“Kỉ niệm mãi trong ta
Diết
da và lóe sáng.” (Bằng Việt)
Trong
cuộc đời của mỗi chúng ta, ai cũng có cho mình những kỉ niệm lóe sáng để giúp mỗi
người hướng tới chân, mỹ, thiện trong cuộc sống. Bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn
Duy lột tả hết điều mà Bằng Việt từng gửi gắm. Bài thơ thể hiện một chủ đề truyền
thống “Uống nước nhớ nguồn”mà thấm thía bởi nội tâm của nhà thơ từ cái giật
mình đáng quý. Bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy, với lời thơ mộc mạc, chất trữ
tình là tiếng lòng chân thật cất lên từ chất tự sự của một câu chuyện thơ. Đặc
biệt là hai khổ đầu khắc họa rõ nét lối sống đầy tình nghĩa đối với thiên nhiên
đất nước:
Hồi nhỏ sống với đồng
với
sông rồi với bể
hồi
chiến tranh ở rừng
vầng
trăng thành tri kỉ
Trần
trụi với thiên nhiên
hồn
nhiên như cây cỏ
ngỡ
không bao giờ quên
cái
vầng trăng tình nghĩa
Bài
thơ có cấu tứ từ một câu chuyện ngắn, với cách kể linh hoạt của thể thơ năm chữ.
Chất trữ tình làm nền để lời tâm tình mộc mạc, chân chất; lời độc thoại với
lòng mình trước quá khứ, hiện tại; trước cái còn cái mất, trước cái hôm qua –
hôm nay trở thành tiếng lòng của nhà thơ trước cuộc đời. Vầng trăng ở đây
không chỉ là một hình ảnh cụ thể của đất trời mà còn là biểu tượng cho một quá
khứ đẹp đẽ, là mối liên hệ giữa tâm tình riêng và ý nghĩa phổ biến rộng lớn, giữa
nội dung cụ thể và tính khái quát của bài thơ.
Bắt
đầu là câu chuyện kể với giọng bình thản, nhà thơ lặng trôi theo những xúc động
của một quá khứ riêng mình. Không kể, không tả mà là điểm qua từng khoảng không
gian, thời gian. Lời kể lướt qua nhanh mà đủ sức gợi, đủ sức lay động lòng người:
Hồi
nhỏ sống với đồng
với
sông rồi với bể
hồi
chiến tranh ở rừng
vầng
trăng thành tri kỉ
Hai
khoảng thời gian đẹp nhất của nhân vật trữ tình. Đó là “hồi nhỏ” và “hồi
chiến tranh”. Miền kí ức về tuổi thơ êm đềm hạnh phúc nơi ruộng đồng ùa về:
Hồi
nhỏ sống với đồng
với sông rồi với bể
Tuổi
thơ của nhân vật trữ tình được trải rộng trên một không gian bao la, rộng lớn: cánh
đồng, dòng sông, biển cả. Phép liệt kê theo trình tự từ nhỏ hẹp đến xa rộng:
từ những cánh đồng đến dòng sông rồi biển cả. Không gian được mở rộng dần gợi
liên tưởng từ không gian làng quê đến không gian đất nước. Điệp từ “với” kết hợp
cách gieo vần lưng đồng, sông mở ra ba không gian vừa mênh mông vừa gần
gũi. Không phải chỉ là sự gần gũi, thân thiết mà là “sống với” nghĩa là
vô cùng gắn bó. Từ “với” được lặp lại đến ba lần,
thể hiện mạnh mẽ sự hòa hợp giữa thiên nhiên và con người. Cánh đồng, dòng
sông, biển cả là những hình ảnh quen thuộc, gần gũi, thân thương. Đó là không
gian của kỉ niệm. Tuổi thơ nhà thơ được đi nhiều, được cảm nhận những vẻ đẹp của
thiên nhiên thoáng đãng. Thật sung sướng khi được thả hồn trên đồng quê, ngắm
trăng trên dòng sông, trải trên bể. Thiên nhiên bình dị, hiền hòa và đáng yêu.vầng
trăng gắn bó với nhà thơ từ lúc nhỏ. Bao kỉ niệm ấu thơ có
trăng làm bầu bạn. Trăng chia sẻ niềm vui thơ ngây,nâng đỡ bao ước mơ thời niên
thiếu,lưu giữ tất cả những kỉ niệm ngọt ngào, trong sáng nhất của tuổi thơ. Trăng
chính là biểu tượng của quê hương máu thịt, nơi in dấu biết bao kỉ niệm hồn
nhiên, tinh nghịch tuổi thơ. Không gian thơ ấu đẹp hồn nhiên thật.
Nhưng
bước ngoặt lớn đối với tác giả đấy là hồi chiến tranh. Những năm tháng chiến
tranh gian khổ nơi núi rừng - những thăng trầm, vui buồn cua cuộc sống, sự trưởng
thành lớn lên của một con người ở mọi nơi, mọi lúc đều có sự chia sẻ của Trăng-
người bạn tri kỉ:
hồi
chiến tranh ở rừng
vầng
trăng thành tri kỉ
Tại
sao đến lúc này vầng trăng mới thành tri kỉ? Phải chăng trong kháng chiến, xa
quê hương, xa gia đình, đối diện với biết bao gian lao của cuộc kháng chiến, vầng
trăng vô cùng thân thiết, hiểu nhau, không thể thiếu nhau. Trăng và người chiến
sĩ cùng chia ngọt sẻ bùi, đồng cam cộng khổ, cho nên vầng trăng thành tri kỉ.
Trăng được nhân hoá thành người bạn, người tri kỉ gắn bó bằng tâm hồn. Tình cảm
ấy thật bền chặt, sâu sắc; không phô trương hoa mĩ mà bình dị, tự nhiên, không
chút vụ lợi toan tính. Vầng trăng trong sáng tinh khiết kia còn là biểu tượng
cho lý tưởng và tâm hồn cao đẹp của con người. Tâm hồn ấy được nuôi dưỡng từ ấu
thơ, được tôi luyện trong cuộc chiến hào hùng của dân tộc.
Thời
gian thật dài mà tác giả chỉ gói gọn trong bốn dòng thơ thật ngắn gọn. Bốn câu
thơ ấy đã thể hiện một cách ấn tượng sự vận động của các hình ảnh. Phải chăng
con người khi đã lớn lên thì gắn bó “với đồng” – biểu hiện của một tâm hồn
trong sáng, điềm tĩnh. Rồi khi bước chân đi xa hơn đến “với sông”, rồi “với bể”
– biểu hiện của sự trưởng thành và khát vọng vươn xa? Ta
cảm nhận như đang có một nỗi lòng rưng rưng xúc động ẩn hiện trong mỗi dòng
thơ, chỉ chờ dâng trào lên. Và nét độc đáo ở từng chữ mỗi đầu dòng thơ không viết
hoa, phải chăng Nguyễn Duy muốn cho cảm xúc được dào dạt trôi theo dòng chảy của
thời gian, của kỉ niệm?
Khi
vầng trăng tri kỉ xuất hiện, giọng thơ chậm lại đầy suy ngẫm:
Trần
trụi với thiên nhiên
hồn
nhiên như cây cỏ
ngỡ
không bao giờ quên
cái
vầng trăng tình nghĩa
Lại
một vần lưng nữa xuất hiện, âm điệu thơ đi liền mạch trần trụi – thiên nhiên
– hồn nhiên. Hình ảnh ẩn dụ so sánh làm nổi bật chất trần trụi, chất hồn
nhiên cùa người lính suốt những năm tháng ở núi rừng. Đó còn là cốt cách của
người lính:
Trần
trụi với thiên nhiên
hồn
nhiên như cây cỏ.
Con
người đã sống hết lòng với thiên nhiên, con người cũng như cây cỏ là những người
bạn hồn nhiên không thể tách rời. Việc dùng hai tính từ kép
“trần trụi” và “hồn nhiên” ở đầu dòng thơ đã tạo nên một sự khái
quát thật mạnh mẽ và giàu cảm xúc: vẻ đẹp vô tư, hồn nhiên. Trăng tượng trưng vẻ
đẹp thiên nhiên nên trăng đã hòa vào thiên nhiên, hòa vào cây cỏ. Vầng trăng ấy
cũng gắn bó với con người bằng một tình cảm mộc mạc, thủy chung. Ai có thể quên
được người bạn tri kỉ ấy? Lời kể chuyển thành độc thoại từ nội
tâm con người:
ngỡ
không bao giờ quên
cái
vầng trăng tình nghĩa
“Vầng
trăng tình nghĩa” ấy đâu chỉ là thiên nhiên thơ mộng, mát lành. Đó còn là
biểu tượng của quá khứ nghĩa tình, một thời kỉ niệm của cuộc sống gắn bó, hồn
nhiên, trong sáng, một thời chiến tranh lửa đạn, nguy hiểm vẫn bên nhau. Trăng
gắn bó với người là thế tri kỉ là thế vậy mà nhà thơ phải thảng thốt lên: ngỡ
không sao quên được cái vầng trăng nghĩa tình. Một
ý thơ làm lay động đến tâm hồn như một sự thức tĩnh lương tâm đối với những kẻ
vô tình ngỡ không bao giờ quên. Cái vầng trăng tình nghĩa. Từ ngỡ như một điểm
nhấn, một dấu hiệu đặc biệt. Nó gợi cho ta suy nghĩ. Cuộc sống còn có bao điều ta không ngờ đến được,
cái hạnh phúc bình dị, giản đơn ta đã có đôi khi lại để tuột khỏi tay, tự mình
đánh mất mình, đánh mất cả những gì thiêng liêng quý giá nhất. Con người trước
dòng đời đua chen xô đẩy, cái hào nhoáng, hoa mĩ, tráng lệ trước mắt ánh điện cứa
gương đã khiến họ quên đi những hạnh phúc bình dị thuở nào; quên đi những ki niệm
một thời vất vả khó khăn và cũng vô tình lãng quên đi một người bạn tri kỉ ân
tình. Từ “ngỡ” như một lối rẽ đưa ý thơ theo hướng khác: đó là giá trị của
ngôn từ, là nhãn tự trong bài, là tài năng thể hiện của nhà thơ mà ta không dễ
gì nhận ra được. Vì vậy Ngỡ rằng con người không bao giờ
quên hình ảnh sâu đậm ấy. Thế mà khi hoàn cảnh thay đổi, con người trở nên vô tỉnh,
trở thành kẻ “ăn ở bạc”.
Những
năm tháng con người sống thật nhất với mình, trần trụi,hồn nhiên là khi con người
ta trân trọng, đinh ninh một lời thề son sắt “ngỡ không bao giờ quên,cái vầng
trăng tình nghĩa” Từ ngỡ là chiếc cầu nối ngôn từ vừa khép lại thời quá khứ vừa
mở ra thời hiện tại tạo nên sự chuyển tiếp cho khổ thơ tiếp theo. Ánh
trăng ở đây không còn đơn thuần là một người bạn tri kỉ nữa, nó là chứng nhân của
năm tháng con người, là thứ biểu tượng cho quá khứ. Con người sống ở hiện tại,
hướng tới tương lai nhưng không được phép quên đi cái quá khứ ngày xưa đã từng
gian khổ đi lên. Đây là chân lý, là bài học mà tác giả Nguyễn Duy muốn gửi gắm
tới chúng ta qua hai khổ đầu bài thơ Ánh trăng này.
Thể
thơ năm chữ đã được vận dụng sáng tạo, tài hoa. Sự phong phú vần điệu, ngôn ngữ
trong sáng, giọng thơ tâm tình vừa hướng nội vừa hướng ngoại. Nhà thơ tâm sự với
người đọc những sâu kín nhất nơi lòng mình. Chất triết lí thâm trầm được diễn tả
qua hình tượng “ánh trăng" đã tạo nên giá trị tư tưởng và nghệ thuật của
bài thơ: không nên sống vô tình, phải thủy chung trọn vẹn, phải nghĩa tình sắt
son.
“Ánh
trăng" của Nguyền Duy gây được nhiều xúc động đối với nhiều thế hệ độc giả
bởi cách diễn tả bình dị như những lời tâm sự, lời tự thú, lời tự nhắc nhở
chân thành. Giọng thơ trầm tĩnh, sâu lắng. Tứ thơ bất ngờ, mới lạ. “Ánh trăng”
còn mang ý nghĩa triết lí về sự thủy chung khiến người đọc phải “giật
mình" suy nghĩ, nhìn lại chính mình để sống đẹp hơn, nghĩa tình hơn. Qua
bài thơ này, chúng ta cũng nên nhìn lại cách sống của bản thân để sống tốt đẹp
hơn.