Tiếng thơ ai động đất trời
Nghe như non nước vọng lời ngàn thu
Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du
Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày. (Tố Hữu – Kính gửi cụ Nguyễn Du)
Phải! Tiếng thơ “ai động đất trời” ấy chính là
một nỗi sầu, một nỗi đau không bao giờ nhạt phai theo năm tháng của dòng sông
thời gian đều đặn chảy. Nhắc đến Truyện Kiều – kiệt tác của đại thi hào dân tộc
Nguyễn Du – cũng là nhắc đến “tiếng thương”, tiếng kêu không chỉ cho “phận đàn
bà” mà còn cho mọi kiếp bất hạnh, không phải cho một đời mà cho đến “nghìn năm
sau” và cho “muôn đời”. Và khi đọc trích đoạn Kiều ở lầu Ngưng Bích, những độc
giả không thể ngăn được dòng lệ trước bi kịch hết sức xót xa của cuộc đời Kiều.
“Kiều ở lầu Ngưng Bích” là dài 22 câu để hiện
tâm trạng của nhân vật trong một hoàn cảnh đặc biệt. Khi đưa Kiều ra ở riêng tại
lầu Ngưng Bích, Tú Bà chỉ muốn giam lỏng nàng để rồi sẽ thực hiện những âm mưu
khác thâm độc hơn. Có những câu thơ rất hay vịnh về nàng Kiều khi ở lầu Ngưng
Bích.
Một mình đối diện với mình
Mênh mông trăng gió vô tình thoảng qua
Mong manh như một nhành hoa
Ầm ầm tiếng sóng biết là về đâu?
Chưa đi đến thuở bạc đầu
Mà sao như đã nhuốm màu hư vô?
Đoạn trích chính là những dòng viết thể hiện
tâm tư, nỗi niềm của nàng Kiều trong những ngày tháng ở lầu Ngưng Bích. Đoạn
trích "Kiều ở lầu Ngưng Bích" dựng lên cảnh ngộ cô đơn, buồn tủi và tấm
lòng thủy chung, hiếu thảo của Thúy Kiều một mình bơ vơ nơi xứ người, đồng thời
qua đoạn trích, người đọc thấy được bút pháp "tả cảnh ngụ tình" độc
đáo, đạt tới trình độ điêu luyện bậc thầy của thiên tài văn học Nguyễn Du.
Nguyễn Du đã tái hiện trước mắt người đọc sự
mênh mông của cảnh trí và tâm trạng cô đơn của nhân vật:
“Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung.
Bốn bề bát ngát xa trông,
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia.
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.”
Ngay câu thơ mở đầu: "Trước lầu Ngưng
Bích khóa xuân", Nguyễn Du đã nêu bật lên cảnh ngộ đáng thương của Kiều.
Hai từ “khóa xuân” là sự tiếp tục ý của câu thơ trước “Khóa buồng
xuân để đợi ngày đào non”. Chính hai chữ này đã cho thấy tâm địa của Tú Bà
trong việc để Kiều ở lầu Ngưng Bích thực chất là giam lỏng nàng. Vậy là tuổi
thanh xuân của nàng Kiều bị giam hãm, khóa kín trong cấm cung và không được
giao tiếp với bên ngoài. Vì thế, lầu Ngưng Bích như là nhà tù giam lỏng cuộc đời
Kiều, nó cho thấy tình cảnh đáng thương, xót xa mà nàng Kiều phải chịu đựng. Kiều
phải trải qua những ngày tháng sống ở lầu Ngưng Bích với một nỗi cô đơn, trơ trọi
vì từ nơi ở nhìn ra là một cảnh trí bao la, mênh mông đến vô cùng.
Chính cái lầu Ngưng Bích xuất hiện chơi vơi giữa
không gian mênh mang trời nước cũng đang giam giữ một thân phận cô đơn, trơ trọi
không tìm đâu được một người nào có thể bầu bạn, sẻ chia. Nguyễn Du đã đặt Kiều
trong một cảnh ngộ rất đặc biệt: một mình, cô đơn, trơ trọi giữa một không gian
rộng lớn, mênh mông: "bốn bề bát ngát". Đứng trên lầu mà ngước
mắt lên trời cao, Kiều chỉ thấy "non xa" và "tấm trăng gần".
Nhìn xuống mặt đất chỉ thấy khoảng không trống vắng, xa xa là những con sóng lượn,
những bãi cát dài phẳng lặng nối tiếp nhau, dưới ánh nắng của buổi chiều tà,
bãi cát như trở nên lấp lánh giống như những bụi hồng. Cảnh thật đẹp, thơ mộng,
lãng mạn nhưng đượm buồn. Các hình ảnh mang tính ước lệ như “non xa”, “trăng
gần”, “cát vàng”, “bụi hồng” xuất hiện trong đoạn thơ dường như cũng góp sức
để làm cho không gian trở nên mênh mông hơn, rợn ngợp hơn, qua đó cũng góp phần
diễn tả nỗi cô đơn, sự bơ vơ của người con gái một thân một mình trong ngôi lầu
vắng lặng.Bởi xung quanh Kiều, không hề có một chút bóng dáng sự sống của con
người. Vì thế, từ “xa trông” như miêu tả cái nhìn xa xăm của Kiều, nàng
đang cố gắng kiếm tìm một chút bóng dáng, sự sống xung quanh. Nhưng tuyệt nhiên
chỉ là một không gian vắng lặng, tĩnh tại, không có chút động nhỏ bé nào đó
xung quanh mình. Ẩn sau ánh mắt nhìn "xa trông" như đang trông
mong, ngóng chờ ấy là niềm mong mỏi, khát khao, đợi chờ một tương lai hạnh phúc
phía trước nhưng trước không gian trống trải, hoang vắng ấy thì chắc chắn chỉ
làm cho Kiều trở nên thất vọng, cô đơn hơn mà thôi. Không chỉ được thể hiện ở mặt
không gian mà bức tranh thiên nhiên còn được khắc họa trên cả phương diện thời
gian.
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.
Tính
từ “bẽ bàng” gợi lên sự xấu hổ và tủi thẹn của Kiều khi nghĩ đến thân phận
và duyên phận của mình. Có lẽ, nàng cảm thấy xấu hổ là vì bị Mã Giám Sinh lừa
vào lầu xanh, còn nàng cảm thấy tủi thẹn là vì cảm thấy không còn xứng đáng với
tình cảm mà Kim Trọng mong chờ. Cụm từ “mây sớm đèn khuya” gợi nên vòng
tuần hoàn thời gian khép kín và ẩn sau đó là sự cô đơn, đơn điệu, nhàm chán khi
mà ở đó Kiều chỉ có một thân một mình đối diện với chính mình, sớm thì làm bạn
với mây, tối thì lại chỉ biết trò chuyện với bóng đèn. Kiều thực sự đã rơi vào
hoàn cảnh cô đơn đến mức như tuyệt đối. Vì thế tâm trạng của Kiều mới chia đôi
thành hai ngả: “nửa tình – nửa cảnh như chia tấm lòng”. Cảnh có đẹp đến
bao nhiêu đi chăng nữa cũng không thể nào khỏa lấp đi tâm trạng “bẽ bàng”
của nàng.
Bằng bút pháp tả cảnh ngụ tình, kết hợp với những
từ ngữ giàu tính tạo hình và biểu cảm, Nguyễn Du đã phác họa được khung cảnh lầu
Ngưng Bích rất rộng lớn, mênh mông và tuyệt nhiên không có sự sống của con người.
Quang cảnh hiện lên một cách đa chiều; theo chiều cao, chiều xa và chiều rộng
dưới tầm mắt nhỏ bé của Thúy Kiều đã nói lên cụ thể tình cảnh của nàng: cô độc
và không một bóng người.
Ngồi một mình ở nơi vắng lặng và đối diện với
một không gian mênh mông, bao la như thế, có lẽ con người dễ nhớ về những điều
thân thuộc như là người thân, gia đình, Kiều cũng không ngoại lệ. Hiện hữu
trong tâm trí của Kiều lúc này, trước hết là hình ảnh của Kim Trọng. Nàng đau
đáu vì có thể chàng Kim vẫn ngày ngày trông đợi tin nàng:
“Tưởng người dưới nguyệt chén đồng,
Tinh sương luống những rày trông mai chờ.
Không chỉ vậy, Kiều còn bộc lộ tấm lòng son sắt
thủy chung từ tận đáy lòng của mình:
“Bên trời góc bể bơ vơ,
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.”
Khi để cho Thúy Kiều nhớ đến Kim Trọng trước nỗi
nhớ về cha mẹ, Nguyễn Du đã cho thấy sự kế thừa đầy sáng tạo với cốt truyện
“Kim Vân Kiều truyện”. Trong tác phẩm của Thanh Tâm Tài Nhân, tác giả đã để Kiều
nhớ về cha mẹ trước và Nguyễn Du đã thay đổi một cách sáng tạo. Nói sáng tạo là
vì dù sao đi nữa chữ hiếu với cha mẹ, nàng phần nào đã thể hiện thông qua quyết
định bán mình để đổi lấy sự bình yên cho gia đình…Còn với Kim Trọng, nàng vẫn
chưa một lần nói lời tạ từ nên Kiều vô cùng đau xót về điều đó. Không chỉ vậy,
khi để cho Kiều hướng nỗi nhớ về Kim Trọng, dường như nhà thơ như muốn thể hiện
tâm tư trĩu nặng của nàng Kiều khi đã không giữ trọn lời thề về nghĩa tình trăm
năm vàng đá cùng chàng Kim.
Nhớ đến Kim Trọng, nàng dùng từ “tưởng”.
“Tưởng” gợi một nỗi nhớ da diết, luôn có hình bóng sự vật mình nhung nhớ
trong tâm thức. Từ “tưởng” cho thấy tình yêu tha thiết của Thúy Kiều đối
với chàng Kim, đến mức hình bóng của chàng luôn có trong nàng. Có lẽ vì mối
tình ấy quá đẹp: “dưới nguyệt chén đồng”. Trong quan niệm của người xưa,
lời thề nguyền trước trời đất là điều thiêng liêng và cao cả vô cùng. Kiều nhớ
về “chén đồng” tức cũng đang thể hiện sự dằn vặt vì không thể cùng người thương
thực hiện được lời thề ước ngày xưa. Nàng nhớ về lời hẹn ước cũng là cách mà Kiều
bộc lộ sự đau đớn cho cảnh ngộ ngang trái của mình đã khiến nàng phải đưa ra
quyết định khó khăn đến vậy. Nhớ đến Kim Trọng, nàng còn thấy xấu hổ và tự
trách mình. Nàng nghĩ rằng chàng Kim không biết nàng gặp nạn, còn đang “rày
trông mai chờ” tin nàng bên một “góc bể bơ vơ” nào đó. Nàng tự day dứt vì đã
khiến người yêu trông mong mình một cách vô ích như vậy chăng? Nàng rât hổ thẹn
khi giờ đây phải ở chốn “lầu xanh”, làm sao có thể hẹn ước trăm năm, chung thủy
son sắt với chàng Kim “tài mạo tót vào”? Kiều chỉ có thể gửi đến chàng Kim lời
tâm sự của mình từ phương xa, rằng tấm lòng nhớ thương Kim Trọng nàng vẫn không
lúc nào nguôi quên. Nàng đã tự bạch qua câu hỏi tu từ “Tấm son gột rửa bao giờ
cho phai”. Câu thơ như một lời khẳng định về tấm lòng son sắt, thủy chung của
Kiều đối với Kim Trọng dù trên bước đường đời có phải trải qua bao sóng gió thì
tấm lòng son ấy mãi vẹn nguyên. Ngoài cách hiểu đó, câu thơ cũng có thể nói lên
sự ngậm ngùi của Kiều muốn bày tỏ cùng Kim Trọng về việc Trọng có biết nàng đau
khổ đến nhường nào vì biết bao giờ tấm lòng son bị vì dập, hoen ố của Kiều mới
có thể được gột rửa. Kiều hiện lên là một người rất tình nghĩa và hiểu rõ nhân
nghĩa.
Sau nỗi nhớ về người yêu, Kiều nghĩ đến song
thân của mình:
“Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?
Sân Lai cách mấy nắng mưa,
Có khi gốc tử đã vừa người ôm.”
Kiều quả là người con có hiếu khi quyết định
hi sinh bản thân, chấp nhận bán mình để lấy tiền cứu gia đình. Khi thể hiện nỗi
nhớ về cha mẹ, Kiều không hề nói lên sự oán trách hay thở than về những bất hạnh,
đau khổ của bản thân mà chỉ cảm thấy ân hận vì nàng không thể làm tròn đạo hiếu,
không thể chăm sóc và phụng dưỡng cha mẹ mỗi ngày. Tác giả lại sử dụng tính từ
“Xót”. Xót nghĩa là thương, thương đến mức xót xa trong lòng. Không xót xa sao
được khi một đứa con hiếu thảo như Kiều lại cứ nghĩ đến hình ảnh cha mẹ đang tựa
cửa ngóng chờ con trở về, còn con thì vẫn bóng chim tăm cá, không thấy đâu.
Nàng còn lo lắng cho cha mẹ khi mà đã tuổi cao sức yếu không biết có ai chăm
sóc cho không, hai em có làm tốt nghĩa vụ và trách nhiệm của phận làm con hay
không. Hình ảnh ẩn dụ “cách mấy nắng
mưa” tượng trưng cho quãng thời gian dài mà nàng đã xa cha mẹ, nhấn mạnh sự
thương nhớ và lo lắng của nàng. Nỗi nhớ và tình cảm của Thúy Kiều dành cho cha
mẹ không hề diễn tả chung chung mà đều được cụ thể bằng những hình ảnh gợi sự
xót xa đến vô cùng. Nếu như hai câu thơ “Xót người tựa cửa…”-“Quạt nồng ấp lạnh”
cho thấy nỗi đau xót, lo âu vì không biết mai này ai sẽ là người thay Kiều chăm
lo cha mẹ có sự đủ đầy về vật chất thì hai câu thơ sau “Sân Lai…”-“Có khi…” lại
bộc lộ nỗi niềm của Kiều khi nghĩ về niềm vui tinh thần liệu có ai thay Kiều
đem lại cho mẹ cha. Kiều đã nhận hết những thiệt thòi về mình nhưng lại luôn cảm
thấy sự hi sinh của mình chẳng hề thấm tháp gì với công ơn “chín chữ cao sâu” của
cha mẹ. Nàng hiện lên là người con rất đỗi hiếu thảo và thương yêu cha mẹ.
Những suy nghĩ của Kiều giúp ta cảm nhận được
biết bao vẻ đẹp đáng quý nơi người con gái ấy. Trong cảnh ngộ bị giam hãm ở lầu
Ngưng Bích, Kiều là người đáng được dành sự cảm thương thế nhưng nàng đã không
màng tới tình cảnh ngang trái của bản thân để nhớ về Kim Trọng và nghĩ về mẹ
cha. Kiều không chỉ là một người con gái thủy chung nghĩa tình trong tình yêu
mà còn là một người con có tấm lòng hiếu thảo đáng quý vô cùng. Nguyễn Du đã
thành công rực rỡ trong việc lột tả vẻ đẹp tâm hồn. Quả thật đã thành công lớn!
Cả đoạn trích là sự trải dài của tâm trạng
nàng Kiều, đến những câu thơ cuối cùng, tâm trạng đau buồn, lo âu của Kiều lại
được bộc lộ thật ấn tượng qua những biểu hiện của cảnh vật:
“Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.”
Dường như mối một biểu hiện của cảnh vật đều
thể hiện tâm trạng và cảnh ngộ của Kiều. Tâm trạng của nàng là một nỗi buồn bao
trùm. Vì buồn nên trông, mà càng trông thì Kiều lại càng buồn. Điệp ngữ “Buồn
trông” bốn lần xuất hiện làm tăng sự buồn bã của nàng.Nỗi buồn cứ thế điệp đi
điệp lại dâng lên thành lớp lớp sóng trào, cứ cuộn xoáy trong tâm khảm của Kiều
mà trở thành gánh nặng tâm tư. Đó là tâm trạng chua xót, ngậm ngùi của nàng khi
dự cảm về những dông bão, trắc trở ở tương lai phía trước.
Ở lần đầu, nàng trông thấy:
“Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa.”
Không gian chiều hôm gợi sự buồn bã, im ắng, lẻ
loi. Cảnh cửa bể đã đến lúc “chiều hôm” mà những con thuyền vẫn còn lênh đênh
trên mênh mông sông nước gợi nên thân phận trôi dạt của nhân vật. Như một câu
ca dao khác cũng có cảnh này “Chiều chiều ra đứng ngõ sau/ Trông về quê mẹ ruột
đau chín chiều.”, quả là cảnh làm cho lòng người buồn đi. Cảnh đã buồn, đã sầu
thảm, lại xuất hiện cánh buồm “thấp thoáng”, mờ mờ ảo ảo, hư hư thực thực, càng
làm tăng thêm sự cô độc của Kiều. Như Bà huyện Thanh Quan đã từng viết “Lom
khom dưới núi tiều vài chú/ Lác đác bên sông chợ mấy nhà”: Trong một không gian
hoang vu, bỗng có người và sự vật xuất hiện nhưng chỉ lèo tèo, không rõ mặt thì
chỉ càng làm tăng thêm vẻ hoang vu. Ở Thúy Kiều cũng vậy, “cánh buồm” “thấp
thoáng” làm nàng thêm cô đơn, buồn tủi.
Sau “cánh buồm”, nàng còn bắt gặp:
“Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?”
Kiều hướng ánh nhìn của mình về đóa hoa trôi
man mác không rõ sẽ dạt về chốn nào thì dường như cũng là lúc nhân vật nhìn về
cuộc đời của mình với sự phiêu bạc, không định hướng tương lai. Nàng đang lo lắng
về tương lai của chính mình, không biết rồi sẽ trôi dạt đến nơi nao. Có lẽ nàng
cũng đã dự cảm về số phận long đong, bạc mệnh của mình. Bởi vì hình ảnh ẩn dụ
“hoa trôi man mác” chính là tượng trưng cho cuộc hành trình phập phồng chông
chênh ấy. Một bông hoa nhỏ bé giữa một biển nước mênh mông, thật khó mà đương đầu
cho được. Số phận của Kiều phải chăng chính là câu thơ của Hồ Xuân Hương: “Thân
em vừa trắng lại vừa tròn/ Bảy nổi ba chìm với nước non”. Thật bi thương!
Tiếp theo, nàng nhìn về “nội cỏ”:
“Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.”
Trông về phía cỏ cây, Kiều chỉ thấy hiện lên
trong mắt màu rầu rầu buồn đến thê thiết, ngọn cỏ kia vẫn xanh nhưng sao màu
xanh ấy lại không khiến nàng phấn chấn mà chỉ đem lại sự ủ rũ, héo úa. Nổi bật
lên trên hai câu thơ là một nỗi buồn vô vọng. Lòng người buồn nên nhìn đâu cũng
thấy buồn; nỗi buồn của Kiều như thấm vào cảnh vật khiến cho cảnh vật cũng nhuốm
màu tâm trạng. Bằng phép tả cảnh ngụ tình: “nội cỏ rầu rầu”; tác giả đã vẽ nên
một nỗi buồn rười rượi. Và vì nàng còn buồn hơn thế nữa nên “chân mây mặt đất”
với nàng chỉ là một màu “xanh xanh” đơn điệu. Trong văn học từ xưa tới nay, màu
sắc xanh thường khiến chúng ta nghĩ tới màu của sự sống, của sự sinh sôi bất diệt.
Nhưng từ “xanh xanh” lại xuất hiện trong câu thơ của Nguyễn Du nên màu sắc ấy
biểu trưng cho sự nhạt nhòa, sự chán nản, vô vọng của Kiều trước một khung cảnh
thiếu vắng sự sống, cô đơn, và tẻ nhạt. Thiên nhiên ấy gợi ở Kiều nỗi chán
ngán, vô vọng, tái tê về cuộc sống vô vị, tẻ nhạt, cô quạnh không biết kéo dài
đến tận bao giờ. Thật là “cỏ bên trời xanh một sắc Đạm Tiên.” (Chế Lan Viên)
Cuối cùng, nàng chỉ còn thấy sóng gió:
“Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.”
Kiều nghe thấy vọng lại thanh âm của tiếng
sóng ầm ầm. Tiếng sóng như lời đe dọa bao quanh người con gái nhỏ bé như báo
trước một tai họa sắp sửa ập đến cuộc đời nàng. Âm thanh “ầm ầm” của tiếng sóng
nghe thật kinh hoàng, dữ dội. Đã vậy lại còn “kêu quanh ghế ngồi”, làm sao
không khiếp sợ cho được? Nỗi sợ ấy phải chăng là nỗi sợ bùng cháy trong Thúy Kiều?
Quả thật là vậy. Trước bao lo lắng, trắc trở về người yêu, gia đình và chính bản
thân, nàng đã thực sự tỏ ra sợ hãi. Âm thanh “ầm ầm” vây quanh nàng như nỗi sợ
dâng lên kề đầu ngập cổ nàng. Nàng đang run sợ, rối bời vô cùng. Câu thơ kết đoạn
là sự hòa tấu sóng biển – sóng đời, không chỉ vang lên tiếng gõ cửa của định mệnh
mà còn rung chuyển tiếng gầm gào của hiểm họa muốn hất tung người con gái đơn
côi, yếu đuối trên điểm tựa chiếc ghế đời mong manh. Bằng cách khắc họa cảnh vật
từ hư đến thực, âm thanh từ tĩnh đến động, đoạn thơ đã cho thấy nỗi buồn lo và
sợ hãi như tầng tầng lớp lớp sóng gió đang dâng ngập lòng Kiều.Có thể khẳng định
rằng: Đây là một cơn bão táp nội tâm!
Khung cảnh lầu Ngưng Bích khi được nhìn qua
tâm trạng của Thúy Kiều đều nhuốm sự buồn thương đến kinh sợ từ cảnh vật, đến sắc
màu và cả âm thanh. Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” đặc sắc về cả nghệ thuật
lẫn nội dung. Bằng bút pháp tả cảnh ngụ tình kết hợp từ ngữ đặc sắc và điển
tích hòa hợp, Nguyễn Du đã vẽ nên tình cảnh, nỗi nhớ và tâm trạng của Kiều khi ở
lầu Ngưng Bích. Và đặc biệt là đã bộc lộ những nét đẹp cao quý về tấm lòng hiếu
thảo và sự thủy chung trong tình yêu ở nàng.
Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” đã cho thấy
một bức tranh thiên nhiên liên tục thay đổi theo diễn biến tâm trạng – đó là bức
tranh tâm cảnh nhuốm màu u buồn, đau đớn. Mỗi nét tưởng tượng trong ngòi bút của
tác giả lại phản ánh một mức độ khác nhau trong tâm trạng của nàng Kiều. Đoạn
trích đã giúp ta hiểu hơn về tâm hồn của người phụ nữ tài sắc mà bạc mệnh. Kiều
ở lầu Ngưng Bích còn giúp người đọc cảm nhận được giá trị nhân văn sâu sắc đồng
thời thể hiện tấm lòng nhân hậu, cảm thương chia sẻ của Nguyễn Du với nỗi đau của
Thúy Kiều.