Nguyễn Duy thuộc
thế hệ nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Thế hệ
này từng trải qua bao thử thách, gian khổ, từng chứng kiến bao hy sinh lớn lao
của dân tộc trong một thời mưa bom bão đạn, từng sống chết gắn bó cùng thiên
nhiên, cùng đồng đội tình nghĩa. Rồi khi chiến tranh kết thúc, cuộc sống hòa
bình luôn mang lại cho con người cảm giác thoải mái, yên bình, nhưng cũng thay
đổi nhiều thói quen, cách sống mà không phải ai cũng ghi nhớ những gian nan, những
nghĩa tình của thời đã qua. Bài thơ Ánh trăng là một lời tâm sự
chân thành, là một lời nhắc nhở về ý nghĩa cuộc sống, là một lần “giật mình”
trước cái điều vô tình ấy.
Ánh trăng luôn
là nguồn cảm hứng của thi ca. Chúng ta có một “Làn ao lóng lánh bóng trăng
loe” trong Thu ẩm - Nguyễn Khuyến, có một “bến sông
trăng” lãng mạn của Hàn Mặc Tử, có một vầng trăng tri kỉ của thi nhân “Người
ngắm trăng soi ngoài cửa sổ / Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ “ (Hồ
Chí Minh )… Nhưng với Nguyễn Duy, ánh trăng mang một hàm nghĩa mới. Đó là hình ảnh
của quá khứ, là nhân dân, là người lính, là lý tưởng chiến đấu… Bài thơ gây ấn
tượng bởi lối sáng tạo đặc biệt. Chữ đầu mỗi câu thơ không viết hoa. Phải chăng
nhà thơ muốn cảm xúc được dạt dào trôi theo dòng chảy của kỉ niệm?
Ánh trăng trước
hết là tiếng lòng, là suy ngẫm của riêng Nguyễn Duy nên nó mang dáng dấp một
câu chuyện nhỏ được kể theo trình tự thời gian. Dòng cảm nghĩ trữ tình của nhà
thơ cũng men theo dòng tự sự này mà bộc lộ. Ở quãng thời gian quá khứ đã có một
biến đổi, một sự thực đáng chú ý: hồi nhỏ rồi thời chiến tranh sống hồn nhiên,
gần gũi với thiên nhiên đến tưởng không bao giờ quên cái vầng trăng tình nghĩa.
Ấy thế mà từ hồi về thành phố, quen sống với những tiện nghi hiện đại, vầng
trăng tình nghĩa như người dưng qua đường nhưng sự việc bất thường ở khổ thơ thứ
tư là bước ngoặt để từ đó tác giả bộc lộ cảm xúc, thể hiện chủ để tác phẩm.
Mở đầu bài thơ
là câu chuyện xảy ra trong quá khứ - lúc người lính còn nhỏ và hồi chiến tranh ở
rừng:
“Hồi nhỏ sống
với đồng
với sông rồi
với biển
hồi chiến
tranh ở rừng
vầng trăng
thành tri kỷ”
Chỉ với bốn
câu thơ ngắn của khổ thơ đầu tiên, nhà thơ đã tái hiện lại những khoảnh khắc
đáng nhớ trong cuộc đời người lính. Trong kỷ niệm, trong câu chuyện có đồng,
sông, bể, rừng nghĩa là có tất cả những không gian sự vật quen thuộc của đất nước,
có mọi thứ của thiên nhiên có thể gắn bó với con người, che chở cho con người,
nuôi sống con người. Chữ “hồi” ở câu thứ nhất và câu thứ ba làm cho
khổ thơ như có một chỗ dừng chân giữa ranh giới giữa tuổi thơ và lúc trưởng
thành, và người chỉ đường dẫn lối chính là ánh trăng. Không phải là vầng trăng
bình thường mà là “vầng trăng thành tri kỉ”. “Tri kỉ” nghĩa là vầng
trăng và người trở thành đôi bạn tri âm tri kỉ, biết bạn, hiểu bạn như hiểu
mình. Hình ảnh đôi bạn tâm giao trăng – người chiến sĩ đã từng xuất hiện rất
nhiều trong thơ ca. Đó có thể là hình ảnh người chiến sĩ nằm ngủ dưới trăng
trong thơ Bác: “Việc quân, việc nước bàn xong/ Gối khuya ngon giấc bên song
trăng nhòm.” (Đối nguyệt); cũng có thể giữa rừng khuya sương muối,
trăng làm bạn với người chiến sĩ đứng chờ giặc tới: “Đêm nay rừng hoang
sương muối / Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới / Đầu súng trăng treo.” (Đồng
chí – Chính Hữu). Vầng trăng tri kỷ cũng là vầng trăng bạn bè, thủy
chung cùng nhau chia sẻ tâm sự.
Không gian bài
thơ rộng mở như trải rộng mênh mông “đồng – sông – biển – rừng” theo những
thước phim của ký ức “hồi nhỏ - hồi chiến tranh” nhẹ nhàng sâu lắng để
khơi gợi những kỷ niệm dạt dào in dấu ấn sâu đậm thành nỡi nhớ. Đến khổ thơ thứ
hai là một lời giải vì sao trong quá khứ, trăng và người là tri âm tri kỉ. Bởi
vì lúc đó, con người sống hòa mình với thiên nhiên, gắn bó gần gũi với thiên
nhiên, hồn nhiên như cành cây ngọn cỏ…
“Trần trụi
với thiên nhiên
hồn nhiên
như cây cỏ
ngỡ không bao
giờ quên
cái vầng
trăng tình nghĩa”
Những từ “trần
trụi”, “hồn nhiên” thật dung dị, gần gũi như tâm hồn của người lính
Chính bởi vậy người lính đã có lúc “ngỡ không bao giờ quên – cái vầng trăng
tình nghĩa”. Từ vầng trăng tri kỷ giờ đây nó trở thành vầng trăng tình
nghĩa. Tuy nhiên, từ “ngỡ” đặt ở đầu câu thứ ba giúp người đọc dự cảm về
một điều chẳng lành sẽ xảy ra. Bởi vì “ngỡ” là nghĩ vậy thôi, một lúc
nào đó con người sẽ lãng quên.
Quy luật vận động
không ngừng nghỉ, sự đời vẫn có những éo le, những điều xảy ra mà người ta
không thể nghĩ trước được. Thoắt một cái, mọi sự việc đều đã thay đổi:
“Từ hồi về
thành phố
quen ánh điện
cửa gương
vầng trăng
đi qua ngõ
như người
dưng qua đường”
Mọi sự bất đầu
chỉ vì mấy tiếng thật đơn giản “Từ hồi về thành phố”. Lại một lần nữa ta
bắt gặp từ “hồi”. Hồi ở đây vừa chỉ thời gian (quãng thời
gian khi về thành phố) vừa chỉ sự trở về. Về thành phố là về với cuộc sống
hiện đại với đầy đủ tiện nghi, là về với cuộc sống hòa bình không bom rơi đạn lạc.
Không gian cũng có sự thay đổi. Nếu như hai khổ đầu mở ra một không gian khoáng
đạt, mênh mông, tràn ngập thiên nhiên với đồng ruộng, núi rừng. Giữa không gian
bao la ấy, trăng và người hồn nhiên, vô tư bầu bạn quấn quít, dễ nhìn thấy nhau
và cũng dễ tìm thấy nhau. Nhưng ở đây khi về với thành phố, không gian sống bỗng
như bị bó hẹp lại: đâu thấy rừng thấy biển, đâu thấy đồng thấy sông, mà vây
quanh người ta là đường phố, nhà cửa san sát, là ánh điện cửa gương, là những
tòa nhà cao tầng, những cái ngõ chật hẹp, là căn phòng buyn-đinh ngột ngạt… Con
người như bị nhốt lại, bị bó hẹp trong những cái hộp khổng lồ…
Sống trong
không gian bé nhỏ ấy, con người không còn “trần trụi với thiên nhiên – hồn
nhiên như cây cỏ”. Người ta cũng chẳng nhớ đến trăng, chẳng cần trăng. Bởi
đêm nào thành phố chẳng rực rỡ ánh đèn. Bởi vậy mà “vầng trăng đi qua ngõ –
như người dưng qua đường”. Giọng điệu thơ có gì đó hờ hững, có gì đó lạnh
lùng. Hình như tình cảm “tri kỷ - nghĩa tình” đã bị đẩy vào góc xa thẳm
của ký ức, con người đã vội quên đi để hòa nhập trong nhịp điệu cuộc sống mới
nơi thành thị. Hình ảnh so sánh là một sự đối lập với tình cảm chân thành của một
thời quá khứ “ngỡ không bao giờ quên”. Nếu hồi nhỏ, hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỉ, vầng trăng là tình nghĩa thì giờ đây nó chỉ là người
dưng qua đường. Quan hệ giữa người và trăng đã hoàn toàn thay đổi. Có gì đó phũ
phàng, có gì đó nghẹn đắng. Bây giờ giữa vầng trăng và người hoàn toàn xa lạ với
nhau, hầu như không quen biết gì nhau. Lời thơ pha chút mỉa mai nhưng chân
thành. Câu thơ của Nguyễn Duy chẳng khuyên gì ai, chẳng trách gì ai nhưng hình
như đằng sau là hồi chuông, là vị đắng đọng lại trong lòng người về một hiện thực
xã hội, về thái độ vô tình của con người trước quá khứ.
Tuy nhiên như
người ta vẫn nói mọi chuyện trong cuộc đời đều không thể lường trước được. Cuộc
đời nhiều khi vẫn có những bất thường xảy ra và chuyện bất thường đó đã được
nhà thơ kể lại ở khổ thơ tiếp theo:
“Thình lình
đèn điện tắt
phòng
buyn-đinh tối om
vội bật
tung cửa sổ
đột ngột vầng
trăng tròn”
Hai tiếng “thình
lình” mở đầu cho khổ thơ thật đúng lúc. Nhờ có sự thình lình bất thường đó
ta mới biết rằng hóa ra cái ánh đèn kia không phải là vĩnh cửu, cái ánh sáng của
phòng buyn – đinh kia không là muôn đời. Và hóa ra con người ta cũng có lúc “vội
bật tung cửa sổ” để tìm ánh sáng cho mình. Câu thơ này thật có ý nghĩa, bởi
đây đâu chỉ là cánh cửa sổ bằng sắt hay bằng gỗ của căn phòng mà đây còn là
cánh cửa của tâm hồn, của tình cảm, chính cánh cửa này đang được bật tung. Phải
đồng thời bật tung hai cánh cửa số ấy thì mới có được chuyện “đột ngột vầng
trăng tròn”. Thực ra đột ngột là dành để chỉ tâm trạng con người chứ không
phải trăng chờ người bật tung cửa sổ mới bất ngờ đột ngột xuất hiện. Con người
có mở cửa hay không mở cửa thì vầng trăng vẫn cứ chiếu sáng, vẫn luôn tràn đầy
như thế. Từ “tròn” ở đây không chỉ là một khái niệm hình học, nó còn là
sự tròn đầy trọn vẹn của nghĩa tình.
Chính cái vẻ
tròn đầy bất diệt của vầng trăng đã đưa đến cho người lính cảm xúc dâng trào:
“Ngửa mặt
lên nhìn mặt
có cái gì
rưng rưng
như là đồng
là bể
như là sông
là rừng”
“Mặt nhìn mặt”,
ấy là mặt người với mặt trăng, nhưng ở đây không phải là cái nhìn “Ngẩng đầu
nhìn trăng sáng / Cúi đầu nhớ cố hương” của Lí Bạch mà là sự đối diện với
người tri kỉ, đối diện với chính mình, nhìn lại mặt mình. Một cái nhìn đầy áy
náy, xót xa. Nếu như với Lí Bạch, vầng trăng khiến thi sĩ nhớ “cố hương”
da diết thì ở đây nhờ nhìn thấy vầng trăng, người lính đã trở về chính mình, nhận
ra gốc gác, tìm lại được chính mình. Khi nhìn thấy người bạn tri âm tri kỷ ngày
nào, người lính bỗng dâng trào một niềm xúc động ngỡ ngàng. Hai tiếng “rưng
rưng” gợi cho người đọc nhiều suy ngẫm. “rưng rưng” là chưa khóc
nhưng nước mắt đang chực trào ra. Nó như cảm xúc mơ hồ của kẻ xa quê lâu ngày
đang trên đường trở về làng cũ bỗng thoáng thầy gốc đa đầu làng. Nó như nỗi
lòng của đôi bạn thân sau nhiều năm chinh chiến lạc mất tin nhau, nay bỗng gặp
nhau đúng trong ngày chiến thắng. Trong phút chốc, sự xuất hiện đột ngột của vầng
trăng làm ùa dậy ở tâm tư nhà thơ bao kỷ niệm của những năm tháng gian lao, bao
hình ảnh thiên nhiên đất nước bình dị hiền hậu. Điệp ngữ “như là” có tác
dụng nhấn mạnh, biểu hiện cảm xúc đến thật dồn dập. Cùng một lúc, cả quá khứ
như hiện về, mọi kỷ niệm như được đánh thức. Kỷ niệm thời ấu thơ chơi đùa trên
cánh đồng quê, bơi lội trên dòng sông quê,… kỷ niệm lúc trưởng thành ở rừng
cùng đồng đội chia sẻ những niềm vui nỗi buồn, chia sẻ những mất mát đau
thương… Đoạn thơ hay nhất ở chất thơ bộc bạch chân thành, hàm súc và biểu cảm,
giàu hình tượng dễ đi vào lòng người. Chính sự lan tỏa của ánh trăng đã gợi lại
nhưng gì đã qua, đánh thức tình cảm tốt đẹp trong mỗi con người. Người lính vui
sướng vì gặp lại vầng trăng nhưng cũng thấy ăn năn vì thái độ vô tình lãng quên
quá khứ.
Hình ảnh vầng
trăng trong bài thơ mang nhiều tầng ý nghĩa. Khổ cuối của bài thơ thể hiện tập
trung nhất ý nghĩa biểu tượng của hình ảnh vầng trăng, chiều sâu tư tưởng mang
tính triết lí của tác phẩm:
“Trăng cứ
tròn vành vạnh
kể chi người
vô tình
ánh trăng
im phăng phắc
đủ cho ta
giật mình.”
Bốn câu thơ
chia thành hai cặp có nhiều hình ảnh đối lập nhau. Cặp câu thứ nhất đối lập giữa
cái tròn vành vạnh của trăng – nghĩa là cái vẹn nguyên, cái tròn đầy bất diệt với
sự vô tình vô cảm của con người. Cặp câu thứ hai đối lập giữa cái “im phăng
phắc” của vầng trăng với cái “giật mình” của nhà thơ, của người
lính. “Giật mình” vì điều gì? Có lẽ là vì ân hận, giật mình để tự nhắc
nhở mình đừng làm kẻ phản bội, đừng làm kẻ vô ơn vô tình. Phải nói hai tiếng giật
mình cuối cùng của bài thơ như một tiếng chuông rất khẽ nhưng ngân
vang rất xa và đọng lại rất lâu. Như vậy khổ thơ cuối đúng là khổ thơ tập trung
nhất ý nghĩa biểu tượng của hình ảnh vầng trăng, chiều sâu tư tưởng mang tính
triệt lí trong âm điệu trầm lắng suy tư của tác phẩm. “Trăng cứ tròn vành vạnh”
tượng trưng cho quá khứ đẹp đẽ, vẹn nguyên chẳng thể phai mờ. “Ánh trăng im
phăng phắc” chính là người bạn, nhân chứng nghĩa tình mà nghiêm khắc đang
nhắc nhở nhà thơ và cả mỗi chúng ta. Đôi khi im lặng lại chính là sự trừng phạt
nặng nề nhất. Cũng qua hình ảnh “tròn vành vạnh” và “im phăng phắc”
của vầng trăng, tác giả khẳng định một điều, con người có thể vô tình có thể
lãng quên nhưng thiên nhiên quá khứ nghĩa tình thì luôn tròn dầy bất diệt.
Từ một câu
chuyện riêng, bài thơ cất lên lời tự nhắc nhở thấm thía về thái độ, tình cảm đối
với những năm tháng quá khứ gian lao, tình nghĩa, đối với thiên nhiên, đất nước
bình dị, hiền hậu. Còn nhớ năm xưa, sau chiến thắng Điện Biên Phủ, hiệp định
Genève được kí kết, trong buổi chia tay đầy lưu luyến giữa cán bộ về xuôi với đồng
bào miền núi nhà thơ Tố Hữu cũng đã tự nhắc nhở mình, khi về với cuộc sống bình
yên ở miền xuôi cũng không bao giờ được quên những năm tháng gắn bó cùng đồng
bào nơi đây, được đồng bào yêu thương “bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng”,
cùng kề vai sát cánh chống giặc:
“Ta với
mình, mình với ta
Lòng ta sau
trước mặn mà đinh ninh
Mình đi,
mình lại nhớ mình
Nguồn bao
nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu.” (Việt Bắc – Tố Hữu)
Và Ánh
trăng cũng là một lời tự nhắc nhở như thế. Ánh trăng không
chỉ là chuyện riêng của nhà thơ, chuyện của một người mà có ý nghĩa với cả một
thế hệ bởi nó đặt ra vấn đề, thái độ “Uống nước nhớ nguồn” đối với quá
khứ, với những người đã khuất và cả đối với chính mình. Trong cuộc sống hiện đại
hối hả, con người càng dễ bị cuốn vào vòng xoáy tấp nập của cuộc sống, quay cuồng
với danh lợi, tiền tài mà vô tình quên đi những thứ bình dị. Sự lãng quên ấy, sự
quay lưng lại với kí ức, với những kỉ niệm là những hành động thật đáng trách,
thật đáng lên án. Thiếu tình cảm biết ơn, sống phụ nghĩa quên công, con người
trở nên ích kỉ, vô trách nhiệm, những kẻ ấy sẽ bị ngưòi đời chê trách, mỉa mai,
bị gạt ra ngoài lề xã hội và lương tâm của chính họ sẽ kết tội.
Bài thơ là hồi
chuông cảnh tỉnh đối với ai đã đối xử một cách vô ơn bạc nghĩa với những người
đã tạo ra thành quả cho mình hưởng thụ. Bài thơ nhắc nhở một lẽ sống tốt đẹp của
con người cũng là đạo lí của dân tộc, là lẽ sống tốt đẹp từ bao đời nay cho nên
thế hệ đi sau cần kế thừa và phát huy. Bởi là con người thì trước hết phải biết
sống có đạo đức nhân nghĩa, thủy chung.
Tóm lại, bài
thơ Ánh trăng với giọng điệu tâm tình tự nhiên, hình ảnh giàu
tính biểu cảm như một lời tự nhắc nhở về những năm tháng gian lao đã qua của cuộc
đời người lính gắn bó với thiên nhiên, đất nước bình dị hiền hậu. Bài thơ có ý
nghĩa gợi nhắc, củng cố ở người đọc thái độ sống “uống nước nhớ nguồn”,
ân nghĩa thủy chung cùng quá khứ. Đọc bài thơ của Nguyễn Duy hẳn mỗi chúng ta
cũng “giật mình” như thế.
Thạc sỹ
Nguyễn Huyền Nga (Giáo viên Trường Quốc tế Á Châu)