Trong cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc vĩ đại, hình ảnh người lính mãi mãi là hình ảnh cao quý nhất, đẹp đẽ nhất. Hình tượng người lính đã đi vào lòng người và văn chương với tư thế, tình cảm và phẩm chất cao đẹp. Bài thơ Đồng chí của thơ Chính Hữu đã dung hoà được chất giọng lãng mạn văn chương và vẻ đẹp dung dị của anh Vệ quốc. Nhà thơ đã tạc vào không gian nghệ thuật giầu chất sử thi ba nhân vật: Người lính, khẩu súng và vầng trăng như một bức phù điêu hoành tráng của kháng chiến. Bài thơ rất thực mà vẫn không kém phần thơ mộng. Không phải ngẫu nhiên khi đề cập đến thơ ca kháng chiến không thể không nhắc đến bài thơ Đồng chí. Bài thơ giàu khả năng tạo hình và nhịp điệu, nhạc điệu lan toả hình tượng người lính cách mạng nổi bật vẻ đẹp của tình đồng chí đồng đội keo sơn, gắn bó:
Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá.
Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau.
Súng bên súng đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ.
Đồng chí!
Theo từ điển “Tiếng Việt” đồng chí
là: “Người cùng chí hướng chính trị trong quan hệ với nhau”. Đây là tình cảm gắn
bó giữa những người cùng cảnh ngộ, cùng môi trường sống. Bài thơ thoạt đầu đọc
tên lên tưởng là khô cứng, nghiêm ngắn của nhà binh nhưng chỉ có duy nhất từ “đồng
chí” được nhắc đến một lần còn là những hình ảnh chân thật mà vô cùng sống động
để đẩy tới cao trào của biểu tượng khi kết bài “Đầu súng trăng treo”. Độ ngân
xa, ngân vọng của thơ ông vẫn âm hưởng đến bây giờ vừa cảm xúc vừa giàu trí tuệ,
có độ dồn nén lay động.
Kháng chiến là một cuộc hội ngộ lớn của
rất nhiều con người Việt Nam, từ miền xuôi đến miền ngược, từ miền Bắc đến miền
Nam, rõ ràng là họ từ những miền quê khác nhau mà tụ họp trong cuộc kháng chiến
này, vì một mục đích chung, là chiến đấu cho độc lập tự do của dân tộc. Bằng giọng
thơ mộc mạc nhưng trữ tình, chân chất mà gợi cảm, tác giả đã nhìn nhận, đã đi sâu vào xuất thân của những người lính:
Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá.
Hai câu thơ vừa như đối nhau, vừa như
song hành, thể hiện tình cảm của những người lính. Anh và tôi, hai người bạn mới
quen, đều xuất thân từ những vùng quê nghèo khó. Anh ra đi từ vùng “nước mặn
đồng chua” (nơi đồng bằng chiêm trũng đất bị nhiễm mặn, nhiễm phèn), tôi đi
từ miền “đất cày lên sỏi đá” (là vùng đất trung du cằn cỗi khô hạn, đất
đai bạc màu khó canh tác). Dẫu hai miền quê xa nhau, ở 2 phương trời khác biệt
như thế, nhưng đều có điểm chung ở cái nghèo khổ, không nhận được sự ưu ái của
mẹ thiên nhiên. Là những nơi mà nói như Chế Lan Viên “đất không nuôi nổi người,
người không nuôi nổi đất”. Và chính điều đó cho thấy họ phải sống 1 cuộc sống
lầm lũi, nghèo khó quanh năm, một cuộc sống bán mặt cho đất, bán lưng cho trời,
quanh quẩn trong những cái mảnh vườn mảnh ruộng sau lũy tre làng khiến cho ta
không khỏi thấm thía, xót xa. Và phải
chăng chính cái xuất thân ấy khiến cho họ có sự đồng cảm với nhau, và rồi từ sự
đồng cảm ấy mới nảy sinh tình đồng chí. Ngoài ra tác giả còn gợi lên không khí
cách mạng của thời đại. Một thời đại mà cả nước ra trận, cả nước hi sinh cái
riêng tư của mình cho cái lợi ích chung của toàn dân tộc. Và trong không khí ấy
ta còn thấy cuộc đổi đời vĩ đại của giai cấp nông dân, lần đầu tiên trong lịch
sử họ đứng lên làm chủ đất nước, làm chủ cuộc đời mình.
Mà nói như Nguyễn Đình Thi:
“Ôm đất nước những người áo vải
Đã đứng lên thành những anh hùng.”
Từ những vùng quê nghèo khổ ấy, họ tạm
biệt người thân, tạm biệt xóm làng, tạm biệt những bãi mía, bờ dâu, những thảm
cỏ xanh mướt màu, họ ra đi chiến đấu để tìm lại, giành lại linh hồn cho Tố quốc:
Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau.
Hai câu thơ thể hiện rất rõ sự biến đổi
của tình đồng chí. Không hẹn đợi, chẳng thân quen, thậm chí còn xa cách quá chừng
mà bỗng nhiên trở thành gần gũi. Là bởi vì họ cùng bước vào ngày hội của non
sông. Chính cuộc kháng chiến vĩ đại, chính cái lí tưởng cách mạng, cái đồng
lòng về tình yêu nước, lại thêm sự cảm thông về cảnh ngộ xuất thân như nhau đã
gắn kết những con người xa lạ lại với nhau.
Nếu ở trên kia là sự xa cách
“Quê hương anh…
Làng tôi…”
Thì ở đây là sự sóng đôi với nhau “anh
với tôi” rồi “đôi” thể hiện sự gắn bó khó có thể tách rời. Đó là cái
bước ngoặt “quen nhau”. Họ không cần ai hô gọi cũng chẳng cần ai khích lệ,
không cần lập công danh để lại tiếng thơm cho đời. Điều họ cần chỉ đơn giản là
bảo vệ độc lập đất nước, bảo vệ cuộc sống hoà bình ấm no cho mọi người. Họ đều
là những người nông dân mặc áo lính ra đi từ các làng quê nghèo vừa được Cách mạng
giải phóng và giờ đây gắn bó thắm thiết vì mục đích của cuộc chiến đấu. Họ đã đứng
lên cùng nhau chung tay dốc hết sức mình để bảo vệ đất nước. Dù biết sẽ có hi
sinh có mất mát nhưng họ vẫn quyết định vùng lên. Đó là một tinh thần một nghĩa
cử cao đẹp, vì nghĩa lớn mà quên đi bản thân. Tôi và anh tuy đến từ những nơi
khác nhau nhưng chính tình yêu nước đã gắn kết chúng ta lại với nhau.Sự gắn bó
trong quân đội cách mạng giữa những người nông dân “tứ xứ” này cũng được Hồng
Nguyên thể hiện một cách hồn nhiên trong phần mở đầu bài Nhớ:
Lũ chúng tôi.
Bọn người tứ xứ
Gặp nhau hồi chưa biết chữ
Quen nhau từ buổi một, hai
Súng bắn chưa quen.
Quân sự mươi bài
Lòng vẫn cười vui kháng chiến…
Họ đến với cách mạng cũng vì lí tưởng
muốn dâng hiến cho đời. Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình. Chung một khát vọng,
chung một lí tưởng, chung một niềm tin và khi chiến đấu, họ lại kề vai sát cánh
chung một chiến hào...
Súng bên súng đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ.
Đồng chí!...
Lời thơ như nhanh hơn, nhịp thơ dồn dập
hơn, câu thơ cũng trở nên gần gũi hơn. Một loạt từ ngữ liệt kê với nghệ thuật
điệp ngữ tài tình, tạo âm điệu khỏe khoắn, nhấn mạnh sự gắn kết, cùng chung lí
tưởng, cùng chung nhiệm vụ. Súng biểu tượng cho nhiệm vụ chiến đấu chống kẻ thù
bảo vệ đất nước, đầu biểu tượng cho lí tưởng, suy nghĩ họ chung nhau cuộc đời
quân ngũ. Họ chiến đấu
hôm nay có thể ngã xuống ngày mai nhưng điều quan trọng là thế hệ con cháu mai
sau sẽ được hưởng hòa bình hạnh phúc. Đây vừa là hình ảnh tả thực vừa là hình ảnh
mang tính biểu trưng. Hình ảnh tả thực những người lính kề vai chiến đấu, gợi
ra hình ảnh một đoàn quân nối tiếp nhau chiến đấu vì ngày mai. Hình ảnh ấy còn
biểu trưng cho sự đồng cảm, sự sẻ chia và quan trọng nhất là cùng chung chí hướng.
Những năm đầu kháng chiến chống Pháp
bộ đội ta trải qua biết bao khó khăn, thiếu thốn như nhà thơ Tố Hữu từng viết:
“Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng”
Và ở đây Chính Hữu cũng một lần nữa
tái hiện:
Đêm rét chung chăn là cách nói giản dị, hình ảnh chân
thực, thật cảm động và đầy ắp kỉ niệm. Ta thấy sự sẻ chia ấm áp trong cuộc đời
quân ngũ. Thiết nghĩ rằng tấm chăn bộ đội bạc màu sương gió ấy, khó có thể chống
lại được cái giá rét nơi núi rừng, song chính cái cử chỉ đêm rét chung chăn đã
mang đến hơi ấm. Hạnh phúc là được nằm trong tấm chăn ấm ấy. Nhưng người chiến
sĩ không ích kỉ độc chiếm làm của riêng mà họ chia sẻ cho nhau. Bởi lẽ rằng, cái ấm áp đó không phải nơi tấm
chăn nữa, mà nó tỏa ra từ tình cảm, từ sự sẻ chia của những người lính. Dường
như giữa họ không còn khoảng cách. Để rồi từ đôi người xa lạ rồi thân quen mà
đã biến thành đôi tri kỉ(tức là hiểu bạn như hiểu chính bản thân mình). Mọi khoảng
cách không còn và tạo nên tình đồng chí cứ lớn dần, sâu nặng theo thời gian.
Bài thơ ngắt nhịp đột ngột, âm điệu
hơi trầm và cái âm vang lạ lùng cũng làm cho tình đồng chí đẹp hơn, cao quý
hơn. Đến đây nhà thơ hạ xuống một dòng thơ đặc biệt với hai tiếng:
Đồng chí!...
Câu thơ chỉ có hai tiếng nhưng âm điệu
lạ lùng đã tạo nên một nốt nhạc trầm ấm, thân thương trong lòng người đọc. Câu thơ
ngắn, hình thức cảm thán vang lên như một phát hiện, một lời khẳng định sự kết
tinh tình cảm giữa những người lính. Trong muôn vàn nốt nhạc của tình cảm con
người phải chăng tình đồng chí là cái cung bậc cao đẹp nhất, lí tưởng nhất. Đồng
chí hai tiếng ấy nghe vừa quen vừa lạ, vừa cất lên đã nghe rung động xốn xang.
Tình đồng chí ở đây vừa là tình chiến đấu, vừa là tình thân - cả hai đều máu thịt.
Từ đồng chí đứng tách thành một dòng vang lên như một nốt nhấn cảm động đến nao
lòng. Đó vừa là tên gọi, tiếng gọi quan hệ của của người cùng chung đội ngũ. Tiếng
gọi sâu thẳm, thiêng liêng, cảm động không diễn tả hết bằng lời. Nhịp thở của
bài thơ như nhẹ nhàng hơn, hơi thơ của bài thơ cũng như mảnh mai hơn. Dường như
Chính Hữu đã thổi vào linh hồn của bài thơ tình đồng chí keo sơn, gắn bó và một
âm vang bất diệt làm cho bài thơ mãi trở thành một phần đẹp nhất trong thơ
Chính Hữu. Vì thế, chúng ta thêm hiểu vì sao Chính Hữu lại đặt tên bài thơ của
mình là Đồng chí mà không lấy một cái tên khác, chẳng hạn “đồng đội”. Quả thật,
chữ “đồng chí” hàm nghĩa rất cao và sâu. Nghĩa đồng chí, một mặt là cơ sở, là nền
tảng; mặt khác, cũng là cốt lõi, là bản chất của tình đồng đội.
Quả thật, bài thơ là một xúc cảm
thiêng liêng, là một tình yêu rộng lớn, trong cái lớn lao nhất của đời người. Gặp
nhau trên cùng một con đường Cách mạng, tình đồng chí như được thắt chặt hơn bằng
một sợi dây yêu thương vô hình. Bài thơ Đồng chí với ngôn ngữ chân thực, hình ảnh
lãng mạn, nụ cười ngạo nghễ của các chiến sĩ đã lay động biết bao trái tim con
người. Tình đồng chí ấy có lẽ sẽ sống mãi với quê hương, với Tổ quốc, với thế hệ
hôm nay, ngày mai hay mãi mãi về sau.
Bài thơ Đồng chía đã xây dựng một bức
tượng đài bất diệt về hình ảnh người lính trong kháng chiến chống Pháp, họ mang
vẻ đẹp giản dị, mộc mạc, cùng chung lí tưởng chiến đấu và cùng sẻ chia gian khó
trong những ngày tháng chiến đấu hào hùng của dân tộc. Nhờ có các anh, những
người chiến sĩ vô danh đã thầm lặng hi sinh để đất nước hôm nay được thanh
bình, phát triển. Nhờ có các anh, những người chiến sĩ vô danh đã thầm lặng hi
sinh để đem lại bình yên cho dân tộc hôm nay. Chiến tranh trôi qua, hòa bình này đã được lập lại
nhưng những năm tháng gian khổ mà hào hùng đó vẫn mãi là một chương quan trọng
trong cuốn sách với những trang sử vàng vẻ vang của dân tộc. Ta lại càng ý thức
hơn nữa lòng biết ơn dành cho các anh bộ đội cụ Hồ đã đổ bao xương máu để đất
nước giang sơn được như ngày hôm nay.