Tấm lòng của những con người nông dân mặc áo lính đối với đất nước thật càm động. Khi giặc đến các anh đã gửi lại người bạn thân mảnh ruộng chưa cày, mặc kệ những gian nhà bị gió cuốn lung lay để ra đi kháng chiến:

Ruộng nương anh gửi bạn thân cày

Gian nhà không mặc kệ gió lung lay

Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.

Nghe theo tiếng gọi của Tổ quốc, họ đã rời bỏ mái đình, cây đa, giếng nước, để lại sau lưng tất cả những gì yêu dấu và bước vào cuộc chiến. Bình thường vậy thôi , nhưng nếu không có một tình yêu đất nước sâu nặng không thể có một thái độ ra đi như vậy. Họ đứng lên chiến đấu chỉ vì một lẽ giản dị: Tình yêu đất nước, ý thức dân tộc là máu thịt, là cuộc đời họ. Bởi vậy, nông dân hay trí thức chỉ mới nghe tiếng đau thương của quê hương, họ sẽ bỏ lại tất cả, cả ruộng nương, xóm làng. Người lính cũng hiểu điều đó, lòng anh cũng lưu luyến muốn ở lại. Nhưng đứng trước cảnh xâm lăng, là một người con của Tổ quốc, anh đã đặt lòng yêu nước lên trên tất cả. Đặt nghĩa chung lên trên tình riêng. Chỉ đến khi ở nơi kháng chiến người lính nông dân áo vải lại trở mình, lòng lại bận tâm lo lắng về mảnh ruộng chưa cày, với căn nhà bị gió lung lay. Anh và tôi gửi lại ruộng nương cho bạn thân giúp đỡ, Gian nhà không thì mặc kệ gió lung lay. Hình ảnh “gian nhà không" kết hợp với từ láy “lung lay” ở cuối câu thơ giúp ta cảm nhận được sự trống trải, khô khan của một gia đình vắng người trụ cột. Cả cuộc đời ông cha gắn với quê hương ruộng vườn, nay lại ra đi cũng như dứt bỏ đi nửa cuộc đời mình.Hai chữ “mặc kệ” đã thể hiện thái độ lên đường thật rõ ràng, dứt khoát. Từ “mặc kệ” được đặt giữa câu thơ có những hình ảnh của làng quê quen thuộc rất giàu sức biểu cảm và gợi hình. Đối với những người lính thì ruộng nương, căn nhà là cơ nghiệp, ước muốn, nguyện vọng gắn bó cả đời của họ. Để lại cả cơ nghiệp hoang trống ra đi, người thân ở lại đó là sự hi sinh lớn lao hạnh phúc cá nhân vì mục tiêu, lý tưởng của cách mạng. Nhưng vì nhiệm vụ, vì nền hòa bình độc lập của đất nước họ phải gác lại tình riêng lên đường vào mặt trận. Những người lính phải nén lại nỗi nhớ mong quê hương để tiếp tục chiến đấu. Những người lính của Chính Hữu vẫn còn nặng lòng với quê hương nhiều lắm. Từ “mặc kệ” mang đậm chất khẩu ngữ rất ít khi xuất hiện trong thơ nhưng lại mang ý nghĩa khẳng định ý chí quyết tâm, sự dứt khoát của người lính khi họ bước vào cuộc chiến. Đây không phải là sự phó mặc, mà theo ngôn ngữ của người lính chỉ là một sự hoãn lại, đợi chờ cách mạng thành công. Vì nếu vô tình thì ở nơi chiến trường, làm sao họ cảm nhận được từng cơn gió lạnh lùa vào gian nhà trống của gia đình mình. Họ biết nơi quê nhà ruộng nương vẫn chờ tay người cày xới, gian nhà lung lay trong gió chờ người sửa sang, nơi giếng nước gốc đa có ánh mắt người thân trông ngóng. Trong những tâm hồn ấy, hẳn sự ra đi cũng đơn giản như cuộc đời thường nhật, nhưng thực sự hành động ấy là cả một sự hy sinh cao cả.Nỗi nhớ của các anh là thế: cụ thể nhưng cảm động biết bao. Người lính luôn hiểu rằng nơi quê nhà người mẹ già, ngừơi vợ trẻ cùng đám con thơ đang trông ngóng anh trở về:

Giếng nước gốc đa, nhớ người ra lính.

Hình ảnh ẩn dụ “giếng nươc gốc đa” thường được sử dụng trong ca dao để nói về quê hương làng xóm. Nhà thơ đã vận dụng tài tình chi tiết ấy, kết hợp với phép nhân hóa để gợi tả cảm giác phía sau người lính còn cả một gia đình, một hậu phương vững chắc đang chờ đợi. Ở đây chủ thể trong câu thơ không phải người lính, mà chính “giếng nước gốc đa” mới là chủ thể trữ tình. Đó là nơi họ sinh ra, lớn lên, dù có dứt khoát thế nào họ cũng không thể quên được. Chính cái thâm tình với hậu phương ấy đã biến thành động lực để người lính chiến đấu, không chỉ vì độc lập tự do cho Tổ quốc, mà còn để giải phóng quê hương. Và ở đây, nơi chiến trường những người lính lại tìm được những tình cảm ấm áp và hồn hậu của quê nhà trong người bạn đồng chí của mình. Họ soi vào nhau, thấu hiểu và đồng cảm về tất cả. Tình đồng chí là bước đệm để nhà thơ mở ra vẻ đẹp tâm hồn của người lính: hy sinh thầm lặng vì Tổ quốc nhưng vẫn luôn nhớ về quê hương, gia đình ở hậu phương. Trong đoạn thơ cấu trúc "anh- tôi" sóng đôi giờ chỉ còn lại anh: nỗi nhớ quê hương trong lòng anh được tôi nói hộ. Tôi nói cho anh hay đó cũng chính là nỗi nhớ quê hương của tôi. Những người lính họ thấu hiểu tâm tư nỗi lòng của nhau.

Người lính nông dân phải trải qua bao gian khổ thiếu thốn của cuộc sống. Đối mặt với những khó khăn đó, những người lính không hề một chút sợ hãi, những thử thách giữa nơi rừng thiêng nước độc cứ kéo đến liên miên nhưng người lính vẫn đứng vững, vẫn nở “miệng cười buốt giá”. Đó là hình của sự lạc quan, yêu cuộc sống hay cũng là sự động viên giản dị của những người lính với nhau. Cái khốn khó, gian truân hãy còn dài trên bước đừơng kháng chiến dân tộc. Nhưng dường như trước mắt những con người này, mọi thứ không còn hiểm nguy. Trong bất cứ tình huống nào hình ảnh người lính của Chính Hữu vẫn ánh lên vẻ đẹp rực rỡ của lí tưởng, sẵn sàng hy sinh vì Tổ Quốc, dũng cảm lạc quan trước hiểm nguy kẻ thù rình rập.

Trong đêm trăng vắng lặng, bát ngát giữa rừng hoang sương muối, những người lính vẫn kề vai, sát cánh cùng hướng mũi súng về phía kẻ thù:

Đêm nay rừng hoang sương muối

Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới

Đầu súng trăng treo.

Thật là bức tranh đơn sơ, thi vị về người lính. Trong một đêm chờ giặc tới giữa nơi rừng hoang sương muối, những người lính kề vai, sát cánh cùng hứơng mũi súng vào kẻ thù. Không gian hùng vĩ, hoang vu "rừng hoang sương muối", thời gian gian khó mùa đông ở Việt Bắc sương muối phủ đầy trời. Trên cái nền thiên nhiên vừa hùng vĩ, vừa khắc nghiệt ấy, gười lính hiện lên với tư thế chủ động hiên ngang "đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới". Chính tư thế thành đồng vách sắt ấy đã làm lu mờ đi mọi gian khổ khó khăn. Người lính không cô đơn lạnh lẽo vì bên anh đã có đồng đội và cây súng, là những người bạn tin cậy nhất, tình đồng chí đã sưởi ấm lòng anh. Sức mạnh của sự tin tưởng lẫn nhau, của sự quan tâm tới nhau giữa những người lính đã làm vững chắc thêm tình đồng đội trong họ. Bởi họ biết rằng khi cùng nhau thắp lên tình đồng chí vững bền, sức mạnh chung nhất sẽ là sức mạnh mạnh nhất. Mục đích chiến đấu vì quê hương, vì Tổ Quốc của họ sẽ càng mau chóng đạt được. Khi ý chí và mục đích hợp chung con đường, thì tình cảm giữa họ càng thắm thiết, sâu đậm. Người chiến sĩ toàn tâm toàn ý hường theo mủi sung. Chính lúc ấy, các anh bắt gặp một hiện tưỡng kì lạ.

Đầu súng trăng treo.

Trăng bất ngờ xuất hiện chơi vơi lơ lửng nơi đầu súng. Nét sáng tạo độc đáo thể hiện bản lĩnh nghệ thuật của của Chính Hữu qua bài thơ chính là hình ảnh này. Hình ảnh ẩn dụ đó gây được ấn tượng thẩm mĩ sâu sắc với người đọc, đồng thời, nó trở thành hình tượng đa nghĩa độc đáo của thi ca. Hai hình ảnh vầng trăng, cây súng đối lập nhau rất rõ. Một bên là vầng trăng muôn thưở hấp dẫn và kì la, thanh bình với thi ca. Nó biểu tượng cho cuộc sống tươi đẹp, hoà bình, hạnh phúc của nhân loại, đồng thời cũng là ước mơ cuộc sống tượi đẹp hoà bình hạnh phúc. Nhưng trăng ở đây lại được đặt trong mối quan hệ với súng. Một bên là súng, súng biểu tượng cho chiến tranh và cái chết nhưng súng cũng trở thành lí tưởng cao đẹp, tinh thần chiến đấu vì cuộc sống hoà bình dân tộc của ngừơi chiến sĩ. Trăng là vẻ đẹp lãng mạn, súng là hiện thực. Tuy đối lập, nhưng hai hình tượng này đã tôn thêm vẻ đep cho nhau, tạo nên vẻ đẹp hoàn mĩ nhất. Không phải ngẫu nhiên khi Chính Hữu đưa hai hình ảnh ngược nhau trong một câu thơ. Qua đó ông muốn khẳng định cái khát vọng về một cuộc sống yên lành đầy chất thơ: để cho vầng trăng kia sáng mãi, trong hoàn cảnh đất nước lúc bấy giờ, mọi người phải cầm súng chiến đấu. Sự quyện nhuần nhuyễn giữa hiện thực và chất thơ lãng mạn, bay bổng đã làm cho “đầu súng trăng treo” trở thành một trong những hình ảnh đẹp nhất thơ ca kháng chiến chống Pháp. Câu thơ chỉ vỏn vẹn bốn từ nhưng nó bao hàm cả cái tình, cái ý và đặc biệt là sự càm nhận tinh tế của Chính Hữu. Trăng và súng kết thành một không gian thơ trữ tình, là biểu tượng cho tình thần dũng cảm, hào hoa muôn thưở của dân tộc nói chung và ngừơi lính nói riêng. Những ngừơi lính nông dân giờ đây hiện ra với một tư thế khác hẳn, như những người nghệ sĩ đầy chất thơ, bình dị nhưng vẫn đẹp lạ lùng.

Bài thơ đã khơi dậy những xúc động mãnh mẽ trong lòng nhiều thế hệ bằng những nét nghệ thuật đặc sắc. Thể thơ tự do phù hợp với cảm xúc tự nhiên dồn nén của bài thơ. Ngôn ngữ hình ảnh chân thực mà giàu ý nghĩa biểu tượng. Cấu trúc "anh- tôi" sóng đôi đã góp phần thể hiện tư tưởng chủ đề tác phẩm. Bài thơ kết hợp hài hòa các biện pháp tu từ: nhân hóa, ẩn dụ... Tất cả những nét đặc sắc nghệ thuật ấy đã làm nổi bật vẻ đẹp của những người lính cách mạng trong những năm đầu kháng chiến chống Pháp. Họ không khô khan mà bầu nhiệt huyết nung nấu, tràn đầy lòng hy sinh, với tình đồng đội trong sáng, thân ái. Chính những điều đó làm bài thơ “Đồng chí” trên những trang giấy vẫn có lúc được lật lại, vẫn nhỏ từng giọt ngân vang, tưởng đến những con người thần kì mà bình dị với niềm tự hào kiêu hãnh, cho nay và mai sau mãi nhớ về.

Chiến trường nào cũng biết bao gian khổ, trận chiến nào cũng có những mất mát hy sinh. Trong cuộc chiến phòng, chống dịch COVID-19 hiện nay đã đọng lại nhiều hình ảnh xúc động, chạm đến trái tim của hàng triệu người Việt Nam.

Trong cuộc chiến chống lại đại dịch, Việt Nam đã có biết bao anh hùng thầm lặng, không quản gian khó hy sinh, không toan tính đến việc riêng tư hay sự an toàn của bản thân để cứu chữa cho những người bệnh. Trong cuộc chiến cam go, hiểm nguy đó, không thể kể hết tinh thần chống dịch kiên cường, quả cảm của các tầng lớp nhân dân... Những tháng qua, không khó để chúng ta bắt gặp những hình ảnh "ăn núi, ngủ rừng", vội vàng những bữa cơm chiều, rồi đến những đôi mắt thâm quầng vì thiếu ngủ... của đội ngũ y, bác sĩ, chiến sĩ lực lượng vũ trang nơi tuyến đầu “chống giặc” COVID-19, đã lay động hàng triệu trái tim. Tạm gác lại cuộc sống thường nhật, họ phải xa gia đình, người thân yêu để chiến đấu “chống giặc” COVID-19.

Có tận mắt chứng kiến công việc bộn bề của những “người lính áo trắng” mới thấu hiểu hết nỗi gian truân, sự hy sinh cống hiến của họ. Ở nơi tuyến đầu chống dịch, các y bác sĩ, cán bộ, nhân viên y tế luôn hàng ngày túc trực 24/24, lao vào ổ dịch bất kể ngày đêm hoặc cả tháng chưa về đến nhà. Ngày thường, các bác sĩ vốn đã rất bận, nhưng trong mùa dịch vừa điều trị cho các bệnh nhân cũ, vừa phải tiếp nhận các ca cấp cứu mới. Bên cạnh đó còn kiêm thêm nhiệm vụ trực, đo thân nhiệt, nhắc nhở, hướng dẫn bệnh nhân và người nhà đeo khẩu trang, rửa tay sát trùng. Có những y, bác sĩ, nhân viên y tế kiêm nhiệm vụ khuân vác, phân phối hàng hóa…

Còn nhiều lắm những gian truân, hy sinh thầm lặng trong cuộc chiến này, bởi cùng với “chiến sĩ áo trắng” tham gia chống dịch, quân đội, công an luôn là lực lượng tiên phong đi đầu, trực tiếp tham gia phòng, chống dịch COVID-19. Phát huy truyền thống “Trung với Đảng, hiếu với dân”; “Vì nước quên thân, vì dân phục vụ”, mỗi cán bộ, chiến sĩ bộ đội, công an đang ngày đêm dãi nắng dầm sương, tạo thành những "lá chắn thép" ở nơi tuyến đầu trong công tác phòng, chống dịch COVID-19. Các cán bộ, chiến sĩ bộ đội, công an không quản ngại khó khăn, gian khổ, chấp nhận hy sinh, sẵn sàng nhường doanh trại để tiếp nhận người cách ly, dựng hàng chục lều bạt dã chiến “ăn lán, ngủ rừng” để sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt nhiệm vụ bảo vệ cuộc sống bình yên cho nhân dân, thể hiện lòng trung thành tuyệt đối với Đảng, Tổ quốc, sẵn sàng vì nhân dân quên mình.

Khó khăn, vất vả là thế, nhưng ý chí, lòng quyết tâm của các chiến sĩ, các y bác sĩ… chưa bao giờ ngừng lại. Nơi tuyến đầu chống dịch họ đều xác định rằng đây là nhiệm vụ thiêng liêng của mình, sẵn sàng hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao, không quản ngại gian khổ, chấp nhận sự hy sinh, ngay cả những việc riêng tư quan trọng của đời mình...

Hôm nay đây, chúng ta được ngồi trong nhà, ngủ trong nệm ấm chăn êm, được ăn cơm quây quần bên người thân…đã là một điều may mắn và hạnh phúc quá lớn lao. Bởi vì, để cho bạn, cho tôi có được niềm hạnh phúc ấy, có biết bao người đã và đang chịu rất nhiều vất vả thiệt thòi, đánh đổi cả khát khao hoài bão thậm chí là cả sự sống của bản thân để nhường hạnh phúc cho chúng ta. Những hi sinh thầm lặng ấy thật đáng trân quý và cảm phục biết bao!

Sau cơn mưa trời lại sáng. Mong rằng dịch bệnh sẽ sớm được đẩy lùi để mỗi sớm mai thức dậy, chúng ta có thể bình thản ngắm bình minh, không còn phải vội vàng bật ti vi hay điện thoại và nơm nớp lo sợ khi xem tin tức về số ca nhiễm, ca cách li hay ca tử vong vì vi rút Corona. Nhưng để làm được điều đó, ngay bây giờ chúng ta hãy cùng chung tay trong công cuộc chống dịch của cả đất nước và toàn thế giới. Hãy góp sức nhỏ bé của mình bằng những hành động đơn giản nhưng vô cùng thiết thực.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Phát huy truyền thống của dân tộc ta trong các cuộc đấu tranh vệ quốc oanh liệt, hào hùng, trong cuộc chiến này toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta cùng một ý chí, đoàn kết một lòng coi chống dịch như "chống giặc”.