Thân phận người phụ nữ vốn mỏng manh
cần được bảo vệ, chở che nhưng trong xã hội phong kiến đau đớn thay, thân phận ấy
lại bị cuộc đời vùi dập. Kể cả Thúy Kiều – người con gái tài sắc vẹn toàn ấy
cũng không thể thoát khỏi sự trớ trêu xoay vần của con tạo. Cuộc đời của Kiều
luôn lẩn quẩn trong vòng xoáy của cuộc đời, chìm đắm trong nỗi buồn sầu tủi
miên man. Tâm trạng của Kiều ở lầu Ngưng Bích chính là khi bi kịch ấy được đẩy
lên đến đỉnh điểm về số phận của nàng Kiều tài hoa mà truân chuyên. Nàng phải đối diện với chính mình
trong nỗi đau bi kịch. 6 câu thơ đầu đoạn trích là bức tranh phong phú và sinh
động về ngoại cảnh và tâm cảnh:
“Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân,
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung.
Bốn bề bát ngát xa trông,
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia.
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.”
Lầu Ngưng Bích mà Tú Bà dành cho Kiều
ở thật ra là cái cạm bẫy để rồi đưa nàng vào cuộc đời của một cô gái lầu xanh.
Tâm trạng của Kiều ở lầu Ngưng Bích là dự cảm về những đắng cay mà nàng sắp sửa
phải gánh chịu. Đoạn thơ trích là một bức tranh buồn, một nỗi buồn xót xa của
thân gái dặm trường phải đối với bao nghiệt ngã ở chính mình – một nỗi buồn xa
xót, thê lương, buồn từ lòng người thấm vào cảnh vật, buồn từ cảnh vật xoáy vào
lòng người; một nồi buồn của con người hoàn toàn cô đơn giữa khung cảnh thiên
nhiên vắng lặng.
Tâm trạng của Kiều ở lầu Ngưng Bích
chính là những nỗi cô đơn đầy rợn ngợp trước khung cảnh thiên nhiên. Một mình
nơi lầu Ngưng Bích, Kiều đã có những khoảng lặng cần thiết để suy ngẫm về cuộc
đời, thân phận mình. Thiên nhiên nơi đây tuy mang vẻ đẹp thanh tao nhưng không
khiến nàng khuây khỏa mà ngược lại càng khiến nàng cảm thấy cô đơn, lạc lõng.
“Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân,
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung.
Bốn bề bát ngát xa trông,
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia.”
Ngay câu thơ mở đầu đoạn trích, Nguyễn
Du đã nêu bật lên cảnh ngộ đáng thương của Kiều. Kiều đã hoàn toàn ý thức về hiện
thực của nàng. Điều ấy được thể hiện qua từ “khóa xuân”. “Khóa xuân” có nghĩa
là khóa kín tuổi xuân và ở đây ý nói về việc Kiều đang bị giam lỏng. Lầu Ngưng
Bích như là nhà tù giam lỏng cuộc đời Kiều. Đối với Kiều, tuổi xuân của nàng đã
mất đi từ chính cái giây phút nàng quyết định bán mình chuộc cha, dập tắt mối
tình với Kim Trọng. Kiều thật đáng thương. Không được tự do, nàng phải chịu biết
bao đau đớn dằn vặt. Nàng phải xa gia đình, một mình lưu lạc đến nơi xa lạ,
tương lai thì vô định mù mịt. Nguyễn Du đã đặt nhân vật trong cảnh ngộ ấy để
nàng tự bộc lộ nỗi lòng mình.
Cảnh vật do đó nhuốm màu tâm trạng. Cảnh
vắng lặng, tuyệt đối không có một chút âm thanh, một bóng người như càng được
cô lập Kiều trong sự cô đơn đến rợp người. Có cả “vẻ non xa” lẫn “tấm trăng gần”
nhưng cảnh vật ấy chẳng thể nào gợi lên một chút tươi vui hay ấm áp. Kiều và
thiên nhiên “ở chung” một bầu trời nhưng Kiều vẫn cô đơn. Nhà thơ đã dùng hai
chữ “ở chung” thật khéo. Kiều trông thấy tất cả những thứ đó nhưng với nàng,
chúng chẳng khác gì nhau và càng không có gì đặc biệt. Cảnh vật trước mắt nàng như
nhạt nhòa mọi ranh giới, bị phá vỡ để mở ra một khoảng không gian mênh mông. Hai
yếu tố trái ngược non xa, trăng gần tưởng như phi lí nhưng thực ra đã diễn tả rất
chính xác sự trống trải của cảnh vật qua con mắt của Kiều. Cái lầu cao ngất nghểu, trơ trọi ấy
giam hãm một thân phận trơ trọi. Không một bóng người, không một sự chia sẻ, chỉ
có một thiên nhiên câm lặng làm bạn.
Từ điểm nhìn trên cao, Kiều lại chuyển
điểm nhìn về mặt đất. Cơ hồ, nàng đang tìm một điểm tựa nhìn càng tìm kiếm thì
càng vô vọng. Xung quanh nàng chỉ là “bốn bề bát ngát”. Càng trông ra xa thì lại
càng thấy những cảnh tượng kỳ vĩ, nào là cồn cát vàng, nào là thứ bụi hồng do
gió trời bốc lên thành từng đợt, từng đám. Có thể nói rằng trước lầu Ngưng
Bích, trong tầm mắt của Kiều là một khung cảnh thiên nhiên rất đẹp được gợi ra
bởi những hình ảnh ước lệ như trăng, núi, cồn cát, bụi hồng. Nhưng nó lại quá đỗi
rộng lớn, quá đỗi bao la, dường như nuốt chửng cả cái sự tồn tại của con người.
Trong không gian rộng lớn ấy cái cảm giác lạc lõng, cô đơn tột cùng và đặc biệt
còn là sự sợ hãi bủa vây tâm hồn Kiều. Cái vắng lặng của thiên nhiên và cái
mênh mông của đất trời đã khắc sâu vào trong lòng người cảm giác cô đơn.
Với Kiều, không gian rộng rãi, trống
trải ấy chỉ càng khiến nàng suy nghĩ về cuộc đời mình:
“Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng”
Nỗi buồn của Kiều như thấm đẫm cả
không gian, thời gian. Cụm từ “mây sớm đèn khuya” gợi được vòng thời
gian tuần hoàn, đó là một vòng tròn khép kín. Cuộc sống của con người trong
vòng thời gian lặp lại ấy cũng đơn điệu nhàm chán. Không chỉ không gian mà dường
như cả thời gian cũng giam hãm con người, dồn con người vào bước đường cùng.
Kiều chỉ có một mình để tâm sự,
để đối diện với chính mình. Tất cả chỉ còn là “bẽ bàng” mà thôi. Kiều xấu hổ, tủi thẹn nghĩ đến việc
buộc phải làm vợ Mã Giám Sinh, bị Tú Bà la mắng khi vừa bước chân đến lầu xanh
và bị ép phải tiếp khách làng chơi. Trong lòng Kiều hiện tại có biết bao nhiêu
nỗi niềm, biết bao sự ấm ức không thể chia sẻ cùng ai. Nỗi niềm ấy cho thấy nỗi
đau đớn tột cùng “nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng”. “Nửa tình, nửa cảnh”,
buồn rồi nhớ, đợi chờ, hi vọng rồi thất vọng “như chia tấm lòng “, nối nhau đến
rồi đi trong lòng nàng như thế.Sự cô đơn đến rợn ngợp, trào dâng trong tâm hồn
của Kiều. Sự cô đơn ấy như bóp chặt trái tim nàng, dập tắt đi mọi hy vọng. Nàng
cô đơn gần như tuyệt đối.
Chỉ sáu câu thơ, bằng nét bút chấm
phá tài hoa, bức tranh thiên nhiên luôn làm nền cho hoạt động nội tâm của Kiều.
Cảnh tình như hòa hợp làm một: cảnh buồn, tình buồn, ngổn ngang tâm trạng buồn
tủi, cô đơn của Kiều thể hiện sâu lắng. Qua đó chúng ta thấy được sự thành công
của Nguyễn Du trong việc sử dụng bút pháp tả cảnh ngụ tình.
Nghệ thuật tả cảnh với những chi tiết
được chọn lọc kỹ càng, chấm phá. Nghệ thuật miêu tả tâm trạng con người khéo
léo, sâu sắc, tả cảnh ngụ tình tinh tế, tài tình. Đoạn trích “Kiều ở Lầu Ngưng
Bích”thể hiện ngòi bút tài năng của nhà thơ Nguyễn Du, một thiên tài đỉnh cao
nghệ thuật. Tác giả đã để thiên nhiên nói hộ tâm trạng của con người.
Những câu thơ lục bát tinh tế, sắc sảo
đã trải qua bao năm tháng vẫn làm say đắm lòng người. Nguyễn Du không chỉ tài
tình khi chọn được âm điệu thơ, lựa được những từ ngữ và hình ảnh phù hợp với
tâm trạng nhân vật, nhà thơ còn thông cảm sâu sắc với tâm trạng, hoàn cảnh của
Kiều và yêu thương nàng biết bao. Dường như ta nghe được cả sự đồng cảm lẫn tiếng
lòng âm vang của Nguyễn Du đối với một thiếu nữ tài sắc vẹn toàn nhưng bất hạnh
từ những câu thơ ấy: Tố Như rơi lệ chảy quanh thân Kiều.