Huy Cận là nhà thơ tiêu biểu của nền thơ hiện
đại Việt Nam. Một nhà thơ luôn dạt dào cảm hứng lãng mạn về thiên nhiên đất nước,
về con người trong thời đại mới. Bài thơ Bài ca vỡ đất của Hoàng Trung Thông và
bài Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận,… được người đọc yêu thích nhất, đều là những
tác phẩm nổi tiếng để đời. Huy Cận viết Đoàn thuyền đánh cá vào năm 1958, tại
vùng biển Quảng Ninh phản ánh không khí lao động sôi nổi của nhân dân miền Bắc
trong xây dựng hòa bình. Nói lên cuộc sống mưu sinh của đại diện ngư dân nơi xứ
Quảng Ninh. Nhà thơ ca ngợi tinh thần lao động phấn khởi và hăng say của những
người dân chài trên vùng biển quê hương.
Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” được nhà thơ
sáng tác vào năm 1958 khi miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội. bài thơ là bức
tranh thiên nhiên con người về cảnh đoàn thuyền ra khơi đánh cá vào lúc hoàng
hôn, cảnh đoàn thuyền đi trên biển đánh bắt cá và cảnh đánh bắt cá vào lúc bình
minh. Đề tài “Con người lao động” đã khơi gợi cảm hứng bất tận cho tất cả các
nhà thơ nhưng đối với Huy Cận ông cũng chọn đề tài ấy để viết về ngư dân trên
vùng biển Hạ Long tươi đẹp những người lao động mới đã được giải phóng, đang
làm chủ bản thân, làm chủ cuộc đời và đất nước:
Yêu biết mấy, những con người đi tới
Hai cánh tay như hai cánh bay lên
Ngực dám đón những phong ba dữ dội
Chân đạp bùn không sợ các loài sên! (“Mùa
thu mới” – Tố Hữu).
Bài thơ tiêu biểu cho phong cách sáng tác của
nhà thơ Huy Cận trong giai đoạn sau Cách mạng tháng 8 năm 1945. Cảm nhận bài
thơ cũng là đồng hành cùng hành trình lao động của những người dân miền biển
trong một đêm làm việc. Với đôi mắt quan sát sắc sảo, trí tưởng tượng phong
phú, trái tim nhạy cảm và tài năng nghệ thuật điêu luyện, nhà thơ đã vẽ lên trước
mắt chúng ta một khung cảnh lao động tuyệt vời trên biển. Cả bài thơ như một bức
tranh sơn mài lộng lẫy với những sắc màu huyền ảo, cuốn hút vô cùng:
“Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then đêm sập cửa
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.”
Đoàn thuyền đánh cá rời bến vào lúc hoàng hôn.
Phía tây, mặt trời như một hòn lửa” đỏ rực đang lặn vào lòng đại dương mênh
mông. Màn đêm buông xuống kết thúc một ngày. Chính vào thời điểm ấy, ngư dân bắt
tay vào công việc quen thuộc của mình: ra khơi đánh cá. Mặt trời như hòn lửa khổng
lồ đang từ từ lặn xuống dưới đáy đại dương để lại trên biển và phía chân trời một
màu tím của hoàng hôn. Nghệ thuật so sánh “Mặt trời như hòn lửa” gợi tả
cảnh mặt trời lúc hoàng hôn trên biển với bao màu sắc rực rỡ một vẻ đẹp kì vĩ
tráng lệ. Phép sô sánh đem đến cho bức bức tranh hoàng hôn một vẻ đẹp rực rỡ,
tráng lệ và ấm áp chứ không hiu hắt, ảm đạm như trong thơ cổ. Sự to lớn của
thiên nhiên lột tả thông qua ánh nhìn tích cực của con người nơi đây. Trong khoảnh
khắc bao sắc màu rực rỡ đã thay vào màu đen của màn đêm. Với trí tưởng tượng
phong phú cùng với nghệ thuật ẩn dụ những con sóng giống như chiếc then cài,
màn đêm là cánh cửa.Vũ trụ bao la rộng lớn giống như một ngôi nhà trong trạng
thái nghỉ ngơi, yên tĩnh và màn đêm kia như thử thách lòng can đảm của con người.
Hình ảnh thơ cho thấy thiên nhiên vũ trụ bao la mà gần gũi với con người – biển
cả hay đó cũng chính là ngôi nhà thân thuộc của mỗi ngư dân. Có thể nói, hai
câu thơ thể hiện tình yêu thiên nhiên và lòng yêu mến cuộc đời của nhà thơ Huy
Cận.
Màn đêm mở ra đã khép lại không gian của một
ngày. Giữa lúc vũ trụ, đất trời như chuyển sang trạng thái nghỉ ngơi thì ngược
lại, con người bắt đầu hoạt động. Không phải từng chiếc thuyền lẻ tẻ đi biển mà
là cả một “đoàn thuyền”, nhà thơ muốn thông qua sự to lớn được phác họa
đó để thể hiện một sức mạnh mới của cuộc đời đổi thay. Chữ “lại” trong ý
thơ “lại ra khơi” là sự khẳng định nhịp điệu lao động của dân chài đã ổn
định, đi vào nề nếp trong hòa bình. Đó là tinh thần lao động hăng say quên cả mệt
mỏi, quên cả thời gian của những người ngư dân, của những con người lao động mới
của miền Bắc trong thời kì xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong đêm tối mặt biển bỗng
trở nên nhộn nhịp bởi tiếng hát của những người ngư dân cất lên. Khúc hát lên
đường vang động. Gió biển thổi mạnh. Câu hát hòa cùng với làn gió mát của biển
khơi thổi căng cánh buồm để đưa con thuyền ra khơi nhanh hơn. Bút pháp khoa
trương “Câu hát căng buồm” tác giả muốn nói tới sức mạnh của những con người
lao động. Cánh buồm no gió “căng”lên. “Tiếng hát, gió khơi, buồm
căng” là ba chi tiết nghệ thuật mang tính chất tượng trưng diễn tả tinh thần
phấn khởi, hăng say và khí thế ra khơi của ngư dân vùng biển. “Câu hát căng buồm cùng gió khơi”, đây là cách nói độc đáo. sáng tạo của Huy Cận,
khiến chúng ta tưởng như tiếng hát hòa cùng gió mạnh, thổi căng cánh buồm, đẩy
thuyền phăng phăng rẽ sóng. Cánh buồm no gió tượng trưng cho khí thế phơi phới
đi lên của công cuộc dựng xây đất nước.
Câu hát
lạc quan yêu đời, niềm vui lao động, sôi nổi hào hứng trong niềm khí thế cùng với
buổi đầu ra khơi trong niềm tin vào một chuyến ra khơi thành công, tốt đẹp:
“Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng
Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!”
Chuyện làm ăn thường có nhiều may rủi. Ra khơi
đánh cá, họ cầu mong biển lặng sóng êm, gặp luồng cá, đánh bắt được nhiều. Niềm
ước mong ấy phản ánh tấm lòng hồn hậu của ngư dân từng trải qua nhiều nắng,
gió, bão tố trên biển. Giọng điệu thơ ngọt ngào, ngắn dài và vang xa: “cá bạc”, “đoàn thoi”, “dệt biển”, “luồng sáng”,
“dệt lưới” vẫn những hình ảnh so sánh ẩn dụ rất sáng tạo đem đến cho người
đọc bao liên tưởng thú vị về vẻ đẹp thơ ca viết về lao động. Trong câu hát của
những người ngư dân có gọi tên các loài cá: cá bạc, cá thu… Phép tu từ
so sánh “Cá thu như đoàn thoi” vừa gợi về hình ảnh sống động vừa là lời
ca ngợi nguồn tài nguyên phong phú ở vùng biển tỉnh Quảng Ninh. Với trí tưởng
tượng độc đáo kết hợp với ngòi bút vừa hiện thực vừa lãng mạn để rồi đôi mắt của
nhà thơ như đang được ngắm nhìn đoàn cá thu như những chiếc thoi đưa dệt nên những
tấm vải lớn lấp lánh muôn màu sắc. “Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi” câu thơ
như lời mời gọi đoàn cá vào lưới. Câu hát của những người ngư dân không chỉ thổi
căng cánh buồm vừa thể hiện sức mạnh, vừa thể hiện tinh thần lạc quan yêu đời.
Câu hát ấy không chỉ ngợi ca về vùng biển giàu có nước ta mà nó còn hữu ích
trong công việc đánh bắt cá. Nó đã trở thành bài ca trong lao động.
Với niềm cảm hứng say sưa, bài ca lao động vẫn
vang lên khoẻ khoắnv ới cảnh đánh cá
trên biển dưới trời trăng sao. cảnh đánh cá vào một đêm trăng trên vịnh Hạ
Long. Mỗi khổ thơ là một nét vẽ về biển trời, sông nước, trăng sao, trong đó
con người hiện lên trong dáng vẻ khỏe mạnh, trẻ trung và yêu đời. Hạ Long là một
thắng cảnh bậc nhất của đất nước ta. Hạ Long trong đêm trăng mang vẻ đẹp thần
tiên. Huy Cận, với bút pháp lãng mạn tả cảnh đánh cá trên Hạ Long vào một đêm
trăng bằng bao hình ảnh tuyệt vời.
Với trí tưởng tượng phong phú cùng với ngòi
bút thơ đầy lãng mạn bay bổng nhà thơ đã đưa người đọc đến hình ảnh thật là đẹp.
Trên mặt biển có một con thuyền lướt đi trên sóng.
“Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng
Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.”
Hình ảnh nói quá cho thấy: con thuyền đánh cá
vốn nhỏ bé trước biển cả bao la giờ đây qua cái nhìn của nhà thơ trở nên lớn
lao, kỳ vĩ và ngang tầm vũ trụ. Đoàn thuyền đánh cá ra khơi có gió làm bánh lái
vầng trăng khuyết trên trời cao đã trở thành cánh buồm. Gió và trăng đã trở
thành hai bộ phận của con thuyền giúp sức cùng ngư dân đưa đoàn thuyền ra khơi.
Sự hòa hợp giữa con người và thiên nhiên. Trước mắt nhà thơ đoàn thuyền đánh cá
giống như những con thuyền thơ lướt nhẹ trên mặt biển và in đầy trăng sao. Và
giờ đây đoàn thuyền ấy cùng với những người ngư dân đang “Ra đậu dặm xa dò bụng
biển”. Những người ngư dân của thời đại mới thực sự làm chủ biển khơi, làm
chủ cuộc đời, trang bị phương tiện tiên tiến, hiện đại, những con người ra khơi
để thăm dò “bụng biển” đánh bắt tài nguyên đem về xây dựng đất nước. Bằng trí
tưởng tượng kết hợp cách nói khoa trương gợi ra trước mắt người đọc hình ảnh
đoàn thuyền đánh cá đang “Dàn đan thế trận lưới vây giăng.”. Những con thuyền to lớn, tư thế hùng dũng,
hiên ngang, giống như những thuyền chiến còn con người đang thả lưới vây giăng
chuẩn bị bước vào trận chiến đấu mới trên mặt trận lao động. người dân chài như
những nghệ sĩ khéo léo và tâm hồn phóng khoáng, dũng cảm chinh phục biển cả. Nhà
thơ đã nâng tầm vóc con người và đoàn thuyền đã được nâng lên, hoà nhập vào
kích thước của thiên nhiên vũ trụ. Không còn cái cảm giác nhỏ bé lẻ loi khi con
người đối diện với trời rộng, sông dài như trong thơ Huy Cận trước cách mạng. Hình
ảnh thơ thật lãng mạn, bay bổng và con người có tâm hồn cũng thật vui vẻ, phơi
phới. Công việc lao động nặng nhọc của người đánh cá đã trở thành bài ca đầy niềm
vui, nhịp nhàng cùng thiên nhiên.
Đã bao đời, người ngư dân có mối quan hệ chặt
chẽ với biển cả. Họ thuộc biển như thuộc lòng bàn tay. Bao loài cá họ thuộc
tên, thuộc dáng, thuộc cả thói quen của chúng:
“Cá nhụ cá chim cùng cá đé,
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng.
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe,
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long.”
Chỉ với 4 câu thơ Huy Cận đã Huy Cận đã cho ta thấy 1
bức tranh kì thú về sự giàu có và đẹp đẽ của biển cả quê hương. Cảnh biển đêm hiện lên thật sống động và nhiều
màu sắc với những đường nét lung linh, phong phú đến lạ kì. Bằng nghệ thuật liệt
kê : “Cá nhụ, cá chim cùng cá đé - cá song lấp lánh đuốc đen hồng”.
Chim, thu, nhụ, đé là những loài cá quý ở vùng biển nước ta, những
loài cá mang lại giá trị kinh tế lớn cho ngành thuỷ sản Việt Nam. Biển không
chỉ giàu mà còn rất đẹp. Biển đẹp một cách thơ mộng. Khi màn đêm bắt đầu
buông xuống, trời khuya dần, trăng bắt đầu lên, chúng ta có thể hình dung giữa
không gian bao la sóng nước, giữa ánh sáng rất dịu dàng, mờ ảo, mơ hồ của ánh
trăng trên biển, lúc ấy biển mang màu sắc thật nên thơ. Nó lấp lánh, dịu dàng,
thanh thoát. Vẻ đẹp đó hoà cùng với màu sắc của muôn loài cá trên biển.
Huy Cận sử dụng một loạt các tính từ chỉ màu sắc: lấp lánh, đen hồng,
vàng choé. Tất cả tạo nên một bức tranh sơn mài nên thơ và đầy chất lãng mạn.
Những con cá song giống như ngọn đuốc đen hồng đang lao đi trong luồng
nước dưới ánh trăng lấp lánh quả là hình ảnh ẩn dụ độc đáo. Tuy
nhiên Cái đuôi em quẫy trăng vàng choé lại là hình ảnh đẹp nhất.
Ánh trăng in xuống mặt nước, những con cá quẫy đuôi như quẫy ánh trăng tan ra
vàng chéo. Nghệ thuật phối sắc tài tình làm cho vần
thơ đẹp như một bức tranh sơn mài rực rỡ.
Cảnh đẹp không chỉ ở màu sắc, ánh sáng, mà còn
ở âm thanh. Bằng nghệ thuật ẩn dụ kết hợp nhân
hóa, biển cả như một sinh thể sống động. Đêm thở: sao lùa nước Hạ
Long là hình ảnh nhân hoá đẹp. Đêm được miêu tả như một sinh
vật đại dương: nó thở. Tiếng thở của biển đêm chính là ánh sao lùa sóng nước,
hoà với tiếng gõ thuyền trong nhịp điệu hối thúc của đêm tàn… Nhưng tưởng tượng
của nhà thơ được cắt nghĩa bằng bất ngờ: sao lùa nước Hạ Long làm nên tiếng thở
của đêm. Đây là một hình ảnh đảo ngược, sóng biển đu đưa lùa ánh sao trời
nơi đáy nước chứ không phải bóng sao lùa sóng nước. Đây là một hình ảnh lạ
- một sáng tác nghệ thuật của nhà thơ Huy Cận khiến cho cảnh thiên nhiên
sinh động. Tất cả làm nên một bức tranh hoà nhịp kỳ diệu giữa thiên nhiên
và con người lao động.
Trên mặt biển đêm, ánh trăng long lanh dát bạc,
cá quẫy đuôi, sóng sánh trăng vàng. Bài ca “gọi cá” vẫn tiếp tục ngân vang, lúc
náo nức, lúc thiết tha:
“Ta hát bài ca gọi cá
vào,
Gõ thuyền đã có nhịp
trăng cao.
Biển cho ta cá như lòng mẹ,
Nuôi lớn đời ta tự buổi
nào".
Vầng trăng soi xuống mặt biển, muôn ngàn ánh
vàng tan ra theo làn sóng, vỗ vào mạn thuyền. Trăng thức cùng ngư dân, trăng
cùng sóng dập dờn bên mạn thuyền, như “gõ nhịp” phụ họa cho tiếng hát. Trăng
chiếu sáng cho người kéo được những mẻ cá đầy. Chất thơ bay bổng lãng mạn. Có thể nói đây là hình ảnh lãng mạn đầy chất thơ làm đẹp thêm công việc
đánh cá trên biển. Thiên nhiên đã cùng con người hoà đồng trong lao động. Và
như vậy, bức tranh không chỉ có màu sắc hình ảnh mà còn có cả âm thanh rộn rã. Những
vần điệu độc đáo được dệt nên bằng cái nhìn tươi tắn, lạc quan của tác giả đối
với biển và con người thể hiện tình yêu lao động, khát khao chinh phục thiên
nhiên và ước mơ làm giàu, làm đẹp cho đời của những con người lao động mới.
Biển không chỉ đẹp mà biển còn rất giàu, nguồn
tài nguyên biển phong phú, đa dạng mang lại hạnh phúc cho con người. Biển hào
phóng cho nhân dân nhiều tôm cá, muối và hải sản… Biển “như lòng mẹ” đã
nuôi sống nhân dân ta từ bao đời nay. Hình ảnh so sánh “như lòng mẹ” quen thuộc
là lời ca ngợi biển cả, thể hiện niềm tự hào của những người dân làng chài đối
với biển quê hương và ví biển nuôi sống con người như một người mẹ chăm sóc,
nuông nấng bầy con. Giọng thơ tự nhiên, chân thành, ấm áp, chứa chan tình yêu
thương và mang âm hưởng ca dao.
Bóng đêm đang tan, ngày đang đến, nhịp độ công
việc càng sôi nổi, khẩn trương:
“Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng
Vảy bạc đuôi vàng lóe rạng đông
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng.”
Bao công lao vất vả đã được đền bù. Dáng người
ngư dân đang choãi chân nghiêng người, dồn tất cả sức mạnh vào đôi cánh tay cuồn
cuộn để kéo lên những mẻ lưới nặng trĩu mới đẹp làm sao! Nhịp thơ nhanh dồn dập,rắn
rỏi gân guốc, nhiều thanh trắc nối tiếp nhau “ kéo lưới kịp sáng, nặng” góp
phần khắc họa nhịp điệu khẩn trương.Huy Cận đã tạc khắc trước mắt ta bức tượng
ngư dân đầy sức sống mang đậm những chi tiết tả thực của công việc lao động vất
vả. Họ đang mang hết sức lực, trí tuệ nhiệt tình và hăng say để kéo lưới thi với
thời gian. Họ “kéo xoăn tay” gợi rõ sự vất vả nặng nhọc nhưng đồng thời
khắc sâu tinh thần đoàn kết, lao động hết mình của các ngư dân. Bóng dáng họ in
trên nền trời hồng của buổi bình minh với thành quả lao động. Những tia nắng sớm
chiếu trên khoang cá đầy làm lấp lánh thêm “vẩy bạc, đuôi vàng” và màu sắc
phong phú của bao loài cá cũng khiến cho cảnh rạng đông thêm rực rỡ. Từ “bạc”,
“vàng” vừa gợi màu sắc sáng đẹp, vừa gợi sự quý giá, giàu có của
biển ban tặng con người cần cù, dũng cảm. Ta ngỡ ngàng trước vẻ đẹp của cá. Những
con cá vàng, bạc đã làm nên điều kì diệu “lóe rạng đông” thức dậy bình
minh, gọi một ngày mới bắt đầu. Cảm giác ánh sáng một ngày mới từ đoàn thuyền
cá đó thể hiện ánh sáng sự bội thu. Nhịp điệu câu thơ cuối của khổ thơ trên chậm
rãi, gợi cảm giác thanh thản, vui tươi, phản ánh tâm trạng thoải mái của ngư
dân trước kết quả tốt đẹp của chuyến ra khơi. Lưới xếp buồm
lên đón nắng hồng tạo một sự nhịp nhàng giữa lao động của con người
với sự vận hành của vũ trụ. Con người muốn chia sẻ niềm vui với ánh bình minh.
Nếu những người ngư dân ra khơi cất cao tiếng
hát thì khi hoàn thành họ cũng cất cao tiếng hát:
“Câu hát căng buồm với gió khơi
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời
Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.”
Với bút pháp khoa trương lại một lần nữa nhà
thơ tưởng tượng câu hát của người ngư dân, câu hát cùng gió thổi căng cánh buồm
đưa con thuyền về bến nhanh hơn. Dường như thiên nhiên và con người có sự hòa hợp.
Tiếng hát còn thể hiện tinh thần lạc quan yêu đời niềm vui trước thành quả lao
động của những ngày vất vả trên biển. Câu hát xuất hiện ở khổ đầu giờ lại lặp lại
ở khổ cuối tạo cho bài thơ đầu cuối tương ứng. Bút pháp khoa trương cùng trí tưởng
tượng nhà thơ đã hình dung trước mặt mình là khung cảnh tráng lệ, sôi động. Mặt
biển rộng lớn trở thành trường đua với hai đối thủ là con người và mặt trời. Và
chắc hẳn con người sẽ thắng bởi họ đã một lần chiến thắng biển khơi với những
khoang thuyền đầy cá. Đặt con người trong cuộc tranh tài với thiên nhiên là nhà
thơ khẳng định tầm vóc của con người có thể sánh ngang thiên nhiên.
Hòa cùng niềm vui to lớn của mọi người, nhà
thơ chắp cánh cho trí tưởng tượng của mình bay bổng. Đoàn thuyền lao vun vút
trên mặt biển. “Mặt trời đội biển nhô màu mới” một màu hồng rạng rỡ,
tinh khôi. Bình minh báo hiệu một ngày mới, báo hiệu một sự sống sinh sôi nảy nở,
là sự khởi đầu của những niềm vui, niềm hạnh phúc mà người dân chài có được sau
một chuyến hành trình rất vất vả và cực nhọc. Và ánh mặt trời phản chiếu trong
muôn ngàn mắt cá trên thuyền, khiến nhà thơ liên tưởng tới hàng ngàn mặt trời
nhỏ xíu đang tỏa sáng niềm vui. Nghệ thuật hoán dụ “Mắt cá huy hoàng muôn dặm
phơi” đã vẽ lên cảnh được mùa cá và cuộc sống hạnh phúc ấm no của nhân dân
vùng biển. Bằng lao động và mồ hôi, họ đã viết nên bài ca cuộc đời. Ý
thơ phảng phất không khí thần thoại, anh hùng ca, bản anh hùng ca lao động. Đó
là niềm vui chiến thắng, niềm vui đủ đầy khi được mùa cá, niềm
vinh quang của người lao động rất bình dị, nhỏ bé. Nó làm nổi bật tư
thế làm chủ vũ trụ của những con người lao động. Đến đây, bức tranh biển cả ngập
tràn sắc màu tươi sáng và ăm ắp chất sống trong từng dáng hình, đường nét của cảnh,
của người.
Qua thơ Huy Cận, chúng ta như được sống những
đêm trăng đẹp trên Hạ Long, ta tự hào đất nước ta có trên ba nghìn cây số bờ biển;
biển ta giàu có, bao la tiềm năng, dồi dào hải sản. Cảnh đánh cá trên biển được
miêu tả với cảm hứng lãng mạn. Lao động thật sự là niềm vui cuộc đời. Trong xã
hội ta, cái đáng quý nhất là lao động, người đáng quý nhất là người lao động.
Hình ảnh người dân chài trong bài thơ là hiện thân của sức sống cần lao. Họ cần
cù, dũng cảm và chịu khó. Cuộc đời của họ đã gắn liền với sóng gió mưa nắng biển
khơi, khai thác nhiều hải sản. Chính họ đã đem lại muối mặn và hương vị biển
cho mọi gia đình gần xa, bữa cơm trở nên đậm đà với con tôm, con cá. Cùng với
nhà nông “một nắng hai sương”, những người dân chài đã cho ta bài học về đức
tính cần cù, tinh thần lạc quan trong lao động. Tác giả với tình yêu thiên
nhiên, yêu con người lao động đã thể hiện được không khí sôi nổi, hào hùng của
đất nước ta khi miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Đọc Đoàn thuyền đánh cá không chỉ cảm nhận những
câu từ chân chất về sự to lớn của biển cả, của sự cần cù. Mà còn thấu hiểu thông điệp về con người, về tinh thần của người
con Đất Việt, về thiên nhiên hùng vĩ xung quanh mà tác giả truyềnchân thự đến
người đọc.