Thứ Bảy, 7 tháng 3, 2020

Cảm nhận tài sắc Thúy Kiều



Ở xã hội phong kiến thời xưa, người phụ nữ không được tôn vinh, coi trọng mà ngược lại, họ bị chà đạp không thương tiếc. Tuy nhiên, Nguyễn Du đã vượt qua sự bất công đó với tấm lòng nhân đạo của mình. Ông hết sức nâng niu, đề cao vẻ đẹp và tài năng của người phụ nữ. Không những thế, ông còn thương cảm trước số phận của họ. Thúy Kiều là nhân vật được Nguyễn Du hết mực yêu thương.Tất cả những điều này được thể hiện rõ nét qua đoạn trích Chị em Thuý Kiều trong Truyện Kiều. Thúy Kiều vừa đẹp lại vừa tài hoa:
Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn.
Là thu thủy nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh.
Một hai nghiêng nước nghiêng thành,
Sắc đành đòi một tài đành họa hai.
Thông minh vốn sẵn tính trời,
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm.
Cung thương làu bậc ngũ âm,
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một chương.
Khúc nhà tay lựa nên chương,
Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân.
Một trong những sự sáng tạo nghệ thuật độc đáo khéo léo của Nguyễn Du, làm nên sự thành công của Truyện Kiều đó là nghệ thuật tả người. Điều này được thể hiện rất rõ, rất cụ thể trong trích đoạn “Chị em Thúy Kiều” qua vẻ đẹp  chị em  Thúy Kiều và đặc biệt là chân dung và tài năng của nhân vật Kiều. Trong đoạn trích vẻ đẹp của Thúy Vân được tác giả Nguyễn Du miêu tả vô cùng chân thực chi tiết với vẻ đẹp cao sang đài các, một vẻ đẹp tròn đầy mặn mà thể hiện cho một tương lai bằng phẳng gặp nhiều may mắn hạnh phúc. Nhưng vẻ đẹp của Thúy Vân càng đẹp bao nhiêu thì càng làm cho Thúy Kiều nổi bật bấy nhiêu bởi Nguyễn Du đã dùng Thúy Vân làm đòn bẩy cho vẻ đẹp của Thúy Kiều tỏa sáng. Một vẻ đẹp hội tụ toàn bộ những gì tinh túy nhất của trời đất.
Sau khi dựng lên chân dung và vẻ đẹp nhân vật Thúy Vân, nhà thơ tập trung bút lực vào miêu tả vẻ đẹp của Kiều trong sự đối sánh với vẻ đẹp của Vân:
Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn.
Vẻ đẹp của Thúy Vân đạt chuẩn thước đo thẩm mĩ của chế độ phong kiến. Cô em đã đẹp như thế nhưng cô chị còn đẹp hơn. Vẻ đẹp của Thúy Kiều vượt lên trên khuôn mẫu, ràng buộc trước đó. Cái đẹp đó là cái đẹp của vẻ “sắc sảo”; “mặn mà”. "Sắc sảo" là trí tuệ, là tài, là khả năng nhận thức nhanh nhạy, thông minh và ứng xử linh hoạt, kịp thời. Tài còn là cầm kì thi hoạ, bốn thú vui tao nhã mà nàng có đủ. Còn "mặn mà" là tình, là sự nồng nàn, say đắm không nhạt nhẽo, vô tâm. Phụ từ “càng” nhấn mạnh và làm tăng tiến mức độ của vẻ đẹp và tài năng ấy. Nhân vật không chỉ đẹp về hình thức mà còn đẹp cả trong phẩm chất và tài năng. Vẻ đẹp ấy thu hút mạnh mẽ ánh nhìn, càng ngắm càng thấy say mê.
Ở Kiều có tất cả vẻ đẹp mà Thúy Vân có. Nhưng nàng sắc sảo, mặn mà hơn. Thúy Kiều không những xinh đẹp mà còn có nhiều tài năng. Thiên tài họ Nguyễn tập trung gợi tả đôi mắt và hàng chân mày của Kiều:
 “Làn thu thủy, nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.
Sử dụng thủ pháp ước lệ tượng trưng lấy vẻ đẹp của thiên nhiên làm thước đo cho vẻ đẹp của con người qua một loạt các hình ảnh: thu thủy, xuân sơn, hoa, liễu, Nguyễn Du đã làm hiện vẻ đẹp của một trang giai nhân tuyệt mĩ. Nhưng khi miêu tả Kiều, tác giả không miêu tả cụ thể chi tiết như ở Vân mà ngược lại, tác giả tập trung vào một điểm nhìn là đôi mắt “Làn thu thủy nét xuân sơn”: Đôi mắt sáng trong và sâu thẳm như làn nước mùa thu; đôi lông mày thanh thoát như nét núi mùa xuân. Đây chính là lối vẽ “điểm nhãn” cho nhân vật. Bởi đôi mắt chính là cửa sổ tâm hồn con người. Và qua đôi mắt đó của Kiều, ta thấy vẻ đẹp tâm hồn và trí tuệ của người con gái đang độ tuổi phơi phới thanh xuân với sự cuốn hút lạ thường của nhân vật. Vẻ đẹp nhan sắc của Kiều là vẻ đẹp vượt ra khỏi chuẩn mực của tự nhiên và khuôn khổ của người phụ nữ phong kiến nên: “Hoa ghen – liễu hờn” và thậm chí là nghiêng ngả cả thành quách, đất nước:
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh,
Một hai nghiêng nước nghiêng thành.
Các từ “hờn”, “ghen” được sử dụng với nghệ thuật nhân hóa để nói lên thái độ ghen ghét, đố kỵ của thiên nhiên trước vẻ đẹp vượt ngưỡng của Kiều. Nàng đẹp đến nỗi cỏ cây, hoa lá vốn là vật vô tri vô giác cũng phải sinh lòng ghen ghét đố kị vì không tươi thắm và đẹp đẽ bằng nàng. Sắc đẹp của nàng là sắc đẹp tột bậc của những trang giai nhân thủa trước. Đại thi hào đã dùng điển tích “nghiêng nước nghiêng thành” để khẳng định vẻ đẹp sắc nước hương trời của Kiều có thể sáng với vẻ đẹp của những mỹ nhân mà lịch sử đã ca tụng.Liếc mắt nhìn một cái là làm cho nghiêng ngả thành người, liếc mắt nhìn cái nữa là làm cho mất cả nước người. Sắc đẹp ấy dẫu là bậc anh hùng, hào kiệt thì cũng phải xiêu lòng gục ngã. Tác giả Nguyễn Du đã dùng những mỹ từ ưu ái nhất để dành cho việc miêu tả vẻ đẹp của Thúy Kiều – một vẻ đẹp vô cùng lộng lẫy. Đó dường như cũng là một điềm báo mà tác giả đã dự báo cho người đọc thấy trước con đường tương lai nhiều điều bất hạnh của Thúy Kiều. Bởi từ xa xưa dân gian đã có câu truyền đời rằng “Hồng nhan bạc mệnh” Thúy Kiều với vẻ đẹp như vậy ắt khó tránh khỏi “bạc mệnh”.
Nếu như khi tả Vân, nhà thơ chỉ chú trọng vào khắc họa vẻ đẹp nhan sắc mà không chú trọng tới miêu tả tài năng và tâm hồn thì khi tả Kiều, nhà thơ chỉ tả sắc một phần, còn lại dành phần nhiều vào tài năng:
Sắc đành đòi một tài đành họa hai
Chỉ một câu thơ mà nhà thơ đã nêu được cả sắc lẫn tài. Nếu như về sắc thì Kiều là số một thì về tài không ai dám đứng hàng thứ hai trước nàng. Tài năng của Kiều có thể nói là có một chứ không có hai trên đời:
“Thông minh vốn sẵn tính trời
Pha nghề thi họa, đủ mùi ca ngâm
Cung thương lầu bậc ngũ âm
Nghề riêng ăn đứt Hồ cầm một trương.
Khúc nhà tay lựa nên trương
Một thiên bạc mệnh lại càng lão nhân.”
Thúy Kiều không chỉ đẹp mà còn là người con gái tài hoa, thông minh xuất chúng. Chỉ với sáu câu thơ ngắn gọn, Nguyễn Du đã có thể giải thích ý tài đành hoạ hai. Đã vốn được trời ban cho một trí tuệ thông minh, sáng suốt lại có ý chí học hỏi, luyện tập thì tất nhiên là khó có người vượt qua nổi. Nàng có cả tài thơ, tài hoạ, tài đà, tài nào cũng xuất sắc, cũng thành “nghề” cả. Trong đó, tài đàn của Thúy Kiều có lẽ đã không còn là tài “cầm” mà tiếng đàn của nàng ăn đứt bất cứ nghệ sĩ nào và đã trở thành nghề riêng rồi. Không dừng lại ở đó thì để cực tả cái tài của Kiều, Nguyễn Du cũng đã sử dụng hàng loạt các từ ngữ ở mức độ tuyệt đối đó là các từ như: vốn sẵn, pha nghề, làu bậc và đủ mùi. Không những giỏi ca hát, chơi đàn mà Kiều còn sáng tác nhạc nữa. Chính tay nàng đã soạn ra một khúc đàn “Bạc mệnh” để bày tỏ niềm thương cảm cho cuộc đời của những người con gái tài hoa mà số phận mỏng manh. Khúc đàn ấy trăm vần thê lương, âm điệu ảo não khiến người nghe phải buồn bã, ủ ê, động lòng thương xót. Có thể nói chính với bản đàn ấy đã ghi lại tiếng lòng của một tâm hồn đa sầu đa cảm. Tác giả Nguyễn Du cực tả tài năng của Kiều chính là ngợi ca cái tâm đặc biệt của nàng. Thông qua đây ta nhận thấy được tài năng của Kiều vượt lên trên tất cả và là biểu hiện của những phẩm chất cao đẹp, một vẻ đẹp của trái tim trung hậu, nồng nhiệt, nghĩa tình, vị tha. Từ tất cả các yếu tố này cũng đã gợi mở ra vẻ đẹp của Kiều là sự kết hợp của sắc – tài – tình và đạt đến mức siêu phàm, lí tưởng.
Thúy Kiều đẹp, thông minh và tài hoa. Theo quan niệm của cổ nhân, người đã đẹp lại có nhiều tài tất sẽ bị trời đất ghen, đầy đọa cho bõ ghét. Thúy Kiều vừa đẹp lại vừa tài hoa làm sao thoát khỏi kiếp đoạn trường. Có những điềm hoặc lời nói báo trước cho Kiều biết đời nàng sẽ nhiều gian truân. Năm nàng còn thơ ngây, một thầy tướng đã đoán:
Anh hoa phát tiết ra ngoài,
Nghìn thu bạc mệnh một đời tài hoa.
Đoạn trích đã thể hiện ngòi bút tinh tế, tài hoa của Nguyễn Du, khẳng định tài năng nghệ thuật tả người số một của ông quả là “kì tài diệu bút”. Tả Kiều không cốt tả hình dáng mà cốt để làm nổi bật vẻ đẹp và trí tuệ của nàng. Những câu thơ về Kiều còn mang tính chất dự báo về số phận éo le, một cuộc đời đầy trắc trở. Qua đó cũng thể hiện sự nâng niu trân trọng của Nguyễn Du trước vẻ đẹp của người phụ nữ.
Cái thần tình của Nguyễn Du là ông đã xây dựng một nhân vật dường như vi phạm hàng loạt các chuẩn mực đạo đức xã hội phong kiến, nhưng thực chất Kiều là hiện thân của những giá trị đạo đức tốt đẹp, sáng trong. Có thể xem nàng là biểu tượng của tinh thần và tâm hồn dân tộc, là kết tinh của những tình cảm người, giá trị người. Từ đó thêm nâng niu, trân trọng những giá trị nhân văn cao đẹp của con người vì chính những giá trị đó, cái đẹp đó góp phần làm cho cuộc sống thêm muôn phần ý vị, phong phú.