Từ xưa, ông cha ta vẫn thường thể hiện sự đề
cao phẩm hạnh hơn là việc coi trọng nhan sắc của người phụ nữ. Điều đó đã được
thể hiện qua câu tục ngữ quen thuộc: “Cái nết đánh chết cái đẹp” và cũng được
nhắc đến trong ca dao: “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn” – “Xấu người đẹp nết còn hơn đẹp
người”. Quan niệm đó của người xưa cho thấy sự ưu ái dành cho những cái đẹp thuộc
về tâm hồn, tính cách hơn là những vẻ đẹp về ngoại hình. Thế nhưng, phải chăng
là sẽ hoàn hảo hơn nếu ở người phụ nữ có sự hội tụ cả về những nét đẹp về phẩm
chất và đức hạnh? Cách nhìn mới mẻ ấy đã được chính Nguyễn Du khai phá và thể
hiện khi miêu tả hai chị em Thúy Kiều trong tuyệt tác “Truyện Kiều” và đặc biệt
là trong những dòng thơ của đoạn trích “Chị em Thúy Kiều”.
Đoạn trích nằm ngay ở phần đầu của tác phẩm
“Truyện Kiều”. Đoạn trích gồm có hai mươi bốn câu thơ, cụ thể là từ câu 15 đến
câu thứ 38 của tác phẩm. Đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” có kết cấu gồm bốn phần.
Ở mỗi phần ông đã dành những lời văn trang trọng để nói về bức chân dung của Kiều
và Vân. Giữa hai chị em bên cạnh những nét chung còn mang những nét đẹp riêng.
Nét đẹp ấy còn dự báo trước được cuộc đời của chị em Kiều. Bức chân dung và cuộc
sống của chị em Kiều hiện lên thật sinh động và cụ thể.
Nguyễn Du đã có bốn cậu thơ đầu đầy ấn tượng phác
họa những nét vẽ ban đầu trong bức chân dung về vẻ đẹp của hai chị em Nguyễn Du:
“Đầu lòng hai ả tố nga,
Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân.
Mai cốt cách tuyết tinh thần,
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười.”
Bằng cách giới thiệu hai “ả tố nga” vừa
ngắn gọn vừa giản dị hết sức ấn tượng đầy đủ. Trong gia đình họ Vương có hai cô
con gái đầu lòng đẹp như “Hằng Nga”. Người
chưa xuất hiện mà đường như bóng dáng đang thấp thoáng qua tấm màn mỏng gợi một
vẻ đẹp bí ẩn chưa khám phá. Càng tò mò, ta càng muốn khám phá vẻ đẹp của hai ả
tố nga và chỉ biết là tố nga tức người con gái đẹp nhưng chưa biết đẹp thế nào.
Và họ xuất hiện trong nét đẹp vừa duyên dáng, thanh cao của “mai cốt cách” và sự
trong sáng, tinh khôi tựa “tuyết tinh thần”.
Mai cốt cách tuyết tinh thần,
Câu thơ được viết dựa trên bút pháp nghệ thuật
ước lệ quen thuộc trong văn học cổ. Thông qua việc sử dụng hình tượng thiên
nhiên đẹp như mai, tuyết, tác giả đã gợi ra dáng dấp mảnh dẻ, thanh tao tựa đóa
mai và sự trong trắng, tinh khiết như bông tuyết ở họ. Đó là một vẻ đẹp thanh
tao, đài các, cao sang, lịch lãm của những người con gái vốn xuất thân trong những
gia đình trung lưu khá giả, nề nếp, gia phong. Với những từ ngữ và hình ảnh có
sức gợi ấy, nhà thơ dường như muốn người đọc có thể cảm được sự “mười phân vẹn
mười” trong vẻ đẹp ở cả hai chị em Thúy Vân và Thúy Kiều.
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười.
Nguyễn Du đã khắc họa được vẻ đẹp từ hình dáng
cho đến tâm hồn của hai chị em Kiều. Viết theo những phép tắc sẵn cổ nhưng ông
không viết lại y nguyên mà thêm vào đó những câu chữ chứa đựng cảm tình yêu mến,
trân trọng. Lời khen được ông chia đều cho cả hai, cả hai không giống nhau, mỗi
người một nét riêng nhưng nét nào cũng mười phân vẹn mười. Vẻ đẹp của hai chị em được coi là chuẩn mực của
cái đẹp đương thời trong xã hội lúc bấy giờ.
Những câu thơ tiếp theo trong đoạn trích, Nguyễn
Du vẽ ra trước mắt người đọc bức chân dung tuyệt mĩ của Thúy Vân. Nàng xuất hiện
với những nét đẹp rất phúc hậu và quý phái:
“Vân xem trang trọng khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang.
Hoa cười ngọc thốt đoan trang,
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da.”
Chỉ với bốn dòng thơ nhưng đủ gợi tả một vẻ đẹp
của một cô gái đang độ tuổi trăng rằm. Đó là sự “trang trọng khác vời” với
nét cao sang, quý phái. Vẫn với việc sử dụng bút pháp nghệ thuật ước lệ, vẻ đẹp
của Thúy Vân đã được nhà thơ so sánh qua những hình tượng cao đẹp của thiên
nhiên. Ta ngây ngất trước vẻ đẹp mà thiên nhiên ban tặng cho Thuý Vân. Ông tả
Thuý Vân bằng những hình ảnh rất cụ thể. Về
gương mặt của nàng, tác giả dùng từ “đầy đặn”, nhắc đến dáng mày, tác giả
dùng từ “nở nang”. Đây đều là những từ có sức gợi về sự viên mãn, phúc hậu
và đủ đầy. Còn khi nói về tiếng cười, giọng nói của Vân, nhà thơ đem đối sánh với
vẻ tươi tắn của đóa hoa và sự đoan trang của viên ngọc để làm cho bức chân dung
về Vân thêm hoàn thiện, tạo nên sự tương ứng giữa chân dung ngoại hình với nụ
cười, lời nói. Không những thế, Vân còn nổi bật với mái tóc bồng bềnh, óng ánh
khiến mây phải chào thua và làn da tươi sáng, mịn màng khiến tuyết cũng nhường
bước. Trong cách miêu tả Thúy Vân, tác giả đã dụng công liệt kê để cụ thể hóa
những đặc điểm về nhân vật như: khuôn mặt, lông mày, nụ cười, lời nói, mái tóc,
làn da… Với mỗi một đặc điểm, nhà thơ lại sử dụng đi kèm với hình ảnh so sánh ẩn
dụ: khuôn mặt giống như sự tròn trịa, đầy đặn của vầng trăng trời; lông mày
sắc sảo, đậm nét như con ngài; nụ cười tươi tắn không khác gì đóa hoa tươi; giọng
nói thanh thoát, trong trẻo thốt lên từ hàm răng ngà ngọc duyên dáng. Mái tóc của
nàng thì óng mượt, bồng bềnh hơn mây còn làn da thì tươi tắn, sáng người hơn cả
tuyết… Cách khắc họa vẻ đẹp nhân vật rất tỉ mỉ, tinh tế đó của nhà thơ đến
cuối cùng đã làm nổi bật nên ở nàng một vẻ đẹp phúc hậu và quý phái. Từng đường
nét, đặc điểm của tướng mạo Thúy Vân làm toát lên sự phúc hậu về sau trong cuộc
đời của nàng. Nói như vậy vì qua từ ngữ miêu tả, vẻ đẹp của Vân thường có sự êm
đềm, hòa hợp với xung quanh, nó khiến cho “mây thua”, “tuyết nhường”. Phép ẩn dụ
và nhân hoá được sử dụng hết sức thành công trong bốn dòng thơ miêu tả Thuý
Vân. Tác giả mang hết mọi vẻ đẹp trong sáng, tinh khôi nhất trong thiên nhiên
như trăng, hoa, mây, tuyết, ngọc để so sánh vẻ đẹp quí phái, cao sang của nàng,
vẻ đẹp của Thuý Vân còn hơn cả những cái tinh khôi nhất của thiên nhiên và
thiên nhiên bị khuất phục trước vẻ đẹp của nàng. Vì lẽ đó nên nó dự báo sự suôn
sẻ, bình lặng mà nàng sẽ có được. Điều này đã được thể hiện rất rõ trong phần kết
thúc của “Truyện Kiều”, thật sự Vân đã được sống trong những tháng ngày vui vầy,
hạnh phúc trong mái ấm của mình:
“Một nhà phúc lộc gồm hai,
Nghìn năm dằng dặc, quan giai lần lần.
Thừa gia chẳng hết nàng Vân,
Một cây cù mộc, một sân quế hòe.
Phong lưu phú quý ai bì,
Vườn xuân để cửa, để bia muôn đời.”
Sau khi khắc họa bức chân dung của Thúy Vân,
Nguyễn Du đã dành những câu thơ tiếp theo để gợi tả vẻ đẹp Thúy Kiều. Cũng như
khi tả Vân, ở câu thơ đầu của đoạn này, nhà thơ dùng để khái quát đặc điểm của
nhân vật và sau đó là những nét vẽ cụ thể hơn về chân dung người con gái này:
“Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn”
Trong cách giới thiệu của nhà thơ, Nguyễn Du
đã cho thấy những điểm nổi trội của Kiều so với Vân. Đến đây ta mới hiểu rõ tại
sao Thuý Vân được Nguyễn Du tả trước Thuý Kiều. Nguyễn Du muốn tả Thuý Vân trước
để làm nền rồi so sánh với Thuý Kiều, qua đó thấy rõ sự nổi trội của Thuý Kiều.
Đó là nghệ thuật đòn bẩy. Lúc đầu ta cứ ngỡ không ai có thể đẹp bằng Thuý Vân bởi
bức chân dung Thuý Vân đã tuyệt hảo, hoàn mĩ. Nhưng không ngờ Vân đã đẹp nhưng
Kiều lại “càng sắc sảo mặn mà” và có “phần hơn” ở tài lẫn sắc. Các
từ càng, phần hơn đã cho thấy Thuý Kiều hơn Thuý Vân, nổi trội hơn Thuý
Vân cả về tài lẫn sắc. Như thế ta thấy rõ sự khác nhau giữa hai vẻ đẹp: một người
đoan trang, ưa nhìn và đẹp nhẹ nhàng, thanh thoát, còn một người lại sắc sảo mặn
mà khiến cho người ta phải “nhìn càng đắm, ngắm càng say”.
Về nhan sắc, vẻ đẹp của Kiều khiến cho tạo vật
phải sinh lòng đố kị, ganh ghét:
“Làn thu thủy, nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.”
Khi nói về vẻ đẹp của Thúy Kiều, Nguyễn Du chỉ
thể hiện qua việc đặc tả đôi mắt: “Làn thu thủy, nét xuân sơn”. Nhưng
chính ánh mắt đẹp, trong sáng như mùa thu cùng với đôi mày thanh thoát, đầy sức
sống như nét núi mùa xuân lại làm bừng sáng lên nét đẹp mà Kiều sở hữu. Đó là
nét đẹp của một giai nhân tuyệt thế. Chỉ
bằng sự ngời sáng của đôi mắt, bao nhiêu cái “sắc sảo” của trí tuệ, bao
nhiêu cái “mặn mà” của tâm hồn đều toát lên thật lung linh, rạng rỡ… Thật
sự, ánh mắt trong sáng, linh hoạt như sự sống động, long lanh của “làn thu
thủy” cộng thêm sự thanh tú, phơi phới của khí xuân của đường nét đôi lông
mày đã cho thấy ngòi bút tài tình của nhà thơ trong việc sử dụng biện pháp ước
lệ khi miêu tả nhân vật. Từ đôi mắt xanh trong ấy, ta cảm nhận Kiều đang dạt
dào sức sống thanh xuân và còn thấy được, độ sâu thẳm trong tâm hồn nàng.
Nếu vẻ đẹp “trang trọng khác vời” của
Vân chỉ làm cho “mây thua”, “tuyết nhường” thì cái sắc của Kiều lại khiến
cho “liễu hờn”, “hoa ghen”. Hoa và liễu vốn là những loài thuộc thế giới
tự nhiên, vô tri vô giác nhưng đứng trước nét đẹp của Kiều chúng cũng sinh lòng
ghét hờn. Đọc câu thơ này ta thấy hơi rùng mình. Những từ “ghen, hờn” được
tác giả nhân hoá để dùng cho hoa và liễu là những loài đẹp nhất, dịu dàng, tươi
thắm nhất thế mà phải thua Thuý Kiều. Chúng đố kị, ghen ghét với nàng. Mượn cây
lá thiên nhiên, Nguyễn Du muốn dự báo và suy ngẫm về tương lai, cuộc đời Thuý
Kiều: “Một vừa hai phải ai ơi. Tài tình chi lắm cho trời đất ghen” (ca
dao). Đây được xem như là một qui luật, định mệnh khắc nghiệt với con người, đặc
biệt là người phụ nữ.
Vẻ đẹp của Thuý Kiều không thể tả rõ được, chỉ
có thể hình dung. Đó là một tuyệt thế giai nhân.
Một hai nghiêng nước nghiêng thành.
Sắc đẹp đó có thể khiến người ta say mê đến nỗi
mất thành, mất nước.
Nàng Kiều của Nguyễn Du không chỉ rạng rỡ về
nhan sắc mà còn hội tụ cả sắc lẫn tài thông qua câu:
Sắc đành đòi một, tài đành hoạ hai
Nguyễn Du không ngần ngại ngợi ca Thúy Kiều là
một người thiếu nữ đẹp tuyệt trần, cũng không những thế đâu mà tài năng của
Thúy Kiều như thật xuất sắc, xuất sắc đến nỗi trên đời này phải chăng không có
người thứ hai sánh bằng Thúy Kiều được. Nàng Kiều có tài năng đạt đến sự lí tưởng:
“Thông minh vốn sẵn tính trời,
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm.
Cung thương làu bậc ngũ âm,
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương.
Khúc nhà tay lựa nên chương,
Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân.”
Với sáu câu thơ ngắn gọn, Nguyễn Du đã có thể
giải thích ý tài đành hoạ hai. Đã vốn được trời ban cho một trí tuệ thông minh,
sáng suốt lại có ý chí học hỏi, luyện tập thì tất nhiên là khó có người vượt
qua nổi. Cái tài của Kiều được miêu tả trong sự hoàn hảo về cả cầm (đàn), kì (cờ),
thi (thơ) và họa (vẽ). Nàng đặc biệt nổi trội về “cầm”.
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương.
Có thể soạn được riêng cho mình một bản nhạc
“bạc mệnh” là một bằng chứng cho cái tài về đàn ca đó của Kiều. Ở xã hội phong
kiến, nơi mà người phụ nữ không có cơ hội thể hiện trí tuệ của mình, thế mà
Thuý Kiều lại thể hiện được, đó là chuyện hiếm có vô cùng. Tài đàn có sức chinh
phục tuyệt đối của Kiều dựa trên sự rung cảm có tính sáng tạo của người nghệ sĩ
Cái khúc nhạc bạc mệnh mà Kiều tạo ra khiến ai nghe đều não lòng, sầu khổ.
Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân
Cung đàn được vang lên bởi một người thiếu nữ
dường như đa sầu đa cảm. Nó càng thể hiện sự hoà hợp giữa tâm hồn nàng và âm nhạc,
một tâm hồn đa cảm và những khúc nhạc buồn. Khúc nhạc “Bạc mệnh” nàng dạo mang
lại sự não nề trong lòng người khiến cho người ta có dự cảm về những muộn phiền,
âu sầu mà Kiều sẽ gặp phải trên đường đời.
Vẻ đẹp “nghiêng nước nghiêng thành” Kiều
có mang lại sự hờn ghét vốn đã tiềm ẩn những bất hạnh có thể xảy ra và khi đến
với thơ ca như một sự giãi bày nỗi niềm, tâm trạng, Kiều cũng lại chọn giai điệu
nghe buồn bã, nao nao càng làm cho những dự báo về sự bạc mệnh thêm rõ ràng.
Tuy nhiên, thông qua cách Nguyễn Du khắc họa bức chân dung về Thúy Kiều, ông đã
cho thấy sự trân trọng, ca ngợi của mình dành cho nhân vật. Nàng không chỉ mang những vẻ đẹp nổi bật về phương
diện ngoại hình mà còn là người hoàn hảo khi có cả tài năng và tâm hồn nhạy cảm.
Khi đã hoàn thiện những nét vẽ về bức chân
dung hai chị em, Nguyễn Du còn cho thấy cách sống nề nếp, mực thước của cả hai
người trong những câu thơ cuối:
“Phong lưu rất mực hồng quần,
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê.
Êm đềm trướng rủ màn che,
Tường đông ong bướm đi về mặc ai.”
Hai nàng xuất thân từ một gia đình quyền quý
nhưng dù sống phong lưu nhưng cả hai đều biết giữ sự khuôn phép, gia giáo của
gia đình đặc biệt là khi đã “xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê”, nếp sống tốt đẹp
ấy vẫn được hai chị em một mực tuân theo. Vẻ đẹp ấy như một thứ trái cây chín
ngọt, độ tuổi tươi đẹp nhất của người con gái. Điều này đã làm cho vẻ đẹp của
hai chị em thêm phần hoàn hảo và giúp cho người đọc càng thêm trân trọng và mến
yêu họ bởi những giá trị đáng quý ấy.
Bằng cả tài và tâm của mình, đại thi hào Nguyễn
Du thật tài tình khi đã khắc họa chân dung hai nhận vật một cách sống động và sắc
nét. Nguyễn Du đã diễn tả được sự hoàn mĩ trong nhan sắc và cốt cách của Thuý
Kiều, Thuý Vân. Cả vẻ đẹp lẫn tài năng nhân vật, tuy được vẽ ra rất khéo, bút
pháp đa dạng (mỗi nhân vật có một cách vệ riêng) nhưng vẫn nằm trong khuôn khổ
của nghệ thuật và tư tưởng thời trung đại, với những đường nét ước lệ, cao
quý. Nguyễn Du không những thành công trong việc khắc họa chân dung mà còn
thông qua đó cũng lại nói lên những dự cảm về số phận của hai chị em. Đặc biệt
bức chân dung của Thúy Kiều chính là một chân dung mang tính chất số phận hội tụ
đủ các yếu tố như sắc, tài, tình, mệnh.
Đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” đã phần nào cho
thấy sự biểu hiện của cảm hứng nhân đạo của Nguyễn Du khi đã thể hiện thái độ
trân trọng, đề cao những giá trị của người phụ nữ. Vẻ đẹp về nhan sắc, phẩm hạnh
và tài năng của họ thông qua cách thể hiện của Nguyễn Du đã giúp họ trở thành
những hình tượng lí tưởng và hoàn hảo trong trái tim người đọc bao thế hệ.