“Quê hương là gì hở mẹ
Mà cô giáo dạy phải yêu
Quê hương là gì hở mẹ
Mà ai đi xa cũng nhớ nhiều…” (Quê hương – Đỗ Trung Quân)
Từ rất lâu, “quê hương” đã trở thành
tiếng gọi thân thương. Đó là đề tài lớn, vượt cả không gian lẫn thời gian để đến
với bao triệu tâm hồn yêu văn chương. Quê hương ấp ủ những hình ảnh gắn liền với
tuổi thơ đầy ước vọng: là cánh diều no gió vươn cao, là biển lúa vàng óng ánh,
là mái đình rêu phong, là hồ sen thơm ngát buổi trưa hè. Khi viết về tình yêu
làng xóm, quê hương, nền văn học đương đại cũng không thể nào không nhắc đến
Kim Lân – một nhà văn trọn đời gắn tâm hồn chân tình và mộc mạc của mình với làng
quê. Tâm hồn ấy được thể hiện sâu sắc qua nhân vật ông Hai trong tác phẩm Làng
của tác giả.
Kim Lân có một vốn sống cũng như trải
nghiệm chân thật đối với nếp sinh hoạt vùng nông thôn, xứng đáng là một cây bút
độc đáo về đề tài làng quê Việt Nam. Từng trang viết của nhà văn như được sinh
ra từ đồng ruộng đều cay xè mùi khói bếp, thơm thơm mùi lúa chín, ngai ngái cái
nghèo đó của mùi rơm rạ hay bảng lảng những cánh cò chao nhịp trên đồng ruộng
mênh mông. Điểm đặc biệt là ở các tác phẩm của ông đều kết thúc hướng về ánh
sáng của Cách mạng nên không tăm tối như những nhà văn hiện thực đương thời.
Làng là một tác phẩm ra đời trong những
năm đầu cuộc kháng chiến chống Pháp gợi nhiều suy nghĩ cho người đọc về những
thay đổi trong nhận thức và tình cảm của người nông dân. Câu chuyện xoay quanh
nhân vật chính là ông Hai – một người rất tự hào và yêu mến làng Chợ Dầu của
mình. Do chiến tranh nên gia đình ông phải tản cư nhưng ông luôn mong ngóng tin
tức về làng. Hình ảnh ông Hai đau khổ khi nghe tin làng theo giặc được miêu tả
rất độc đáo. Cuối truyện, ông Hai vui mừng khi nghe tin cải chính rằng làng
mình không theo giặc dù cho nhà ông bị đốt trong đám cháy ấy. Ở nhân vật này,
ông Hai thể hiện nhận thức của mình, hơn cả là nhận thức chung của giai cấp
nông dân trong cuộc chiến tranh vệ quốc. Từ tình yêu làng da diết, nhân vật đã
nâng lên thành tinh thần yêu nước mạnh mẽ, hi sinh tài sản riêng để giữ vững
lòng trung với Tổ Quốc.
Đến với Làng, người đọc nhận thấy trước hết,
ông Hai đã cho thấy tình yêu làng da diết qua hành động khoe làng của mình. Trước
Cách mạng tháng Tám, khi nhắc đến làng là ông Hai tự hào về cái “sinh phần” của
viên tổng đốc làng ông, nó nguy nga, đồ sộ. Không những thế, ông còn khoe và
hãnh diện với mọi người về: “con đường làng trải toàn là đá xanh. Trời mưa,
trời gió bão, bùn đi không dính gót. Trong làng, nhà ngói san sát như trên tỉnh”.
Sau cách mạng tháng Tám, khi khoe làng, ông còn nhắc đến những ngày cùng anh em
đào đường, đắp ụ, xẻ hào, khuân đá. Điều đó cho thấy rõ ràng trong ông Hai đã
có sự thay đổi về nhận thức. Trước đây ông chỉ chú ý đến cái hào nhoáng, bóng bẩy
bên ngoài thì giờ đây ông trân trọng những kỉ niệm khi cùng mọi người xây dựng
cho làng. Từ hình ảnh khoe làng giàu và đẹp, ông đã thay đổi nhận thức của
mình. Làng vẫn giàu và đẹp đó nhưng giờ đây làng rất yêu nước, rất “tinh thần”.
Ngoài ra, tình yêu ấy còn thể hiện
khi gia đình ông xa làng đi tản cư. Ông nhớ: “Ôi nhớ làng, nhớ cái làng quá”.
Điều đó không lạ bởi “làng” là nơi thân thương gắn bó, là nơi chôn nhau cắt rốn
gắn với những kỉ niệm sâu sắc của người nông dân. Sự gắn bó ấy làm sống dậy tâm
hồn của những sự vật tưởng gần như vô tri vô giác.
“Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn.” (Chế Lan Viên)
Điều khiến người đọc trân trọng và cảm
phục đó chính là lòng yêu nước nồng nàn. Mặc dù rất muốn cùng anh em ở lại giữ
ngôi làng thân thuộc nhưng vì chính sách của cụ Hồ, ông Hai đành phải làm theo
và tự nhủ “tản cư cũng là kháng chiến”. Có thể thấy, ông Hai và những
người có suy nghĩ như ông đều tin rằng bản thân mình tuân theo điều lệnh cũng
chỉ để phục vụ cho việc kháng chiến diễn ra suôn sẻ. Ấy là một cách nghĩ đơn giản
nhưng có lí, có tình. Ở nơi xa quê hương, hình ảnh một ông lão đứng ngóng chờ
nghe tin tức kháng chiến thật dễ mến. Mỗi khi có tin báo thắng lợi từ đài phát
thanh “ruột gan ông như múa cả lên”, lúc ấy, ông Hai rất vui và hòa cùng tiếng
reo với mọi người. Tình
yêu làng của ông Hai cũng là tình yêu của biết bao nhiêu con người Việt Nam
trong kháng chiến. Chính tình yêu ấy là động lực thôi thúc họ giữ đất, giữ
làng, giữ nét văn hóa cổ truyền của dân tộc.
Tình yêu làng của nhân vật được nhà
văn đặt trong tình cảnh éo le đó là khi ông hay tin làng Chợ Dầu “Việt gian
theo Tây”. Nghe tin sét đánh ấy, ông Hai bàng hoàng: “cổ ông nghẹn ắng hẳn lại,
da mặt tê rân rân … giọng lạc hẳn đi”. Từ đỉnh cao của niềm vui, niềm tin
ông Hai rơi xuống vực thẳm của sự đau đớn, tủi hổ vì cái tin ấy quá bất ngờ. Cái
tin ấy được những người tản cư đã kể rảnh rọt quá, lại khẳng định họ “vừa ở
dưới ấy lên” làm ông không thể không tin. Sự đau đớn thể hiện rõ qua nét mặt,
cử chỉ, giọng nói của ông lão. Không đau đớn và bàng hoàng sao được vì sâu thẳm
trong con tim ông làng Chợ Dầu là làng anh hùng, làng của kháng chiến và cách mạng.
Thế mà giờ đây, tất cả niềm tin, hi vọng, niềm tự hào đã hoàn toàn sụp đổ trong
ông. Vì vậy mà trên đường về nhà “ông Hai cúi gằm mặt xuống mà đi”, ông
xấu hổ không dám nhìn ai, ông tự vấn lương tâm của chính mình. Còn gì chua
chát, đau đớn hơn khi giọng nói của người đàn bà cho con bú vẳng vọng theo: “Cha
mẹ tiên sư chúng nó! Đói khổ ăn cắp ăn trộm bắt được người ta còn tha. Còn cái
giống Việt gian bán nước chỉ cho mỗi đứa một nhát.” Tình yêu làng bị sụp đổ,
tình cảm của ông bị tổn thương. Và chỉ có tình yêu sâu nặng với quê hương của
mình, con người ta mới thấy nỗi đau đớn ấy mà ông Hai là một ví dụ điển hình.
Còn gì đớn đau hơn khi lòng tự tôn của mình lại bị một sự thật bẽ bàng làm cho
sụp đổ. Còn gì đớn đau bằng cái nỗi đau về nơi mình luôn tự hào lại là nơi mình
phải hổ thẹn?
Sự uất ức đến căm giận theo đuổi ông
mãi khi về tận nhà. Lúc ấy, nước mắt ông lão giàn ra, ông rít lên những tiếng
kêu đau đớn, nhục nhã. Đồng cảm với nhân vật ấy, người đọc như cảm nhận sự đau
đớn, hổ thẹn và uất ức theo từng cử chỉ, từng hành động của ông. Có lẽ đây là
đoạn miêu tả nội tâm độc đáo nhất, thành công nhất của nhà văn. “Nhìn lũ
con, tủi thân, nước mắt ông lão cứ giàn ra. Chúng nó cũng là trẻ con
làng Việt gian đấy ư? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi
đấy ư?”. Nghệ thuật độc thoại nội tâm diễn tả cụ thể những câu hỏi giằng
xé trong đầu ông Hai. Nếu không yêu làng đến thế thì ông không đau đớn, tủi nhục
đến vậy. Ông căm thù những kẻ theo Tây, phản bội làng, ông nắm chặt hai tay lại
mà rít lên: “Chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống
Việt gian bán nước để nhục nhã thế này”. Niềm tin, nỗi ngờ vực giằng xé
trong ông. Ông kiểm điểm lại từng người trong óc, thấy họ đều có tinh thần cả “có
đời nào lại cam tâm làm điều nhục nhã ấy”. Ông đau xót nghĩ đến cảnh “người
ta ghê tởm, người ta thù hằn cái giống Việt gian bán nước”. Tác giả đã để
cho nhân vật trải qua từng cung bậc tâm lí, đẩy lên cao trào rồi bật ngược như
vỡ òa ở phần sau. Ngẫm kĩ, ta thấy đối với người nông dân chất phác, tay lấm
chân bùn thì cái tin làng theo giặc quả thật là cú sốc to lớn, là điều đau đớn
và nặng nề mà họ phải chịu đựng.
Từ đau đớn, nhục nhã, tâm trạng ông
Hai chuyển sang lo lắng, sợ hãi: “Đã ba bốn hôm nay, ông Hai không bước
chân ra đến ngoài, cả đến bên bác Thứ ông cũng không dám sang. Suốt
ngày ông chỉ quanh quẩn ở trong cái gian nhà chật chội ấy mà nghe
ngóng … Cứ thoáng nghe những tiếng Tây, Việt gian, cam – nhông… là ông
lủi ra một góc nhà, nín thít.”. Nỗi ám ảnh, day dứt nặng nề biến thành
sự sợ hãi thường xuyên trong ông. Ông cảm thấy như mình mang nỗi nhục của tên
bán nước Việt gian theo Tây. Từ chỗ một con người sống cởi mở, niềm nở, ông trở
thành người khép nép, lo lắng.
Tình thế của ông càng trở nên bế tắc,
tuyệt vọng khi bà chủ nhà có ý đuổi gia đình ông với lý do không chứa người của
làng Việt gian. Ông đau khổ không phải vì bị đuổi đi mà đau khổ vì lí do bị
đuổi. Có lúc ông lại nghĩ đến việc về lại làng nhưng lại nghĩ: “Về làm gì
cái làng ấy nữa, chúng nó theo Tây cả rồi. Về làng tức là bỏ kháng chiến, bỏ Cụ
Hồ.”, là cam chịu
quay trở lại làm nô lệ cho thằng Tây. Tình yêu làng lúc này đã lớn rộng thành
tình yêu nước bởi dẫu tình yêu, niềm tin và tự hào về làng Dầu có bị lung lay
nhưng niềm tin về Cụ Hồ và cuộc kháng chiến không hề phai nhạt. Đó là cả một
nhận thức lớn trong tâm hồn của người nông dân. Với một người chỉ qua lớp bình dân học vụ, chỉ biết
vài con chữ nhưng mỗi sáng vẫn đọc to từng chữ trên báo, vẫn hòa cùng mọi người
bàn tán về tình hình, ta thấy tinh thần ấy thật đáng quý.
Thật khó để ông đi đến lựa chọn: “Làng
thì yêu thật nhưng làng theo Tây thì phải thù”. Câu nói ấy thể hiện tấm
lòng son sắc của ông dành cho quê hương, đất nước, qua đó ông đưa ra quyết định,
thà không quay về làng cho thấy sự kiên quyết trong cách nghĩ, cách sống của
ông Hai. Niềm mơ ước lớn lao nhất của ông chính là được quay về làng thăm lại
anh em, đồng chí. Vậy mà giờ đây, ông không những buộc phải bỏ làng mà còn thù
làng. Chắc chắn, để đi đến quyết định này, nhân vật cũng khổ tâm và đau đớn hơn
cả. Dù đã xác định thế nhưng ông vẫn không thể dứt bỏ tình cảm của mình đối với
quê hương. Bởi thế mà ông càng xót xa, đau đớn. Người nông dân trong văn của
Kim Lân là như thế, yêu ghét rõ ràng, rạch ròi.
Trong tâm trạng bị dồn nén và bế tắc ấy,
ông chỉ còn biết tìm niềm an ủi trong lời tâm sự với đứa con trai nhỏ. Ông Hai trò
chuyện với đứa con út (thằng cu Húc), giúp ông bày tỏ tình yêu sâu nặng với
làng Chợ Dầu (nhà ta ở làng Chợ Dầu), bày tỏ tấm lòng thủy chung son sắt
với kháng chiến, với Cụ Hồ (chết thì chết có bao giờ dám đơn sai). Đó là
một cuộc trò chuyện đầy xúc động. Nỗi nhớ quê, yêu quê, nỗi đau đớn khi nghe
tin quê hương theo giặc cứ chồng chéo đan xen trong lòng ông lão. Nhưng trong
ông vẫn cháy lên một niềm tin tưởng sắt đá, tin tưởng vào Cụ Hồ, tin tưởng vào
cuộc kháng chiến của dân tộc. Niềm tin ấy đã phần nào giúp ông có thêm nghị lực
để vượt qua khó khăn này. Dường như ông Hai đang nói chuyện với chính mình,
đang giãi bày với lòng mình và cũng như đang tự nhắc nhở: hãy luôn “Ủng hộ Cụ
Hồ Chí Minh”. Tình quê và lòng yêu nước thật sâu nặng và thiêng liêng. Đau
khổ tột cùng khi nghe tin làng mình theo giặc nhưng tấm lòng thủy chung, son sắt
với cuộc kháng chiến thì vẫn không hề thay đổi.
Cuối truyện, gương mặt buồn thiu ngày
nào bỗng vui mừng, rạng rỡ hẳn lên. Lúc ông Hai nghe tin cải chính làng không
theo giặc, đi đến đâu ông cũng bô bô: “Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ, đốt nhẵn!
Toàn là sai sự mục đích cả. Láo. Láo hết”. Hành động thì “múa tay lên mà
khoe cái tin ấy với mọi người”. Thật ngạc nhiên khi nhà cửa ông bị đốt, khi
ngôi làng thân thương của ông bị đốt, ông lại tỏ vẻ vui mừng, đi khoe với mọi
người sự mất mát ấy. Mất hết cả cơ nghiệp mà ông không hề buồn tiếc, thậm chí
còn rất sung sướng, hạnh phúc. Phải chăng, niềm hạnh phúc to lớn hơn đằng sau ấy
là một tấm lòng yêu nước trong sạch, kiên định theo chính sách của cụ Hồ?
Ông lấy làm vui mừng trước sự mất mát
ấy vì cớ gì? Ông khoe nhà mình bị đốt sạch, đốt nhẵn như là minh chứng khẳng định
làng ông không theo giặc. Bởi lẽ, trong sự cháy rụi ngôi nhà của riêng ông là sự
hồi sinh về danh dự của làng Chợ Dầu anh dũng kháng chiến. Đó là một niềm vui kỳ
lạ, thể hiện một cách đau xót và cảm động tình yêu làng, yêu nước, tinh thần hy
sinh vì cách mạng của người dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống kẻ thù
xâm lược. Đối với những nông dân thật thà, chất phác thì họ thà hi sinh những
ruộng nương, nhà cửa chứ nhất định không chịu làm nô lệ, không chịu cảnh mất nước.
Nhà thơ Anh Byron đã từng viết: “Kẻ
nào không yêu quê hương, đất nước thì họ chẳng có thể yêu gì cả”. Tinh thần yêu
nước của ông Hai đã bừng sáng cao hơn cả tình yêu ngôi làng thân thương của
mình. Sự nâng cao tình cảm ấy là nét đáng quý trong tâm hồn của nhân vật – một
con người yêu nước, yêu làng.Tác phẩm khép lại nhưng tinh thần, vẻ đẹp của nhân
vật ông Hai, của người nông dân thì để lại trong lòng người đọc những ấn tượng
khó quên. Ông đại diện cho vẻ đẹp tâm hồn của người nông dân Việt Nam thời kỳ
kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược: Yêu làng, yêu đất nước và gắn bó với
kháng chiến. Bởi vậy mà truyện ngắn “Làng ” xứng đáng là một trong những truyện
ngắn xuất sắc của nền văn học Việt Nam hiện đại.
Nhà văn Kim Lân đã thật khéo léo xây
dựng hình tượng nhân vật, một lão nông dân nghèo khổ nhưng tình cảm mà ông dành
cho làng, cho nước thì vô cùng sâu đậm, nồng nàn. Ông Hai là biểu tượng cho người
nông dân trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp kiên định và một lòng yêu nước
tha thiết. Sự thành công của truyện có lẽ do sự am hiểu gần gũi giữa nhà văn và
đời sống nông thôn Việt Nam. Đi từ cách nghĩ đến hành động, những màn đánh vào
tâm lí người đọc qua những lời lẽ của nhân vật làm cho tác phẩm dễ hiểu và dễ đồng
cảm nơi độc giả. Khi đọc Làng, ít nhiều sẽ có người tin rằng đó phải là một
nhân vật ông Hai đời thường bước vào trang văn của Kim Lân không phải là truyện
ở dạng hư cấu. Nét tạo hình và miêu tả tâm lí được xây dựng một cách đặc sắc.
Tác giả để nhân vật yêu làng, làm bước đòn bẩy để bật lên tinh thần yêu nước mạnh
mẽ, nồng nàn. Nghệ thuật đòn bẩy đã được cài sẵn khéo léo cộng với cách dẫn dắt
câu chuyện tự nhiên, giọng văn giản dị đã tạo nên nét nghệ thuật hấp dẫn cho
tác phẩm.
Tóm lại, bằng nghệ thuật miêu tả tâm
lí nhân vật và cách xây dựng tình huống truyện hợp lí, kết hợp vài yếu tố bất
ngờ, nhà văn Kim Lân đã kể một cách trọn vẹn câu chuyện về tình hình làng quê
và tâm hồn nông dân Việt Nam trong thời buổi kháng chiến đầy khó khăn. Qua tác
phẩm Làng nói chung và nhân vật ông Hai nói riêng, ta thấy tình yêu làng thống
nhất cùng với tình yêu quê hương đất nước. Đồng thời, ngay cả bản thân tác phẩm
còn gửi đến người đọc một thông điệp sâu sắc về lẽ sống cao đẹp, một lẽ sống mà
ngay khi con người còn tồn tại trên thế gian này, hãy biết yêu thương nơi mình
sinh ra và lớn lên, hãy biết trân trọng và luôn tin tưởng về một tương lai tươi
sáng…