Truyện Kiều là kiệt tác bất hủ của nền
văn học dân tộc và thế giới. Nguyễn Du không những thành công ở phương diện nội
dung mà còn đạt đến đỉnh cao trong nghệ thuật biểu hiện. Thủ pháp tả cảnh ngụ
tình đạt đến trình độ điêu luyện xưa nay hiếm có. Đoạn trích Cảnh ngày xuân thể
hiện sâu sắc tài năng nghệ thuật ấy. Đoạn trích Cảnh ngày xuân là bức tranh mùa
xuân đầy rực rỡ, sinh động, đó cũng chính là không khí náo nhiệt của những ngày
lễ hội đầu năm. Nguyễn Du đã rất thành công khi tái dựng lại được không khí mùa
xuân ấy. Đặc biệt trong sáu câu thơ cuối của đoạn trích, tác giả không chỉ diễn
tả được tâm trạng luyến tiếc, trầm buồn của chị em Thúy Kiều khi trở về mà còn
tái hiện được một bức tranh mùa xuân trong ánh chiều tà:
Tà tà bóng ngã về tây,
Chị em thơ thẩn giang tay ra về.
Bước dần theo ngọn tiểu khê,
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh.
Nao nao dòng nước uốn quanh,
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang.
Nguyên tắc của thơ xưa, khi miêu tả cảnh
bao giờ cũng gắn với con người và thể hiện tình cảm của đối tượng. Khung cảnh
luôn là vật chiếu, khúc xạ những tâm tư, tình cảm của nhân vật “Cảnh nào cảnh
chẳng đeo sầu/ Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Không nằm ngoài nguyên
tắc chung đó, thơ Nguyễn Du cũng thể hiện tương tự như vậy. Sáu câu thơ cuối
trong đoạn trích Cảnh ngày xuân không chỉ kể về kết thúc ngày hội du xuân, mà
còn thể hiện những xúc cảm, suy nghĩ của nhân vật. Cảnh vật được gợi tả nhẹ
nhàng mà vô cùng tinh tế. Đất trời buổi chiều thanh thanh thật dễ chịu. Mọi âm
thanh náo động của ngày hội xuân đã nhường chỗ cho sự yên ắng lạ thường.
Sau khi thể hiện không gian buổi sáng
xuân tràn ngập tiếng cười nói, đông đúc người qua lại, Nguyễn Du miêu tả cảnh
chiều về như một bữa tiệc xuân đi vào hồi kết. Cảnh chiều tàn như mang cả nỗi
lòng, tâm trạng của nhân vật trữ tình:
Tà tà bóng ngả về tây
Chị em thơ thẩn dang tay ra về.
Thời gian buổi chiều tà được khéo léo
gợi tả qua hai chữ “tà tà” và hình ảnh “bóng ngã về tây”. Từ láy “tà
tà” vừa gợi ra hình ảnh mặt trời đã xế chiều, lại vừa gợi ra nhịp vận động
chậm rãi của thời gian. Con người như muốn níu kéo thêm một chút khoảnh khắc
tươi đẹp của ngày xuân trước khi bầu trời chìm hẳn vào bóng đêm. Cụm từ “bóng
ngã về tây” khắc hoạ rõ ràng hơn bước đi chậm rãi của thời gian. Chữ “bóng”
ở đây không phải chỉ cái bóng của con người trên mặt đất mà đó chính là mặt trời.
Đó là lúc thời gian và không gian thay đổi, chiều muộn, ác tà buông xuống. Trong
cùng một câu thơ, Nguyễn Du đã dùng nhiều biểu tượng để nói về thời gian quả thực
là có dụng ý. Bóng chiều lặng lẽ buông xuống trong khi cuộc vui vẫn còn sôi nổi,
chị em Thuý Kiều chưa muốn rời gót ra về. Họ vẫn còn muốn lưu lại thêm chút nữa,
muốn thời gian ngừmg trôi. Thế nên, hình ảnh mặt trời “bóng ngả về tây”
khiến họ thấy buồn buồn vô cớ. Bức tranh vào lúc chiều tà nhẹ nhàng khép lại một
ngày du xuân. Sau một ngày đi hội và du xuân, chị em Thúy Kiều “thơ thẩn
giang tay ra về”. “Thơ thẩn” là tâm trạng bần thần, lưu luyến, tiếc
nuối cảnh vật, tiếc nuối lễ hội đông vui đã không còn, tiếc nuối những phút
giây gặp gỡ đầy ấn tượng. Họ tiếc cho ngày vui chóng tàn nên cứ “thơ thẩn”
không vội về ngay.
Nhà thơ tiếp tục theo dấu bước chân
nhân vật:
Bước dần theo ngọn tiểu khê,
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh.
Hai chị em Thúy Kiều bước đi dọc ven
dòng suối nhỏ bên đường. Những từ “bước dần”, “lần xem” cho thấy hai
nhân vật chỉ bước những bước chân nhẹ nhàng, chậm dãi nửa muốn đi, nửa như muốn
ở. Không khí náo nhiệt buổi sáng của lễ tảo mộ, hội đạp thanh nhộn nhịp lùi lại
nhường chỗ cho không gian rộng vắng nhưng không kém phần thơ mộng của cảnh vật.
Đó là cái rộng của mây trời, cái vắng của con đường ít chân người và cái thơ của
phong cảnh “thanh thanh”. Cảnh vật đẹp trong tĩnh lặng. Nguyễn Du đã vận
dụng tài tình thủ pháp tả cảnh ngụ tình của thi pháp trung đại. Ông không dùng
một từ ngữ miêu tả tâm trạng nào trong đoạn thơ, chỉ miêu tả chân thực, vậy mà
có thể làm cho cảnh vật trở nên hư ảo, thấm đượm tâm trạng con người. Cảnh vật
không còn cái không khí rộn ràng, sắc thái trong sáng và tinh khôi như ở bốn
câu thơ đầu nữa. Khi con người đắm mình trong cảnh xuân đẹp đẽ, hội xuân rộn
ràng thì thời gian cứ lặng lẽ trôi đi. Nó bất chấp khát vọng níu kéo thời gian
của con người. Câu thơ ẩn chứa một nỗi niềm sâu xa. Cảnh xuân dù có đẹp thế nào
cũng có lúc tàn phai. Hội xuân dẫu có vui thế nào rồi cũng sẽ tan rã. Một ngày
chơi xuân ngắn ngủi gợi lên sự hối hả của lòng người mong muốn tận hưởng được hết
cái đẹp trước khi nó tàn phai, khô héo.
Cảnh vật lúc về chiều không còn nhộn
nhịp, rộn ràng như buổi sớm nữa. Tất cả bỗng trở nên nhỏ nhắn, mềm mại. lắng lại,
nhạt dần, hoang vắng, êm ả, yên tĩnh hơn với hình ảnh dòng suối nhỏ:
Nao nao dòng nước uốn quanh,
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang.
Bốn bề thanh thanh, yên ắng. Dòng suối
êm ả chảy qua những hòn đá nhỏ “nao nao” mặt nước. “Nao nao” là
trạng thái của dòng nước đồng cảm với tâm trạng con người. Cảm giác bâng
khuâng, xao xuyến về một ngày xuân đang còn mà nhiều linh cảm về điều sắp xảy
ra đã xuất hiện (Kiều gặp mộ Đạm Tiên, gặp chàng thư sinh Kim Trọng). Dịp cầu
nho nhỏ xinh xinh bắc ngang dòng suối tạo nên vẻ đẹp thơ mộng. Các từ lấy “tà
tà”, “thanh thanh”, “nao nao” không chỉ miêu tả cảnh vật mà còn bộc lộ tâm
trạng con người. Cảnh đi vào chiều sâu của sự yên tĩnh, vắng lặng. Nhà thơ đã
không dùng từ chảy để miêu tả dóng nước mà chỉ gợi nên sự chảy ấy bằng từ “nao
nao” vô cùng tinh tế. Đây là bức tranh tả cảnh ngụ tình mẫu mực, đặc sắc
trong “Truyện Kiều”. Mỗi bức tranh thiên nhiên cũng là một bức tâm tình đầy xao
xuyến. Nước luôn là hình ảnh biểu hiện cho dòng chảy của thời gian. Không có tiếng
nước chảy. Dòng nước chuyển lưu âm thầm nhưng vội vã. Hai từ “nao nao” gợi
lên tâm trạng buồn buồn của con người. Một nỗi buồn vô cớ. Một nỗi bồn chồn chợt
đến từ đâu đó không thể lí giải được. Giống như Nguyễn Du đã từng nói:
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.
Niềm háo hức, say mê của con người
sáng nay cũng đã phai nhạt khi thời gian phủ xuống. Cảnh không buồn nhưng thời
gian gợi buồn. Sắc xuân vẫn tươi nhưng cảnh vật yên ắng khiến cho lòng người thổn
thức, nôn nao. Đó cũng là những cảm giác lo âu của tâm hồn thiếu nữ khi sắp bước
vào cuộc đời lớn. Sau cuộc hội xuân năm nay, có thể các nàng sẽ phải thực hiện
nghĩa vụ đối với gia đình. Có thể các nàng sẽ phải rời xa gia đình dựng xây tổ ấm.
Có thể, điều đó khiến các nàng bâng khuân. Chưa biết điều gì sẽ xảy đến. Có thể
đây sẽ là cuộc hội xuân cuối cùng lúc còn xuân trẻ.
Thủ pháp tả cảnh ngụ tình đặc sắc được
thi nhân nhân vận dụng tinh tế. Mùa xuân đến rồi đi. Hội xuân hợp rồi tan. Ý
thơ mở rồi đóng, đóng rồi lại mở một cách tự nhiên, linh hoạt đã dẫn độc giả đến
với câu chuyện về cuộc đời nàng Kiều một cách chân thực, sống động và hợp lí. Lời
thơ bộc lộ cảm xúc nuối tiếc, vương vấn, bịn rịn của hai nàng Kiều khi phải rời
khỏi cái náo nhiệt, rộn rã, tươi vui của không khí lễ hội. Với việc thể hiện những
nét tâm trạng như thế, nhà thơ đã thể hiện chân thực vẻ đẹp tâm hồn của người con
gái vốn sống trong cảnh “êm đềm trướng rủ màn che”. Nay lần đầu được tiếp xúc với
bầu không khí tươi vui, náo nhiệt chốn đông người không khỏi tránh được cảm
giác hụt hẩng, luyến tiếc khi phải rời xa là điều hiển nhiên.
Với bút pháp cổ điển nhưng đầy sáng tạo,
dường như mỗi bức tranh thiên nhiên trong Truyện Kiều đều nhuốm màu tâm trạng.
Trong bức tranh thiên nhiên, Cảnh mùa xuân, tâm trạng con người cũng biến màu
theo cảnh vật sáng – chiều, đầu hội – cuối hội và những linh cảm về tương lai. Đoạn
trích đã thể hiện bút pháp tả cảnh giàu chất tạo hình, chuyển từ miêu tả sang tả
cảnh ngụ tình trong nghệ thuật miêu tả và ngôn ngữ trong sáng giàu chất thơ của
Nguyễn Du. Đó là tài nghệ tả cảnh ngụ tình của thi hào Nguyễn Du mà thi sĩ cùng
thời khó có thể sánh bằng.
Nguồn: ST &