Ở xã
hội phong kiến thời xưa, người phụ nữ không được tôn vinh, coi trọng mà ngược lại,
họ bị chà đạp không thương tiếc. Tuy nhiên, Nguyễn Du đã vượt qua sự bất công
đó với tấm lòng nhân đạo của mình. Ông hết sức nâng niu, đề cao vẻ đẹp và tài
năng của người phụ nữ. Không những thế, ông còn thương cảm trước số phận của họ.
Thúy Kiều là nhân vật được Nguyễn Du hết mực yêu thương.Tất cả những điều này
được thể hiện rõ nét qua đoạn trích Chị em Thuý Kiều trong Truyện Kiều. Thúy Kiều
vừa đẹp lại vừa tài hoa:
Kiều
càng sắc sảo mặn mà,
So
bề tài sắc lại là phần hơn.
Là
thu thủy nét xuân sơn,
Hoa
ghen thua thắm liễu hờn kém xanh.
Một
hai nghiêng nước nghiêng thành,
Sắc
đành đòi một tài đành họa hai.
Thông
minh vốn sẵn tính trời,
Pha
nghề thi họa đủ mùi ca ngâm.
Cung
thương làu bậc ngũ âm,
Nghề
riêng ăn đứt hồ cầm một chương.
Khúc
nhà tay lựa nên chương,
Một
thiên bạc mệnh lại càng não nhân.
Một
trong những sự sáng tạo nghệ thuật độc đáo khéo léo của Nguyễn Du, làm nên sự
thành công của Truyện Kiều đó là nghệ thuật tả người. Điều này được thể hiện rất
rõ, rất cụ thể trong trích đoạn “Chị em Thúy Kiều” qua vẻ đẹp chị em
Thúy Kiều và đặc biệt là chân dung và tài năng của nhân vật Kiều. Trong
đoạn trích vẻ đẹp của Thúy Vân được tác giả Nguyễn Du miêu tả vô cùng chân thực
chi tiết với vẻ đẹp cao sang đài các, một vẻ đẹp tròn đầy mặn mà thể hiện cho một
tương lai bằng phẳng gặp nhiều may mắn hạnh phúc. Nhưng vẻ đẹp của Thúy Vân
càng đẹp bao nhiêu thì càng làm cho Thúy Kiều nổi bật bấy nhiêu bởi Nguyễn Du
đã dùng Thúy Vân làm đòn bẩy cho vẻ đẹp của Thúy Kiều tỏa sáng. Một vẻ đẹp hội
tụ toàn bộ những gì tinh túy nhất của trời đất.
Sau
khi dựng lên chân dung và vẻ đẹp nhân vật Thúy Vân, nhà thơ tập trung bút lực
vào miêu tả vẻ đẹp của Kiều trong sự đối sánh với vẻ đẹp của Vân:
Kiều
càng sắc sảo mặn mà,
So
bề tài sắc lại là phần hơn.
Vẻ đẹp
của Thúy Vân đạt chuẩn thước đo thẩm mĩ của chế độ phong kiến. Cô em đã đẹp như
thế nhưng cô chị còn đẹp hơn. Vẻ đẹp của Thúy Kiều vượt lên trên khuôn mẫu,
ràng buộc trước đó. Cái đẹp đó là cái đẹp của vẻ “sắc sảo”; “mặn mà”. "Sắc sảo" là trí tuệ, là
tài, là khả năng nhận thức nhanh nhạy, thông minh và ứng xử linh hoạt, kịp thời.
Tài còn là cầm kì thi hoạ, bốn thú vui tao nhã mà nàng có đủ. Còn "mặn
mà" là tình, là sự nồng nàn, say đắm không nhạt nhẽo, vô tâm. Phụ từ
“càng” nhấn mạnh và làm tăng tiến mức độ của vẻ đẹp và tài năng ấy. Nhân vật không chỉ đẹp về hình thức
mà còn đẹp cả trong phẩm chất và tài năng. Vẻ đẹp ấy thu hút mạnh mẽ ánh nhìn, càng
ngắm càng thấy say mê.
Ở Kiều
có tất cả vẻ đẹp mà Thúy Vân có. Nhưng nàng sắc sảo, mặn mà hơn. Thúy Kiều
không những xinh đẹp mà còn có nhiều tài năng. Thiên tài họ Nguyễn tập trung gợi
tả đôi mắt và hàng chân mày của Kiều:
Hoa
ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.
Sử dụng
thủ pháp ước lệ tượng trưng lấy vẻ đẹp của thiên nhiên làm thước đo cho vẻ đẹp
của con người qua một loạt các hình ảnh: thu thủy, xuân sơn, hoa, liễu, Nguyễn
Du đã làm hiện vẻ đẹp của một trang giai nhân tuyệt mĩ. Nhưng khi miêu tả Kiều,
tác giả không miêu tả cụ thể chi tiết như ở Vân mà ngược lại, tác giả tập trung
vào một điểm nhìn là đôi mắt “Làn thu thủy nét xuân sơn”: Đôi mắt sáng trong và
sâu thẳm như làn nước mùa thu; đôi lông mày thanh thoát như nét núi mùa xuân. Đây
chính là lối vẽ “điểm nhãn” cho nhân vật. Bởi đôi mắt chính là cửa sổ tâm hồn
con người. Và qua đôi mắt đó của Kiều, ta thấy vẻ đẹp tâm hồn và trí tuệ của
người con gái đang độ tuổi phơi phới thanh xuân với sự cuốn hút lạ thường của
nhân vật. Vẻ đẹp nhan sắc của Kiều là vẻ đẹp vượt ra khỏi chuẩn mực của tự
nhiên và khuôn khổ của người phụ nữ phong kiến nên: “Hoa ghen – liễu hờn” và thậm
chí là nghiêng ngả cả thành quách, đất nước:
Hoa
ghen thua thắm liễu hờn kém xanh,
Một
hai nghiêng nước nghiêng thành.
Các từ
“hờn”, “ghen” được sử dụng với nghệ thuật nhân hóa để nói lên thái độ ghen
ghét, đố kỵ của thiên nhiên trước vẻ đẹp vượt ngưỡng của Kiều. Nàng đẹp đến nỗi
cỏ cây, hoa lá vốn là vật vô tri vô giác cũng phải sinh lòng ghen ghét đố kị vì
không tươi thắm và đẹp đẽ bằng nàng. Sắc đẹp của nàng là sắc đẹp tột bậc của những
trang giai nhân thủa trước. Đại thi hào đã dùng điển tích “nghiêng nước nghiêng
thành” để khẳng định vẻ đẹp sắc nước hương trời của Kiều có thể sáng với vẻ đẹp
của những mỹ nhân mà lịch sử đã ca tụng.Liếc mắt nhìn một cái là làm cho
nghiêng ngả thành người, liếc mắt nhìn cái nữa là làm cho mất cả nước người. Sắc
đẹp ấy dẫu là bậc anh hùng, hào kiệt thì cũng phải xiêu lòng gục ngã. Tác giả Nguyễn Du đã dùng những mỹ từ
ưu ái nhất để dành cho việc miêu tả vẻ đẹp của Thúy Kiều – một vẻ đẹp vô cùng lộng
lẫy. Đó dường như cũng là một điềm báo mà tác giả đã dự báo cho người đọc thấy
trước con đường tương lai nhiều điều bất hạnh của Thúy Kiều. Bởi từ xa xưa dân
gian đã có câu truyền đời rằng “Hồng nhan bạc mệnh” Thúy Kiều với vẻ đẹp như vậy
ắt khó tránh khỏi “bạc mệnh”.
Nếu
như khi tả Vân, nhà thơ chỉ chú trọng vào khắc họa vẻ đẹp nhan sắc mà không chú
trọng tới miêu tả tài năng và tâm hồn thì khi tả Kiều, nhà thơ chỉ tả sắc một
phần, còn lại dành phần nhiều vào tài năng:
Sắc
đành đòi một tài đành họa hai
Chỉ một
câu thơ mà nhà thơ đã nêu được cả sắc lẫn tài. Nếu như về sắc thì Kiều là số một
thì về tài không ai dám đứng hàng thứ hai trước nàng. Tài năng của Kiều có thể
nói là có một chứ không có hai trên đời:
“Thông
minh vốn sẵn tính trời
Pha
nghề thi họa, đủ mùi ca ngâm
Cung
thương lầu bậc ngũ âm
Nghề
riêng ăn đứt Hồ cầm một trương.
Khúc
nhà tay lựa nên trương
Một
thiên bạc mệnh lại càng lão nhân.”
Thúy
Kiều không chỉ đẹp mà còn là người con gái tài hoa, thông minh xuất chúng. Chỉ
với sáu câu thơ ngắn gọn, Nguyễn Du đã có thể giải thích ý tài đành hoạ hai. Đã
vốn được trời ban cho một trí tuệ thông minh, sáng suốt lại có ý chí học hỏi,
luyện tập thì tất nhiên là khó có người vượt qua nổi. Nàng có cả tài thơ, tài
hoạ, tài đà, tài nào cũng xuất sắc, cũng thành “nghề” cả. Trong đó, tài đàn của
Thúy Kiều có lẽ đã không còn là tài “cầm” mà tiếng đàn của nàng ăn đứt bất cứ
nghệ sĩ nào và đã trở thành nghề riêng rồi. Không dừng lại ở đó thì để cực tả
cái tài của Kiều, Nguyễn Du cũng đã sử dụng hàng loạt các từ ngữ ở mức độ tuyệt
đối đó là các từ như: vốn sẵn, pha nghề, làu bậc và đủ mùi. Không những giỏi ca hát, chơi đàn mà
Kiều còn sáng tác nhạc nữa. Chính tay nàng đã soạn ra một khúc đàn “Bạc mệnh” để
bày tỏ niềm thương cảm cho cuộc đời của những người con gái tài hoa mà số phận
mỏng manh. Khúc đàn ấy trăm vần thê lương, âm điệu ảo não khiến người nghe phải
buồn bã, ủ ê, động lòng thương xót. Có thể nói chính với bản đàn ấy đã ghi lại
tiếng lòng của một tâm hồn đa sầu đa cảm. Tác giả Nguyễn Du cực tả tài năng của
Kiều chính là ngợi ca cái tâm đặc biệt của nàng. Thông qua đây ta nhận thấy được
tài năng của Kiều vượt lên trên tất cả và là biểu hiện của những phẩm chất cao
đẹp, một vẻ đẹp của trái tim trung hậu, nồng nhiệt, nghĩa tình, vị tha. Từ tất
cả các yếu tố này cũng đã gợi mở ra vẻ đẹp của Kiều là sự kết hợp của sắc – tài
– tình và đạt đến mức siêu phàm, lí tưởng.
Thúy Kiều đẹp, thông minh và tài hoa. Theo quan niệm của cổ nhân, người
đã đẹp lại có nhiều tài tất sẽ bị trời đất ghen, đầy đọa cho bõ ghét. Thúy Kiều
vừa đẹp lại vừa tài hoa làm sao thoát khỏi kiếp đoạn trường. Có những điềm hoặc
lời nói báo trước cho Kiều biết đời nàng sẽ nhiều gian truân. Năm nàng còn thơ
ngây, một thầy tướng đã đoán:
Anh hoa
phát tiết ra ngoài,
Nghìn thu bạc mệnh một đời tài hoa.
Nghìn thu bạc mệnh một đời tài hoa.
Đoạn
trích đã thể hiện ngòi bút tinh tế, tài hoa của Nguyễn Du, khẳng định tài năng
nghệ thuật tả người số một của ông quả là “kì tài diệu bút”. Tả Kiều không cốt
tả hình dáng mà cốt để làm nổi bật vẻ đẹp và trí tuệ của nàng. Những câu thơ về
Kiều còn mang tính chất dự báo về số phận éo le, một cuộc đời đầy trắc trở. Qua
đó cũng thể hiện sự nâng niu trân trọng của Nguyễn Du trước vẻ đẹp của người phụ
nữ.
Cái
thần tình của Nguyễn Du là ông đã xây dựng một nhân vật dường như vi phạm hàng
loạt các chuẩn mực đạo đức xã hội phong kiến, nhưng thực chất Kiều là hiện thân
của những giá trị đạo đức tốt đẹp, sáng trong. Có thể xem nàng là biểu tượng của
tinh thần và tâm hồn dân tộc, là kết tinh của những tình cảm người, giá trị người.
Từ đó thêm nâng niu, trân trọng
những giá trị nhân văn cao đẹp của con người vì chính những giá trị đó, cái đẹp
đó góp phần làm cho cuộc sống thêm muôn phần ý vị, phong phú.